Từ đây đến nhà Chip Jones sẽ không mất quà mười lăm phút, như vậy tôi còn bốn mươi lăm phút trước khi đến hẹn lúc hai rưỡi với Cassie.
Còn nhớ thái độ ngần ngại của Cindy khi tôi hẹn đến sớm, tôi quyết định sẽ đến thẳng đó. Thử làm theo ý mình xem sao.
Đi theo chỉ dẫn của Jones, chẳng mấy chốc tôi đã ra đến đường 118 và lối rẽ thứ bảy được gắn biển hiệu Westvieww. Con đường dẫn đến nhà Jones quanh co đất sét đỏ, những khóm cây thưa thớt hai bên, còn lại chủ yếu là những vạt đồi gần như trơ trụi. Trên đường hầu như không có phương tiện nào qua lại mặc dù lúc này đang ban ngày.
Lái xe quanh co đến hơi mươi phút thì tôi nhận ra bên trái có tấm biển lớn bằng gỗ ghi những dòng chữ đỏ "Trang viên Westview".
Tận mắt thấy những dãy nhà màu vàng vắng lặng, tôi mới thấy có nhận xét của Jones về sự phát triển dân số ở đây hiện tại là có lý.
Vượt qua ngôi nhà bảo vệ tồi tàn đóng cửa bỏ không, tôi đi đến một con phố cũng vắng lặng không kém mang tên Sequoia Lane. Vỉa hè của con phố này mới như vừa được rửa.
Bên trái con phố là dãy tường phủ đầy dây leo. Đi thêm khoảng nửa dãy nhà nữa thì tôi nhận ra những ngôi nhà đầu tiên ở phía bên phải với lối kiến trúc khá sáng tạo.
Đó là những kiểu kiến trúc: giả Tudor, giả Hacienda, giả Regency, giả Ponderosa. Phía trước là các bãi cỏ và luống hoa. Trong khu vực này có cả bể bơi và sân tennis. Kiểu thiết kế biểu hiện của những ngôi nhà cũng rất hiện đại. Giờ làm việc, số điện thoại của một công ty bất động sản ở Agoura được ghi trên tấm biển nhỏ ở bãi cỏ trước ngôi nhà Regency. Tất cả các ngôi nhà đều đóng cửa và cửa sổ cũng tối om.
Tôi tiếp tục tìm khu phố Dunbar Court. Đó là khu thứ sáu trong dãy phố và ngôi nhà của gia đình Jones nằm phía trong cùng của khu phố được xây bằng vữa xtucô, xung quanh là khu chăn nuôi.
Ở giữa sân là 1 chiếc xe dùng để đẩy thức ăn, phía trước ngôi nhà có vài luống hoa. Bóng của dãy núi phía sau ngôi nhà làm cho người ta có cảm giác như nó được xây dựng theo kiểu mẫu đồ chơi của trẻ con. Không khí còn nặng mùi gia cầm.
Một chiếc xe tải nhỏ màu xanh xám hiệu Plymouth Voyager đỗ ở ngay lối đi cùng với chiếc xe tải lớn khác chứa đầy ống, vòi, vải lưới và chai lọ. Trên tấm biển trước cửa nhà có ghi dòng chữ: Trung tâm dịch vụ bể bơi ValleBbrite. Tôi đang đi vào thì chiếc xe tải lớn lao ra. Cũng may mà người tài xế nìhn thấy xe tôi nên khựng lại một chút. Tôi vẫy tay nhường đường cho anh ta ra trước.
Khi vào đến cửa, Cindy đã đứng đón ở đó nên tôi không cần gõ cửa. Chị ta gạt lọn tóc cho khỏi vướng và liếc nhìn đồng hồ:
- Chào bác sĩ - Giọng chị ta nghèn nghẹn như thể vừa lấy lại được hơi thở.
- Chào Cindy. Đường xá tốt hơn tôi tưởng.
- Ồ vâng. Mời bác sĩ vào nhà.
Chị ta không tết tóc nữa nhưng nó vẫn cong cong. Hôm nay chị ta mặc áo ngắn tay và quần soóc trắng rất ngắn. Đùi của chị ta trắng, hơi xanh nhưng nói chung là cân đối và thon. Chiếc áo sơ-mi tay cắt ngắn để lộ đôi cánh tay và bờ vai mảnh khảnh. Viền áo phía dưới chỉ che được đến eo. Khi giữ cửa mời tôi vào chị ta có vẻ không được tự nhiên cho lắm và để lộ nhiều khoảng da hơn tôi tưởng.
