Trong khi họ tiến bước, không có gì chứng tỏ với các tù nhân là họ không đi quay trở lại những nơi mà họ đã đi qua hồi khuya tới buổi chiều khi mặt trời lên. Những quả đồi đen xẫm và cát vàng theo dọc bờ sông đã biến mất từ lâu rồi, họ thấy mình đang ở giữa một cánh đồng chập chùng, màu nâu với những hòn đá cuội tròn trịa, rải rác những cụm cỏ của lạc đà, và nó chạy dài mãi tới một dãy đồi tím, ở đằng xa trước mặt họ. Mặt trời còn chưa mọc khá cao để gây ra những ánh phản quang long lanh của miền nhiệt đới và cái phong cảnh mênh mông hiện ra với một sự rõ ràng tuyệt đối trong ánh sáng trong trẻo. Ðoàn người dài bước theo nhịp lê lết của những con lạc đà có đóng yên. Ở hai bên hông đoàn người, những tên lính do thám dừng lại ở mỗi chỗ gò cao, và xem xét chân trời phía đông trong lúc che mắt lại.
"Theo ý ông thì chúng ta ở cách sông Nil bao nhiêu xa?" ông đại tá hỏi.
Chính ông cũng luôn luôn ngoảnh lại để đo lường sự bao la của sa mạc.
"Ít nhất là tám mươi cây số! " Belmont trả lời. "Không nhiều thế đâu!" ông đại tá cãi lại. "Chúng ta đã không đi quá mười lăm hay mười sáu giờ, và một con lạc đà không đi được trên bốn cây số một giờ nên nó không chạy nước kiệu. Ðiều này rút bớt khoảng cách chừng sáu mươi hay sáu mươi lăm cây số: tuy nhiên thật quá xa, tôi sợ thế, để cho chúng ta được giải cứu. Tôi không nghĩ rằng thời hạn ban cho chúng ta sẽ giúp chúng ta được điều gì lớn lao đâu. Chúng ta có gì để hy vọng? không có gì khác ngoài cái số mạng đang đợi chúng ta!"
"Chớ có chán nản!" người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói lớn. "Chuông báo chính ngọ chưa rung mà, phải làm nhu thể, Hamilton và Hedley, trong đạo binh lạc đà đều là những chàng trai dũng cảm, họ phải xông vào theo các dấu vết của chúng ta. Họ không có những con lạc đà đóng yên để làm họ phải chậm trễ, tôi cam đoan với ông! Tối hôm qua khi tôi dùng bữa với họ ở câu lạc bộ và khi họ giải thích với tôi cách thức họ chống trả lại một cuộc cướp bóc, tôi đã không nghĩ rằng tính mạng của chúng sẽ lệ thuộc vào họ".
"Cũng được, chúng ta sẽ theo đuổi cuộc chơi cho tới cùng!" Cochrane nói. "Nhưng tôi không có nhiều hy vọng lắm. Tất nhiên là chúng ta sẽ phải làm ra bộ cứng cỏi trước các phụ nữ. Tôi nhận thấy rằng Tippy Tilly là một người đúng mực, vì năm tên da đen này và hai tên Ả Rập đen xạm kia đúng là những người bạn mà y đã nói với chúng ta. Họ không rời xa nhau, vẫn đứng ngang tầm với chúng ta; nhưng tôi tự hỏi họ sẽ có thể làm được điều gì để giúp chúng ta".
"Tôi đã lấy lại khẩu súng lục của tôi rồi.... ", Belmont nói thầm thào.
Ông nghiến răng và co giật hai quai hàm trước khi nói tiếp:
- ...Nếu chúng liều mạng đùa với các phụ nữ, tôi nhất quyết hạ sát cả ba người trong bọn họ bằng chính tay tôi, sau đó chúng ta sẽ chết, linh hồn thanh thản hơn!
"Ông là một anh chàng phong nhã!" ông đại tá lẩm bẩm.
