Trước khi trời sập tối, Tửng ráng dỡ nốt những thanh gỗ mục quây quanh chuồng bò. Chúng đã ở đây mấy chục năm, hứng mưa hứng nắng, trơ thân chống đỡ những cơn hứng sảng bất ngờ của bầy bò, ràng chân tụi nó lại giữa đêm hôm.
Trước khi có chuồng, bò được cột vô bụi tầm vông sau nhà. Tai bò nhạy, hễ khuya nghe tiếng xe của ông nào nhậu đêm về ngang là chúng bứt dây dí sảng. Má con Tửng nhiều phen phải móc sạch túi đền thuốc thang cho "ma men" xóm.
Vậy mà Tửng cũng không hề trách móc bầy bò câu nào. Tửng chỉ biết cười khề khà như ông già. Mà Tửng thì chắc cũng đã già, già từ lúc biết lon ton theo sau nắm đuôi bò giật cho nó đi nhanh, má đỡ cực khi phải hò hét bầy bò nhởn nhơ.
Má nói, nhận đền bù xong, lên đất chợ, má cất căn nhà lớn rồi Tửng cưới vợ về ở nghen? Tửng thờ ơ: "Chi vậy má?". Má trợn mắt: "Cưới vợ về sinh con cho mày chứ chi? Không thèm vợ con ha con?".
Tửng không ừ hử gì, lặng lẽ xách xe đạp đi chợ. Tửng biết đi chợ từ lúc nó nhảy lưng bò rành rọt, thuần thục đến mức con bò nào bị nó nhảy lên lưng cũng ngoan ngoãn bước đều ra đồng, không dám hó hé chống đối.
Tửng biết lựa bó rau nào ngon, thịt cá phần nào tươi. Tháng nào khắc nghiệt quá, bò thịt chưa đến lứa xuất chuồng, má con Tửng ăn uống dè chừng nhưng chiều nào bầy bò cũng được phần cỏ xanh non mướt mát.
Những lứa bò lớn phổng phao đều nhờ Tửng mát tay nuôi. Hay nhờ cái tình của nó. Má nghĩ vậy. Bởi nếu Tửng không có tình thì má chắc gì giờ được thảnh thơi nằm võng nghe cải lương chùi nước mắt ủ ê cho số phận mấy cô đào. Biết đâu nước mắt đó sẽ dành để khóc cho chính mình.
Hồi ba Tửng đi, ông không ngoảnh đầu lại lần nào nhìn cái nơi thum thủm nước đái bò. Thậm chí, mỗi năm Tửng lớn khôn thêm chút, nghe tin ông ở chỗ nào cũng dò la tới kiếm, bị ông đuổi thẳng thừng.
Tao ngấy cái mùi bò của má con mày lắm rồi, dang ra đi. Mấy đứa con sau này của ba trắng trẻo thơm tho, nhìn Tửng đầy dấu hỏi. Tửng lủi thủi về, tay nó gồng như muốn thoi nắm đấm. Má không khóc, trừ lúc coi cải lương, nào giờ má không có khóc, kể cả lúc ba đi biệt.
Chỉ có Tửng ôm đầu bò khóc nức. Nếu không nhờ tiền bán đàn bò khăm khẳm, chắc gì ba có mấy bộ đồ tây sang trọng mặc đi làm ăn. Mà thôi, Tửng chỉ nghĩ đơn giản là mình vẫn còn có má, có bầy bò, vậy là đủ đầy. Hai má con, cứ vậy mà trôi qua theo tháng năm, dù tháng năm có vương mùi khăm khẳm.
Lúc bán bầy bò cuối cùng, Tửng lại khóc một trận tưởng trôi sông dạt chợ. Không hỏi nhưng má biết sao nó khóc. Má lặng lẽ dọn quét cái sàn đất còn ướt nước đái bò, gom hết cỏ thừa cùng mớ ván gỗ đem đốt. Tất cả thành đống tro tàn nhưng mùi bò vẫn ngai ngái len vào tận giấc mơ của hai mẹ con. Hôm dọn đồ lên xe tải chuyển nhà, Tửng quỳ sụp chỗ chuồng bò vái lạy.