Khi tôi bước vào, chị ta nhẹ nhàng đóng cửa để không gây tiếng động mạnh. Căn phòng không rộng lắm được bày biện khá gọn gàng. Trên tường treo các bức ảnh của Chip, Cindy và Cassie và một đứa bé tóc đen xinh xắn.
Tôi để ý đến bức ảnh Cindy chụp chung với một người phụ nữ cao tuổi. Lúc đó Cindy khoảng mười tám tuổi, mặc áo bu-dông trắng, quần jeans và đi ủng trắng. Người phụ nữ kia trông có vẻ hơi mập, mặc áo không cánh, quần dài và đi giầy trắng. Tóc bà ta màu xám đen cắt ngăn, môi mỏng đến nỗi hầu như không nhìn thấy. Cả hai người đều cười và đeo kính râm.
- Đó là dì tôi, bà Harriet - Cindy giải thích.
Còn nhớ chị ta lớn lên ở Ventura, tôi hỏi:
- Đây là ở cảng Oxnard à?
- Ở đảo. Những ngày nghỉ dì cháu tôi thường đến đó ăn trưa.
Chị ta lại nhìn dồng hồ và nói tiếp:
- Cassie vẫn đang ngủ. Con bé cũng vừa mới chợp mắt.
Tôi mỉm cười:
- Con bé lấy lại được thói quen hằng ngày khá nhanh đấy nhỉ. Vậy thì tốt rồi.
- Nó ngoan lắm... Tôi nghĩ nó sẽ sớm tỉnh dậy thôi.
Cindy có vẻ lúng túng.
- Tôi lấy cho bác sĩ chút gì uống nhé. Có trà đá trong tủ lạnh.
- Cảm ơn chị.
Tôi theo chị ta đi qua gian phòng khách rộng có kê giá sách, trường kỷ và mấy chiếc ghế dài còn mới. Trên giá xếp đầy những cuốn sách bìa cứng. Trông cách trang hoàng phòng khách có vẻ rất đàn ông.
Có phải đó là sự thống trị của Chip trong gia đình? Hay chị ta không thèm quan tâm đến phòng khách mà chỉ chú tâm vào bản thân mình thôi. Tôi vẫn lặng lẽ đi theo Cindy quan sát từng động tác và những bước đi dài của chị ta.
Phòng ăn được dán giấy màu nâu có lối dẫn thẳng sang nhà bếp lát gạch trắng và ốp gỗ sồi. Đồ đạc trong bếp đều mạ crôm bóng loáng. Phía trên bồn rửa có một cửa sổ nhỏ và một cửa khác lớn hơn thông qua sân sau được rào bằng sắt, trong sân mọc đầy cỏ. Tôi cố gắng nhìn xem còn gì trong sân không nhưng không thể.
- Bác sĩ ngồi đi - Cindy mời tôi.
Chị ta ngồi đối diện với tôi và đẩy cho tôi một ly trà đá lớn.
Cindy lấy một miếng giẻ lau mặt bàn, cố tránh ánh mắt của tôi. Tôi hớp một ngụm trà nhỏ và chờ đợi.
Một lúc sau chị ta lau xong, giặt miếng giẻ, vắt khô và cầm trên tay như thể không biết làm gì với nó.
Tôi giả vờ lơ đãng nhìn ra phía núi và nói bâng quơ:
- Hôm nay trời thật đẹp.
Chị ta gật đầu và nhìn xuống, lấy một miếng giấy nhỏ trong cuộn giấy đặt trên bàn lau khô mặt bàn. Tay chị ta vẫn ướt. Tôi phân vân đó có phải là hành động theo kiểu quý bà Macbeth hay chỉ là hành động để tránh căng thẳng?
Tôi im lặng nhìn Cindy lau bàn một lúc nữa thì thấy chị ta lại nhìn xuống dưới. Lần này tôi nhìn theo và tìm đến đúng bộ ngực của Cindy. Hai núm vú nhỏ nhưng thẳng đứng hằn rõ dưới lớp áo sơ mi đen mỏng.
Khi chị ta nhìn lên thì tôi cũng đã kịp nhìn đi nơi khác.