Họ im tiếng. Vả lại cũng không ai nói nhiều cả. Một cảm giác mơ hồ không thể diễn tả được đang tràn ngập tất cả bọn họ, làm như họ đã nuốt một viên ma túy. Bao giờ tạo hóa cũng cho ta một thứ thuốc an thần khi một cơn biến động khốc liệt đã kích thích quá nhiều thần kinh của ta, sự thanh thản an bình của nỗi tuyệt vọng đã chiếm ngự lòng họ.
"Thật là đẹp một cách ma quỉ!" Cochrane thở dài khi nhìn chung quanh ông. "Tôi thường nghĩ rằng tôi thích được chết trong làn sương mù vàng, lành mạnh của Luân Ðôn, nhưng chúng ta sẽ có thể thấy sự tệ hại hơn".
"Còn tôi, thì tôi thích chết trong lúc ngủ" Sadie nói. "Thật là một điều kỳ diệu khi thức dậy và thấy mình đang ở một thế giới khác! Ở đại học, Henry Smith luôn luôn nhắc nhở chúng tôi: "Ðừng nói với tôi một đêm tốt lành", mà hãy cầu chúc cho tôi "một buổi sáng tốt đẹp trong một thế giới hoàn mỹ".
Bà cô theo thanh giáo của nàng lắc đầu.
- Sadie này, trình diện trước đấng tối cao mà không có sự chuẩn bị thì thật là khủng khiếp!
"Chính sự cô đơn của cái chết mới là khủng khiếp". Bà Belmont nói. "Nếu chúng ta cùng chết một lúc với tất cả những người mà chúng ta yêu mến thì chúng ta sẽ hình dung cái chết một cách đơn giản như một sự thay đổi chỗ ở".
"Nếu sự bất hạnh xảy ra, chúng ta sẽ không bị cô độc" , ông chồng bà đính chính. "Tất cả chúng ta sẽ cùng đi với nhau, và ở thế giới bên kia chúng ta sẽ gặp Brown, Headingly và Stuart đang chờ đợi chúng ta".
Người đàn ông Pháp nhún vai, ông không tin ở một kiếp sống khác sau cái chết, nhưng ông ghen tị với hai người công giáo về sự thanh thản trong lòng tin của họ. Ông cười thầm khi nghĩ tới các bạn ông ở tiệm cà phê Cubat sẽ nói gì nếu họ biết rằng ông đã hy sinh mạng sống trên bàn thờ của tín ngưỡng Cơ đốc, cái ý nghĩ này càng làm ông thấy vui vui, thì nó lại càng làm ông bực bội, việc này không ngăn cản ông săn sóc cái cổ tay bị thương của ông như một bà mẹ ấp ủ đứa bé đau ốm của bà.
Ngang qua bãi sa mạc lởm chởm đá, một đường màu vàng dài và mỏng theo hướng từ Bắc tới Nam vừa mới hiện ra. Đó là một giải cát mà bề rộng không quá vài trăm mét và những chỗ phình lên cũng không vượt quá ba mét bề cao. Các tù nhân kinh ngạc khi thấy những tên Ả Rập ngắm nhìn nó với một nét mặt cực kỳ áy náy: khi chúng đi tới trước cái mép của nó, chúng dừng lại giống như khi chúng đứng trên bờ một con sông không lội qua được. Loại cát này rất nhẹ, nhiều bụi bặm, mổi luồng gió nhẹ cũng làm bay tung lên như một đám mây những con ruồi nhỏ, tù trưởng Abderrahman cố thúc con lạc đà của y vào bên trong, nhưng đi được hai hay ba bước thì con vật đứng khựng lại, rên rỉ vì khiếp sợ. Hai tên chỉ huy bàn bạc với nhau một lát, rồi đoàn người đi về hướng Bắc, để lại giải cát ở phía bên trái họ.
"Có chuyện gì vậy?" Belmont hỏi anh thông ngôn. "Tại sao chúng ta không tiếp tục đi thẳng về hướng Tây?"