Thời gian và tiền bạc khiến người ta phải đứt đoạn với quá khứ. Rồi cái nhà của hai mẹ con cùng cái chuồng bò, nay mai sẽ là một mảnh nào đó trong cái công viên rộng 36 hecta - lá phổi xanh của một thành phố thu nhỏ đầy ắp nhà cao tầng lộng lẫy xuyên vòm trời. Má con Tửng sẽ không tìm được miếng bùn đất nào từ nơi này nữa, đừng nói là mùi bò.
Hôm ký sổ nhận tiền đền bù, má con Tửng ngồi thừ ra cả buổi, quên cả ăn uống. Không phải vì số tiền quá lớn biến má con thành tỉ phú. Chân má, chân Tửng đều đã nứt ra, một phần da thịt đã vùi lại đâu đó trên những mảnh ruộng nhão nhoẹt này. Tim óc Tửng cũng ám nghẹt mùi bùn đất, mùi cỏ, mùi bò.
Nhưng rồi Tửng cũng buộc phải làm quen với cái mác người thành thị, cũng tập tành làm ăn, bán buôn các kiểu. Lạ lùng là, đêm ngủ Tửng vẫn hay mơ mình rong ruổi sau lưng bầy bò. Chúng nện những chiếc móng cồm cộp trên mặt đường nhựa, thủng thỉnh giật thót nhảy lên vỉa hè khi nghe tiếng còi xe hơi, ngơ ngác, quáng quàng.
Có tiền, má Tửng vẫn thấy buồn. Mới hôm nọ, Tửng thẳng thừng từ chối cô gái cùng xóm năm xưa má "chấm" làm dâu. Con người ta ngon lành vậy, sao bây chê? Cứ vậy, tới chết chắc má cũng chưa có dâu.
Má đâu biết, má giận một, Tửng giận mười. Cái người đó, hồi xưa Tửng từng một lần hỏi ướm chuyện cưới xin. Cái người đó, không ừ không hử, chỉ hỏi: "Chắc anh cũng có cái gen của ba? Cha nào con nấy mà!".
Câu hỏi đó đã chặn đứng cơn "thèm vợ" của Tửng. Sau này Tửng mới biết người ta chê Tửng có "mùi bò", chê Tửng nghèo, nên mới vòng vo mỉa mai qua chuyện ba Tửng. Giờ Tửng ở nhà lầu, thành "thị dân", chắc người ta nghĩ Tửng nhờ đồng tiền rửa sạch mùi bò nên tìm đến nhắc chuyện cưới xin.
Nhắc tới ba, không dưng Tửng nhớ cái chuồng bò. Lần cuối cùng Tửng tìm ba, ông phá sản gần như trắng tay, cùng vợ con rời đi biệt tích.
Nhớ ba, Tửng chỉ còn biết tìm về cái chuồng bò, dù đã muốn quên nó lắm. Tửng về liền trong buổi chiều hôm đó. Cái chuồng bò nhà Tửng giờ là cái bồn hoa khổng lồ, rực rỡ trong công viên lúc nào cũng dập dìu người ra hóng mát. Tửng ngồi ghế đá, gió mát lùa những ký ức xưa cũ ùa về.
Trong cơn mơ ngủ, Tửng thấy ba xắn tay áo ôm từng bó cỏ cho bầy bò ăn, thong dong. Tửng còn được ba xoa đầu đầy trìu mến, chứ không phải kêu Tửng dang ra đi.
Rồi giấc mơ của Tửng tan ra dưới ráng chiều đỏ ối. Mắt người đàn ông đứng trước mặt Tửng cũng đỏ hoe. Tửng run lên. Tay người đàn ông cũng run lên. Ông không nghĩ đến gần cuối đời mình còn tìm lại được đứa con mà ông hắt hủi bấy lâu.
Trong ráng chiều, ông khóc.
Kết Thúc (END) |
|
|