- Con bé sẽ sớm thức dậy thôi bác sĩ ạ. Nó thường chỉ ngủ từ một đến hai giờ.
- Xin thứ lỗi cho tôi vì đã đến quá sớm.
- Ồ không, không sao, tôi cũng không làm gì cả.
Chị ta vắt miếng giẻ lau và ném vào sọt rác ở dưới cái bồn rửa.
Tôi nói:
- Trong khi chờ đợi, chị có muốn hỏi gì về tình trạng của Cassie không?
- Hừm, cũng không hẳn, tôi chỉ phân vân không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng không phải vì thế mà bác sĩ buộc phải nói đâu.
Tôi gật đầu nhưng chị ta đang nhìn ra ngoài cửa sổ nên không nhận ra.
Bất ngờ chị ta rướn mình lên chỉnh mấy lọ cây treo trên cao, lưng quay về phía tôi để lộ ra phần eo thon thả. Động tác của chị ta lóng ngóng và làm rơi một chiếc lọ. Chiếc lọ cây va vào bồn rửa, và vỡ tung ra nền nhà.
Chị ta vội vã cúi xuống thu dọn. Đất bẩn vấy đầy tay và chiếc quần soóc trắng. Tôi đứng dậy nhưng chưa kịp giúp thì chị ta đã chạy vào phòng để đồ lấy ra một chiếc chổi quét dọn. Trông chị ta có vẻ hơi bực mình. Tôi lấy một miếng giấy nhỏ cho chị ta lau tay sau khi chị ta đã cất chiếc chổi đi.
- Tôi phải đi thay đồ đây - Chị ta nói và rút chiếc khăn đi sang phòng khác. Tôi tranh thủ thời gian đi quanh phòng, lục ngăn kéo đồ đạc và cảm thấy mình như một gã khờ khạo. Trong tủ đựng chén bát không có gì đáng chú ý ngoại trừ mấy thứ đồ dùng hàng ngày. Tôi nhìn ra phía cánh cửa mà chị ta vừa đi ra. Bên trong là phòng tắm và tôi cũng để ý đến căn phòng này. Nào là máy rửa bát, máy sấy, tủ đựng toàn xà phòng, nước rửa bát đĩa, nước lau kính... Đó là những thứ đồ để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn. Phần lớn chúng là những thứ độc hại, nhưng điều đó thì chứng minh được điều gì?
Tôi nghe tiếng bước chân và vội vàng trở lại bàn. Cindy đi vào, mặc áo bu-dông xanh rộng, quần jeans, đi xăng-đan - kiểu quần áo mà chị ta mặc ở bệnh viện.
- Tôi xin lỗi, tôi thật vụng về quá.
Chị ta đi về phía tủ lạnh, không hề có chuyển động nào từ phần ngực và cặp vú của chị ta.
- Bác sĩ uống thêm trà nhé.
- Không, tôi đủ rồi, cảm ơn chị.
Chị ta lấy ra một lon Pepsi, bật nắp và đến ngồi đối diện với tôi:
- Bác sĩ đi đường thế nào?
- Đường rất tốt.
- Không đông người thì đi thoải mái hơn.
- Ồ, đúng vậy.
- Tôi quên nói trước với ông, có chỗ họ cấm đường để mở rộng.
Chị ta tiếp tục nói những chuyện xã giao như thời tiết, làm vườn, giải trí...
Nhưng cách chị ta nói chuyện rất lạ: ngập ngừng, lúng túng như thể không tin vào trí nhớ của mình.
Tại sao họ lại sống ở đây? Tại sao con trai duy nhất của Chuck Jones lại chọn sống ở nơi cô quạnh này trong khi anh ta có thể sống ở bất kỳ nơi nào?
Lý do gần trường là không hợp lý.
Hay là một kiểu nổi loạn muốn khácng? Một kiểu nổi loạn để che giấu tội ác?
Một giả thuyết khác cũng có thể phù hợp: Những ông bố bà mẹ hay ngược đãi trẻ em thường giấu bí mật gia đình mình khỏi những con mắt tò mò tọc mạch của người bên ngoài.