"Cát di động", Mansoor trả lời. Thỉnh thoảng gió cuốn cát đi thành một vạch dài như cái vạch kia. Ngày mai nếu gió nổi lên, có lẽ sẽ không còn lại một hạt nào, nhưng tất cả đống cát kia sẽ du ngoạn trên không trung. Có lần một người Ả Rập bị buộc phải rẽ ngang ra tới tám mươi hay một trăm cây số để đi vòng qua một dải cát di động. Nếu y muốn bước qua nó thì con lạc đà của y sẽ bị gẫy chân, và chính y cũng sẽ bị hút vào và nuốt chửng".
- Chiều dài của cái dải này là bao nhiêu?
- Không ai biết gì về nó cả.
- Này ông Cochrane, đó là diều thuận lợi cho chúng ta! Cuộc truy lùng càng dài thì những con lạc đà còn sung sức càng có nhiều cơ may.
Ðã đến lần thứ một trăm Belmont quay đầu lại để quan sát chân trời phía sau họ: bãi sa mạc rộng lớn lúc nào cũng nâu và ảm đạm nhưng không có một chút lấp lánh của ánh thép, không có sự óng ánh của một cái mũ trắng.
Chẳng mấy chốc họ đi tới chỗ tận cùng của vật chướng ngại đã ngăn cản bước tiến của họ về hướng Tây. Dải cát kéo dài trong khi co hẹp lại, khi nó trở thành đủ hẹp để có thể bước qua bằng một cái nhảy, tuy nhiên những người Ả Rập thích đi dọc theo nó trong nhiều trăm mét nữa hơn là đi qua nó. Nhưng khi những con lạc đà lại thấy mặt đất tốt và rắn trước mặt chúng thì chúng bị thúc chạy nước kiệu và những tù nhân bị lắc lư trong một thứ chòng chành và nghiêng ngả kết hợp với nhau. Thoạt đầu họ mỉm cười về chuyện này; nhưng trò chơi đã mau lẹ biến thành bi kịch khi bệnh "say lạc đà" khủng khiếp làm họ đau đớn khắp mình mẩy và xương sống.
- Cô không chịu được nữa rồi, Sadie ạ! Cô Adams kêu lên. Cô đã làm những gì cô có thể làm. Cô sắp ngã đây này.
- Không, cô ơi, không! Nếu cô để mình bị ngã thì cô sẽ gãy xương. Hãy cố gắng thêm một chút; có lẽ họ sắp dừng lại đó!
- Cô hãy tựa người về đằng sau, ông đại tá nói, và nắm lấy mạn sau cái yên. Thế đó. Tư thế này làm dễ chịu...
Ông tháo tấm mạng trên mũi của ông, buộc hai đầu lại và cột nó vào cái mấu phía trước của cái yên.
- Luồn bàn chân cô vào cái vòng, như thể nó là một cái chân nâng...
Sự thoải mái đến ngay tức thì. Stephens cũng làm việc đó cho Sadie. Nhưng sau đó một lát, một trong những con lạc đà sụm xuống vì mệt nhọc, trong một tiếng lách cách khô khan, những bàn chân nó xoạc ra như thể nó bị xé thành nhiều mảnh; đoàn lữ hành phải sử dụng lại một nước đi chừng mực hơn.
- Ở đằng kia không phải là một dải cát di động nữa hay sao ? ông đại tá hỏi.
- Không, đó là một dải trắng. Belmont trả lời. Này, Mansoor, cái gì ở đằng trước chúng ta thế?
Anh thông ngôn lắc đầu.
- Thưa ông, tôi không biết gì cả. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó.
Từ Bắc tới Nam, một vạch trắng kéo dài ra, cũng thẳng tắp và rõ ràng như thể nó được kẻ bằng phấn. Nó rất mỏng, nhưng nó trải dài từ chân trời này tới chân trời kia. Tippy Tilly chỉ dẫn cho Mansoor.
- Ðó là con đường lớn của những đoàn lữ hành, ông thông ngôn giải thích.
- Vậy thì cái gì làm cho nó trắng như thế?
- Những hài cốt.