Tôi bắt đầu chú ý đến giọng nói của Cindy. Nói chuyện về chiếc máy rửa bát, lời lẽ của chị ta nghe có vẻ hồi hộp. Chị ta nói là rất hiếm khi sử dụng máy mà thích rửa chén dĩa bằng tay hơn vì như thế sẽ nhanh khô hơn. Cách nói chuyện có vẻ kích động như chưa được nói chuyện với ai trong thời gian dài.
Cũng có thể lâu rồi chị ta không nói chuyện với ai. Tôi không nghĩ là Chip lại có thể dành ra một chút thời gian trong ngày để nói chuyện về công việc gia đình.
Tôi lại thử tính xem liệu trong số những cuốn sách trên giá thì có bao nhiêu cuốn là của chị ta và giữa họ có điểm gì chung.
Khi Cindy dừng lại một thoáng để lấy hơi, tôi nói:
- Ngôi nhà thật đẹp.
Câu nói của tôi không hề phù hợp với bối cảnh câu chuyện chúng tôi đang nói nhưng chị ta cũng chú ý ngay và hỏi lại tôi:
- Bác sĩ có muốn xem toàn bộ ngôi nhà không?
- Ồ, thế thì tốt quá.
Chúng tôi lại đi vào phòng ăn và chị ta lấy ra những chiếc nhẫn cưới trong một chiếc chuông cho tôi xem từng cái một.Sau đó chúng tôi sang phòng khách và chị ta kể cho tôi nghe những khó khăn trong việc lựa chọn thợ mộc đóng những chiếc giá sách vừa ý.
- Chúng tôi không hề sử dụng chút gỗ dán nào vì gỗ dán hay bị bong mà chúng tôi thì muốn nhà mình luôn luôn sạch bóng.
Tôi giả vờ chú ý nghe nhưng lại để tâm đến những cuốn sách. Có rất nhiều loại từ khoa học xã hội đến tâm lý, khoa học chính trị. Một số cuốn sách trông có vẻ cũ nhưng cũng không trước thời của Hemingway.
Ở giữa những chồng sách là các chứng chỉ và chiến tích. Một chiếc đĩa bằng đồng ghi dòng chữ: Trân trọng cảm ơn ngài C.L.Jones III, ngài đã cho chúng tôi thấy rằng việc dạy và học chỉ là một phần của tình bạn, tình hữu nghị. Câu lạc bộ sắp xếp, Trường cấp II Lourdes. Ngày tháng được ghi từ mười năm trước.
Ngay bên dưới là một cuốn giấy do Dự án gia sư Yale tặng cho Charles-Chip Jones vì đã có đóng góp cho bọn trẻ của bệnh xá tự do Haven mới.
Ngoài ra còn có các tặng phẩm và kỷ niệm chương của Trường Cao đẳng Nghệ thuật và Khoa học thuộc Đại học Connecticut. Ông bố Chuck quả là đã không nói dối.
Tôi để ý xem Cindy chú ý đến thứ gì. Chị ta đã dừng nói chuyện và quay sang tôi:
- Anh ấy là một nhà giáo vĩ đại. Ông có muốn xem phòng làm việc không?
Trong phòng toàn đồ đắt tiền. Những thành tích của Chip được để trong các hộp bằng đồng, gỗ và nhựa. Trên chiếc bàn kê ở mé trái của căn phòng là chiếc ti vi màu hình lớn và các thiết bị âm thanh nổi cộng với một bộ sưu tập các đĩa hát nhạc cổ điển và nhạc jazz.
Mảng tường duy nhất còn trống không bị các giá sách che kín có treo hai tấm bằng của Chip. Bên dưới giá sách là vài bức tranh màu nước miêu tả cảnh tuyết rơi, cây cối trơ trụi và những kho thóc làm bằng gỗ xù xì. Bên dưới một bức tranh có ghi "Mùa đông mới ở Anh". Không có chữ ký. Tác giả của bức tranh này có lẽ là người hâm mộ gia đình nhà Wyeth nhưng hạn chế về tài năng.
Cindy nói:
- Bà Jones mẹ của Chip vẽ những bức tranh đó đấy.
- Bà ấy sống ở miền Đông à?
Cindy gật đầu:
- Lâu rồi, từ khi Chip còn nhỏ cơ. Mà tôi cũng không chắc đâu. Hình như tôi nghe thấy tiếng Cassie đấy.
Chị ta giơ một ngón tay trỏ lên để thử gió.
Có tiếng rên rỉ đâu đó từ xa như tiếng máy. Tôi quay lại và phát hiện tiếng kêu đó phát ra từ một chiếc hộp màu nâu trên giá cao. Đó là hệ thống liên lạc nội bộ.
Cindy giải thích:
- Tôi thường bật nó lên khi con bé ngủ.
Tiếng kêu lại phát ra. Chúng tôi rời đó và đi ra một căn phòng lớn như hội trường trải thảm xanh. Phòng ngủ của Chip ở phía trước theo hướng chúng tôi đi ra. Căn phòng mở cửa. Bên cạnh phòng lớn là phòng ngủ và một cánh cửa đang đóng có lẽ là đường đi sang phòng tắm mà Cindy đã kể cho tôi nghe ban nãy. Phòng của Cassie ở phía cuối của phòng lớn này. Cửa vào hình vòm treo rèm trắng và vài thứ đồ trang trí màu hồng. Cassie đã ngồi dậy, mặc chiếc áo ngủ màu hồng và đang khóc thút thít. Căn phòng đầy mùi trẻ con.
Cindy bế con bé dậy, đầu của Cassie dựa vào vai mẹ. Con bé nhìn tôi một lát rồi lại cúi xuống.
Cindy thủ thỉ gì đó, nét mặt của Cassie có vẻ thoải mái hơn, nhịp thở đều đều. Cindy khẽ nựng con bé.
Tôi nhìn quanh căn phòng, có hai cửa ra vào ở mé tường phía nam và hai cửa sổ. Trên giường và trên sàn nhà bày đầy đồ chơi của trẻ con và sách. Ở giữa căn phòng là ba chiếc ghế nhỏ.
Cindy bế Cassie ngồi xuống chiếc ghế đu. Trông con bé không còn chút gì căng thẳng.
Cindy vừa bế vừa ru và vỗ nhè nhẹ vào lưng Cassie. Cassie thở đều đều và rúc vào ngực Cindy vẻ thoả mãn.
Tôi ngồi xuống nền nhà chân bắt chéo vừa xem mấy thứ đồ lặt vặt trên sàn nhà vừa suy nghĩ, nghi ngờ, tưởng tượng những trường hợp xấu nhất có thể xảy ra.
Được một lúc tôi bắt đầu thấy mỏi chân và đứng dậy thư giãn. Cindy vẫn theo dõi tôi. Chị ta tỳ cằm lên đầu Cassie và ôm con bé vào lòng.
Tôi tự nhủ: phải tranh thủ thời gian, và đi quanh căn phòng nhìn ngó xem xét những đồ đạc nhưng lại không hề tỏ ra tò mò.
Thật chu đáo, mỗi thứ đồ chơi đều an toàn, phù hợp với lứa tuổi và có tính giáo dục.
Có thứ gì đó ở góc phòng làm tôi chú ý. Đó là chiếc răng cửa của một con búp bê LuvBunny. Dưới ánh sáng mờ mờ của căn phòng, bọn búp bê trông thật độc ác. Tôi liên tưởng đến nụ cười nhăn nhở mà tôi đã nhìn thấy trong phòng điều trị của Cassie và một ý nghĩ điên rồ thoáng qua.
Những đồ chơi có thuốc độc. Bị vô tình đầu độc.
Tôi đã từng đọc trên một tờ báo sức khoẻ trẻ em rằng những con búp bê Hàn Quốc được nhồi bằng chất sợi thải ra từ một nhà máy hoá chất.
Delaware sẽ vén bức màn bí mật và mọi người ai nấy vui vẻ trở về nhà mình.
Cầm một con màu vàng lên, tôi xem phần bụng của nó và đưa lên mũi nhưng không thấy mùi gì. Tấm mác dưới bụng con búp bê ghi: "Sản xuất tại Đài Loạn bằng chất liệu sạch và chống cháy". Có cái gì đó ở dưới đường may - hai chiếc khoá. Một chỗ khía hình chữ L như kiểu chiếc nút. Tôi kéo khoá ra và tiếng động làm cho Cindy quay lại. Chị ta có vẻ ngạc nhiên.
Tôi giả vờ quay đi như không thấy gì, kéo khoá đóng lại chỗ nút trên mình con búp bê và đặt nó trở về vị trí cũ.