Thật không thể tin được, nhưng có thật! Khi họ đi tới gần, họ nhận thấy quả thực đó là một lối đi băng qua sa mạc, bị khoét sâu xuống bởi sự dẫm đạp của những con vật và những con người, và được cắm mốc một cách quá phong phú bằng những bộ xương người khiến cho người ta ấn tượng của một dải khăn trắng dài liên tu bất tận. Những con vật nằm duỗi dài, nom ghê gớm cắm mốc trên con đường, trong khi ở nhiều chỗ những dãy xương sườn nối tiếp nhau quá gần khiến người ta tính nói đó là cái xác của một con rắn quái dị. Con đường trắng lậpp lòe dưới ánh mặt trời như thể nó được lát bằng ngà. Từ mấy ngàn năm nay nó đã là con đường lớn xuyên qua sa mạc và tất cả những con vật của vô số kể các đoàn lữ hành đã chết ở đó đều được bảo tồn bởi không khí khô ráo và sát trùng. Do đó người ta không phải ngạc nhiên là không thể dẫm lên con đường mà không đồng thời dẫm lên những bộ xương của chúng.
- Ðây hẳn là con đường mà tôi đã nói với cô, Stephens nói. Tôi nhớ là đã nói tới nó trên tấm bản đồ mà tôi đã vẽ cho cô, cô Adams ạ. Sách chỉ nam của Baedeker nói là nó đã không được sử dụng từ khi cuộc nổi loạn của bọn thầy tu Hồi giáo làm gián đoạn mọi việc buôn bán, nhưng nó là con đường chính cho phép da thú và nhựa cây ở Darfour đi xuống tới Ai Cập Hạ.
Họ nhìn con đường với sự hững hờ: số phận của chính họ đã làm cho họ bận tâm khá nhiều rồi. Tới đó đoàn lữ hành đi theo hướng Nam bằng cách đi theo con đường cũ. Con đường Golgotha này (theo Kinh Thánh, đó là con đường mà Chúa Ki - Tô đi tới nơi bị hành quyết, con đường chết) thật đúng là con đường thích hợp với nỗi thống khổ đang chờ đợi họ.
Giờ phút quyết định tới gần : số phận sắp đùa với họ. Bị kinh hoàng vì những viễn tượng rùng rợn mà ông hình dung ra đối với các phụ nữ, đại tá Cochrane, phải cố nén tính kiêu ngạo và cầu khẩn những lời khuyên của anh thông ngôn bội giáo, Mansoor là một tên đểu cáng và hèn nhát, nhưng vốn là người Ðông phương nên hắn hiểu tính tình của người Ả Rập. Sự trò chuyện đã làm dễ dàng việc giao dịch của hắn với bọn thầy tu Hồi giáo, và hắn đã làm cho chúng nói năng dông dài. Tâm tính cứng rắn và quý tộc của Cochrane nổi lên chống cự dữ dội với ý nghĩ đi cầu khẩn lời khuyên của một con người như thế; cuối cùng, khi ông quyết định làm việc đó, ông nói với một giọng khản khản nhất và ít hòa dịu nhất.
- Anh biết rõ những tên kẻ cướp này, và anh có cùng một cách suy nghĩ về các biến cố như chúng, ông nói: Mục đích của chúng tôi là kéo dài tình trạng này trong hai mươi bốn giờ đồng hồ nữa. Một khi thời hạn đó trôi qua rồi, chúng tôi ít còn quan tâm "tới những gì: sẽ tới với chúng tôi nữa, vì chúng tôi sẽ không còn hy vọng được giải cứu nữa. Vậy làm cách nào để lần khân thêm được một ngày nữa?
- Ông đã biết những gì tôi nghĩ về việc này, anh thông ngôn trả lời. Tôi đã nói với ông điều đó rồi. Nếu các ông làm như tôi, chắc chắn là các ông sẽ tới được Khartoum một cách yên ổn, khỏe mạnh. Bằng không thì các ông sẽ không còn sống để rời khỏi chỗ trạm dừng chân sắp tới của chúng ta.
Cái mũi cong của ông đại tá lại vểnh lên và hai gò má gầy ốm của ông ửng đỏ. Ông lặng lẽ tiến bước trong một lúc, vì thời gian phục vụ ở Ấn Ðộ đã tạo cho ông một tính nết lì lợm, và những cuộc phiêu lưu mới đây lại bổ sung thêm cho ông đôi chút ranh mãnh. ông đợi tới lúc có thể nói chuyện một cách điềm tĩnh.
- Hãy gác ý kiến đó sang một bên, cuối cùng ông nói. Có những việc có thể làm được và có những việc khác không thể làm được. Việc đó không thể làm được.
- Ông chỉ cần làm giả bộ là cải giáo.
- Việc đó đã nói nhiều rồi!
Mansoor nhún vai.
- Ông hỏi ý kiến tôi làm gì, nếu ông tức giận khi tôi cho ông biết ý kiến của tôi? Nếu ông không muốn hành động như lời tôi khuyên thì ông hãy cứ làm việc gì mà ông cho là phải đi. Ít nhất ông sẽ không thể nói là tôi đã không làm hết sức mình để cứu các ông.
- Tôi không tức giận, ông đại tá trả lời với một giọng đỡ khô khan hơn. Nhưng như thế sẽ là hạ thấp chúng tôi tới quá mức mà chúng tôi có thể chịu đựng. Tôi nghĩ tới một việc khác. Có thể anh sẽ bằng lòng nói cho cái lão thầy tu và tên thầy giảng kia biết rằng chúng tôi đã bắt đầu nao núng. Với cái hố sâu mà chúng tôi đang bị lún xuống, tôi không nghĩ rằng hắn ta cho việc đó là bất bình thường. Rồi tới khi hắn ta tới giảng dạy cho chúng tôi, chúng tôi sẽ có thể đóng kịch giả vờ là quan tâm tới các bài giảng của hắn, yêu cầu hắn hoàn chỉnh sự học hỏi của chúng tôi và như vậy để kéo dài công việc trong hai mươi bốn tiếng hoặc bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Anh không nghĩ đó là ý kiến tốt nhất hay sao?
- Các ông sẽ làm điều gì các ông muốn, Mansoor nói. Tôi chỉ cho các ông biết ý kiến của tôi một lần thôi. Nên ông muốn tôi nói với tên thầy giảng, tôi sẽ nói với hắn. Hắn là cái người nhỏ thó, tròn xoe, có vẻ hiền lành, có chòm râu bạc, ngồi trên con lạc đà màu hạt dẻ. Tôi có thể đoan chắc với ông rằng hắn đã nổi tiếng là một tay đạo sư giỏi trong việc cải đạo cho những kẻ vô tín ngưỡng, và danh tiếng của hắn là sự kiêu hãnh của hắn, và chắc chắn là hắn sẽ thích thấy các ông được tha chết, nếu hắn nghĩ rằng có cơ may cải giáo cho các ông theo đạo Hồi.
- Nói với hắn rằng chúng tôi có tâm hồn cởi mở và sẵn sàng đón tiếp những hạt mầm tốt, ông đại tá khẩn khoản nói. Tôi không tin rằng ông mục sư sẽ còn sống tới lúc đó, nhưng vì ông đã chết nên chúng tôi có thể làm sự nhượng bộ này. Mansoor, đi tìm hắn đi và nếu anh làm việc tốt, chúng tôi sẽ quên những chuyện đã qua. Nhân tiện tôi hỏi, Tippy Tilly có nói gì với anh không?
- Thưa ông, không. Hắn đã tụ tập những người của hắn ở quanh hắn, nhưng hắn vẫn chưa tìm ra cách để giúp các ông.
- Tôi cũng chưa có cách gì cả. Anh đi gặp tên thầy giảng đi, trong khi tôi cho những người khác biết về kế hoạch của chúng ta.
Tất cả các tù nhân đều tán thành kế hoạch của ông đại tá ngoại trừ cô gái già ở Tân Anh Cát Lợi (Nouvelle Angleterre trên đất Mỹ) là thẳng thắng bác bỏ việc giả vờ có một mối quan tâm nào đó với đạo Hồi.