Cindy hỏi bằng giọng gần như thì thầm:
- Con bé bị dị ứng với các sợi nhồi bông bên trong có phải không? Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó. Nhưng bác sĩ Eves đã làm xét nghiệm và kết luận nó không bị dị ứng gì cả. Ngày nào tôi cũng giặt những con búp bê này và ngâm trong nước xả Ivory cơ mà.
Tôi gật đầu.
- Vợ chồng tôi cũng thường kéo thảm lên xem liệu có ẩm mốc hay ẩn chứa chất gì đó gây hại hay không. Chip từng nghe nói tới những người bị bệnh trong văn phòng và gọi chúng là những văn phòng mang bệnh. Máy điều hoà không khí cũng đã được lau chùi và Chip còn kiểm tra sơn tường xem có chất chì hoặc hoá chất khác không.
Giọng của chị ta ngày càng to và có vẻ lo lắng. Cassie cựa mình, Cindy lại vỗ về con bé.
- Ngay từ đầu tôi đã luôn luôn để ý. Đứa thứ nhất, rồi bây giờ là đứa thứ hai bị ốm đau. Hay là số phận không cho tôi được làm mẹ.
Tôi tiến lại và đặt một tay lên vai chị ta. Chị ta lùi lại tránh bàn tay của tôi và luồn ra khỏi chiếc ghế đu, nước mắt tuôn trào, tay run rẩy dúi Cassie vào tay tôi.
- Đây này, bác sĩ xem. Tôi không còn biết mình đang làm gì nữa. Tôi không phải là một người mẹ...
Cassie bắt đầu khóc và mở miệng đớp không khí. Cindy đẩy con bé về phía tôi và chạy ra ngoài. Tôi ôm lưng Cassie, con bé giãy giụa và không chịu theo tôi. Tôi cố gắng dỗ dành nhưng Cassie nhất định không nghe.
Cindy mở cửa nhà tắm chạy vào và đóng sầm lại. Tôi nghe thấy tiếng nôn oẹ và xối nước.
Cassie càng hét to, cào cấu cả mặt tôi. Tôi vừa phải tránh những đợt cào cấu, đánh đập của con bé vừa phải dỗ dành. Con bé rướn mình lên đòi ra và suýt trượt khỏi tay tôi.
Cuối cùng Cindy đi ra, lau mắt. Tôi tưởng chị ta sẽ bế Cassie đi đâu nhưng chị ta chỉ đón lại đứa con và đi quanh phòng. Cindy phải đi đi lại lại đến mấy chục vòng Cassie mới chịu yên.
Cindy vừa đi loanh quanh vừa nói:
- Xin lỗi bác sĩ, tôi thực sự xin lỗi.
Mắt và má của chị ta vẫn ướt. Tôi an ủi chị ta nhưng Cassie vừa nghe thấy tiếng tôi lại hờn. Tôi đi đến chỗ chiếc bàn để ở góc phòng và ngồi xem mấy thứ linh tinh.
Được một lúc thì Cassie yên lặng và mắt nhắm lại.
Cindy trở lại chiếc ghế đu và nói:
- Tôi xin lỗi, tôi thật là bà mẹ tồi tệ.
Cindy nói nhẹ chỉ đủ nghe nhưng Cassie vẫn mở mắt ra và oà khóc.
Cindy lại phải nựng và dỗ dành con bé một hồi. Chị ta phải kể hết chuyện nọ đến chuyện kia để dỗ đứa trẻ kể cả chuyện ở bệnh viện tôi vẽ tranh cho con bé.
Tôi ngồi lại một lúc rồi đứng dậy.
- Bác sĩ về sao? - Cindy hỏi giọng hốt hoảng.
Tôi chỉ vào phía phòng tắm:
- Tôi có thể nhờ một chút không?
- Ồ, ông cứ tự nhiên. Còn một phòng nữa ở ngay lối vào phòng lớn.
- Cái này được rồi.
Tôi đóng cửa, mở vòi nước và rửa mặt. Liếc nhìn vào gương, tôi thấy mình già đi vì những nghi ngờ.
Tấm gương cũng chính là cửa một tủ thuốc. Tôi mở chốt và thấy bên trong toàn là thuốc cảm cúm, đau đầu, dao cạo của nam giới và vài thứ kem chống nắng, dưỡng ẩm của phụ nữ.