- Tôi nghĩ rằng tôi đã quá già để quỳ gối trước thần Baal! Cô nói.
Trước những lời năn nỉ của ông đại tá, cuối cùng cô đã hứa là cô sẽ không biểu lộ sự phản đối về những gì mà các bạn cô sẽ có thể nói hay làm.
- Và ai sẽ ra tranh luận với tên thầy giảng kia? Fardet hỏi. Ðiều quan trọng là cuộc tranh luận phải diễn ra một cách hết sức tự nhiên, vì nếu hắn cho rằng chúng ta chỉ cố tìm cách kéo dài thời gian, hắn sẽ từ chối không giảng dạy thêm cho chúng ta nữa.
- Tôi thấy rằng, Cochrane sẽ phải đảm trách việc này bởi vì ý kiến xuất phát từ ông, Belmont nói.
- Xin tha lỗi cho tôi! Người đàn ông Pháp nói lớn. Tôi không muốn nói điều gì chống lại ông bạn đại tá của chúng ta, nhưng không thể nào cùng một người mà lại vượt trội về mọi thứ được. Nếu ông ấy đảm trách việc này tức là đi thẳng tới sự thất bại; tên thầy giảng sẽ phát hiện ngay ra mánh khóe của ông đại tá.
- Ông tin vậy à ? Ông đại tá hỏi với vẻ uy nghi.
- Phải, ông bạn ạ, hắn sẽ đọc thấy ở ông! Cũng giống như phần lớn các đồng bào của ông, ông hoàn toàn thiếu cảm tình đối với các tư tưởng của những dân tộc khác, và đó chính là khuyết điểm lớn mà tôi thường trách cứ nước các ông.
- Ồ, hãy dẹp chuyện chính trị đi! Belmont không nhịn được nữa.
- Tôi không nói chuyện chính trị! Tôi nói chuyện thực tế. Làm cách nào mà đại tá Cochrane có thể làm cho tên thầy giảng tin rằng ông thực sự quan tâm tới tôn giáo của hắn, trong khi đối với hắn thì trên thế giới không còn một tôn giáo nào khác ngoài tôn giáo mà cái giáo phái nhỏ bé từng nuôi dạy hắn đã nhồi nhét cho hắn? Tôi xin nói thêm cho ông đại tá biết là tôi tin chắc rằng ông không có một chút tính nết nào của kẻ đạo đức giả. Ông sẽ không bao giờ có thể đóng màn kịch đủ khéo để đánh lừa tên Ả Rập đó!
Ông đại tá có một cái lưng cứng cỏi và bộ mặt cương nghị của một người đang tự hỏi rằng ông có nên coi đó là bị sỉ nhục hay được tán tụng.
- Vậy thì ông hãy đảm nhận cuộc tranh luận đi, nếu ông thích làm việc này, cuối cùng ông nói. Tôi rất sung sướng được thoát khỏi công việc khổ cực này.
- Quả thật tôi nghĩ rằng tôi là người thích hợp nhất với nhiệm vụ này, vì tất cả các tôn giáo đều làm cho tôi quan tâm như nhau. Khi tôi tìm hiểu, thì thật sự là tôi mong muốn được hiểu biết, chứ không phải để đóng một vai trò.
- Ðiều tốt nhất chắc chắn là việc ông Fardet đảm trách chuyện này, bà Belmont nói với một giọng quả quyết, giọng nói của bà đã tập hợp được sự nhất trí của mọi người.
Mặt trời lúc này đã lên cao, và nó làm lóe sáng những bộ xương trắng cắm mốc trên đường. Khổ hình của sự khát nước lại hành hạ những tù nhân. Trong lúc họ bước đi, hình ảnh cái phòng trên tàu Korosko nhảy múa trước mặt họ như một ảo ảnh; họ nhìn thấy những khăn bàn ăn và những khăn mặt trắng tinh, cái thẻ của những chai rượu nho, những cái cổ dài của những cái chai, những chai nước có khí hơi. Sadie, người vẫn khỏe khoắn, tỉnh táo cho tới lúc này, bỗng nhiên lên một cơn u uất thật sự, và những tiếng cười vô cớ sắc nhọn của nàng đã làm các bạn đồng hành của nàng bực bội một cách khủng khiếp. Bà cô của nàng và ông Stephens cố hết sức làm nàng im tiếng cười, và sau một lát cô thiếu nữ kiệt sức, bị huyết áp lên cao, đã chìm vào trạng thái nửa chừng giữa giấc ngủ và sự hôn mê, chỉ còn níu lấy một cách lỏng lẻo cái núm của cái yên, chắc chắn là nàng sẽ ngã nếu nàng không được mọi người vây quanh nâng đỡ những con vật tải đồ cũng mệt mỏi như các người cưỡi chúng; những người này phải luôn tay kéo sợi dây thừng buộc vào đai bịt mồm, để ngăn không cho chúng quỵ xuống. Từ chân trời này tới chân trời nọ, trải dài cái vòm mông mênh của bầu trời xanh không một vết gợn; mặt trời lầm lì bò dọc theo cái lòng chảo dữ dội của nó.
Họ vẫn đi dọc theo con đường mòn cũ, nhưng họ đi rất thong thả. Nhiều lần hai tên tù trưởng tới xem xét những con lạc đà chở các tù nhân, và chúng lắc đầu. Con vật chậm chạp nhất do một tên lính Soudan bị thương cưỡi; nó đi khập khiễng và nó chỉ giữ được ngang hàng với những con khác nhờ sự thêm sức của những nhát roi. Tù trưởng Wad Ibrnhim giơ súng lên, tì vào vai và bắn một phát đạn vào đầu nó. Người lính bị thương ngã xuống bên cạnh con vật hắn cưỡi. Những người bạn trong cơn bất hạnh quay đầu lại và thấy hắn lảo đảo đứng dậy. Ngay cùng lúc đó một tên baggara từ trên mình lạc đà nhảy xuống, thanh gươm trong tay.
- Chớ có nhìn! Belmont nói lớn với các phụ nữ.
Tất cả bọn họ đều quay đầu về hướng Nam. Họ không nghe thấy một tiếng ồn nào. Nhưng một lát sau tên baggara đuổi kịp bọn họ. Hắn chùi thanh gươm lên lông cổ con lạc đà của hắn, lúc đi qua hắn nở một nụ cười nham hiểm với họ, nhe tất cả hàm răng trắng ởn của hắn ra. Nhưng những con người đang ở mức độ thấp nhất trong sự khốn khổ của loài người ít nhất cũng có một sự bảo đảm về tương lai: nụ cười khả ố này sẽ làm cho họ phát run lên hai mươi bốn giờ trước đây, nhưng lúc này thì nó chỉ gợi lên trong lòng họ một sự bất cần khinh bỉ.
Nếu họ mà ở trong tình trạng quan sát con đường mòn cũ kỹ của khách thương này với con mắt người du ngoạn thì họ đã chú ý tới rất nhiều điểm đáng quan tâm. Chỗ này, chỗ nọ còn thấy những cảnh hoang tàn suy sụp của những tòa lâu đài cổ, cổ quá đến nỗi chúng thách đố lịch sử, nhưng chúng đã được xây dựng vào thời một nền văn minh rất xa xưa với mục đích cung cấp cho các lữ khách một nơi tránh nắng và một chỗ trú ẩn chống lại bọn kẻ cướp. Những viên gạch đất bùn được dùng trong việc xây dựng chúng chứng tỏ rằng các vật liệu đã được chuyên chở từ sông Nil tới. Một lần đứng trên chóp đỉnh của một khu đất nhỏ gồ lên họ thấy một khúc cột bằng đá hoa cương đỏ ở Assouan bị gãy; nó được trang hoàng hình tượng có cánh của vị thượng đế Ai Cập với khuôn ảnh của hoàng đế Ramsès ÌI. Sau ba ngàn năm không có cách nào để tránh khỏi những dấu vết không thể xóa bỏ được của ông vua ham chiến trận! Ðối với các tù nhân khuôn ảnh này là một biểu tượng của hy vọng, dấu hiệu là họ vẫn chưa rời khỏi phạm vi ảnh hưởng của người Ai Cập.
- Ngày xưa họ đã để danh thiếp lại, Belmont nói. Tại sao họ không tới để danh thiếp lại một lần nữa?
Và mọi người đều gắng gượng mỉm cười.
Rồi họ đi tới trước một quang cảnh nhìn rất đã mắt, chỗ này, chỗ nọ, trong nhữmg nơi đất lõm, ở hai bên con đường mòn, họ nhìn thấy một vài cọng cỏ, sự hiện diện này có nghĩa là nước không cách xa mặt đất. Ðột nhiên con đường mòn đi sâu vào một lòng chảo lớn, dưới đáy lòng chảo là một khu rừng nhỏ những cây cọ trông thật mê hồn và một bãi cỏ xanh rờn tráng lệ. Mặt trời chiếu sáng chan hòa cái vệt có màu sắc trong sáng và tươi tắn này, ánh nắng làm nó lóng lánh như một viên ngọc bích thuần khiết được nạm vào miếng đồng bóng loáng. Nhưng vẻ đẹp của ốc đảo không làm quên được những hứa hẹn chứa chất trong nó: nước, bóng mát, tất cả những thứ mà những kẻ lữ hành đã kiệt sức có thể mong ước. Ngay cả Sadie cũng tỉnh lại khi nàng nhìn thấy phong cảnh tươi tốt này, những con lạc đà mệt lử lại đứng lên và bắt đầu chạy nước kiệu trong khi thở hít khí trời. Sau sự khắc nghiệt tàn nhẫn của sa mạc, các tù nhân không thể nhìn thấy điều gì tốt đẹp hơn nữa. Họ ngắm nghía bãi cỏ trên đó những bóng đen của các cây cọ đổ dài, rồi họ ngẩng mặt lên nhìn những tàu lá xanh lớn nổi bật lên trong màu xanh của nền trời và họ quên đi cái chết cận kề của họ trước vẻ đẹp của Tạo hóa mà trong lòng của Người họ sắp trở về.
Ở giữa rừng cây có bảy cái giếng; cần phải thêm vào đó hai cái vũng nhỏ chứa đầy môt thứ nước màu than bùn. Những con lạc đà và mọi người chạy xô tới uống lấy uống để. Sau đó bọn Ả Rập cột những con vật lại và trải chiếu dưới bóng cây để ngủ. Các tù nhân lãnh được một suất chà là và những cái bánh khô; họ được cho biết rằng họ có thể làm những gì họ muốn trong lúc nóng nực lúc ban ngày, và tên thầy giảng sẽ tới thăm họ trước khi mặt trời lặn. Các phụ nữ được hưởng bóng mát dày hơn của một cây keo; những người đàn ông thì nằm dài ra dưới những cây cọ. Những tàu lá xanh kêu sột soạt một cách nhẹ nhàng bên trên đầu họ. Họ nghe thấy tiếng líu lo không rành rọt của các giọng nói Ả Rập, tiếng dậm chân của những con lạc đà; rồi thì do kết quả của một phép lạ bí ẩn và không thể hiểu được, người thì thấy mình đang đứng trong một thung lũng xanh tươi ở Ái Nhĩ Lan, người khác thì trông thấy viên cảnh của đại lộ Commonwealth, người thứ ba thì đang ăn ở một cái bàn nhỏ trước pho tượng bán thân của Nelson tại Câu lạc bộ Lục quân và Hải quân và tiếng xào xạc của những tàu lá trở thành tiếng các xe cộ đang chạy ở trong Pall Mall (con đường ở đó có trò chơi dùng vồ gỗ đánh những trái bóng gỗ). Cứ như vậy tâm tri họ di lang thang mỗi người một phía trên con đường của những ký ức riêng tư, trong khi thể xác buồn thảm của họ nằm trơ bên nhau, dưới những cây cọ của một ốc đảo trong sa mạc nước Libye. |
|
|