Tôi đóng cửa tủ thuốc và tắt vòi nước. Vẫn có tiếng Cindy dỗ dành đứa bé. Trước kia con bé đã quen và chịu chơi với tôi nhưng bây giờ không hiểu tại sao nó lại phản ứng dữ thế.
Trời không cho tôi được làm mẹ... Tôi thật là một bà mẹ tồi tệ.
Tôi liếc mắt nhìn xuống dưới và lại phát hiện ra một cái tủ khác. Tôi thầm nghĩ họ thật cẩn thận.
Tôi thận trọng khom người xuống và mở chiếc tủ ra. Bên trong là các đoạn ống, hộp linh tinh và giấy vệ sinh. Dưới những hộp này là hai chai nước súc miệng màu xanh mùi bạc hà và một can aerosol nhỏ. Tôi kiểm tra cái can này và phát hiện ra nó mùi nhựa thông. Tôi nhấc cái can lên nhưng lại vô tình làm rơi vì vậy tôi phải với tay ra cố đỡ lấy nó để khỏi phát ra tiếng động. Tôi đỡ được chiếc can nhưng taylại chạm vào vật gì đó ở góc xa bên phải.
Tôi đẩy mấy cuộn giấy ra ngoài và lôi vật đó ra. Đó là một hộp đựng danh thiếp trên có in hình logo là một mũi tên đỏ và biểu tượng của Tập đoàn Y được Holloway. Bên trên dòng chữ này còn có mấy chữ: mẫu, chuyển đến: Bác sĩ Ralph Benedict".
Tôi mở chiếc hộp này ra và phát hiện bên trong có một cuốn sách giới thiệu nhỏ màu nâu. Những hàng chữ đen trên bìa ghi Insuject xuất bản từ năm năm trước. Văn phòng của Hãng Y tế Holloway ở San Francisco.
Tôi mở trang bên trong, đoạn thứ nhất của cuốn sách ghi:
Insuject là hệ thống điều chuyển siêu nhẹ có thể điều chỉnh liều lượng có tác dụng đối với insulin dưới da ở người khi dùng liều lượng từ 1 đến 3 đơn vị. Insuject nên được dùng kết hợp với các yếu tố khác của hệ thống Insuease Holloway như các loại kim tiêm sử dụng một lần và đầu bơm Insuject.
Đoạn thứ hai nói về các điểm mạnh của hệ thống sản phẩm này: Nhẹ, dễ di chuyển, kim tiêm siêu nhỏ hạn chế đau và những tổn thương ngoài ý muốn... Một loạt các đoạn khác mô tả các kim tiêm, cách đưa những đầu bơm vào ống và cách tiêm insulin ở dưới da.
Đầu kim tiêm siêu nhỏ sẽ hầu như không để lại tổn thương nào như Al Macauley đã miêu tả. Cho dù có kiểm tra chỗ vừa được tiêm cũng không phát hiện ra điểm đó.
Tôi khua tay vào hộp xem còn sót lại kim tiêm nào không nhưng chỉ còn các ống xi lanh. Có thể ai đó đã lấy đi hết rồi. Nhưng có thể những đầu bơm thì còn trong tủ lạnh nhà bếp. Tôi sắp đặt lại mọi thứ và bỏ cuốn sách vào túi. Tôi lại giả vờ ho khan mấy tiếng rồi cố tìm xem còn có chỗ nào giấu đồ không.
Khả năng duy nhất là bồn nước xả toa lét. Tôi lật nắp chiếc bồn xả lên và nhìn vào trong. Không có gì trong đó ngoài hệ thống cần bơm và xả nước toa lét.
Những chiếc kim siêu nhỏ... Có thể nhà tắm là nơi cất giấu lý tưởng loại đồ vật này.
Đóng cửa lại, tôi đi rón rén vào phòng Cassie.
Vết kim tiêm có thể làm con bé giật mình tỉnh giấc và khóc nhưng nó đã không biết gì.
Cũng không ai biết việc đó cả. Tỉnh dậy và khóc là chuyện rất bình thường đối với đứa trẻ ở độ tuổi đó nhất là con bé này lại hay ốm yếu.
Liệu bóng tối có che giấu được kẻ tiêm trộm không?
Trong phòng, Cindy vẫn đang nói chuyện nhẹ nhàng thủ thỉ với con bé.
Hoặc có thể còn một giả thuyết khác - những chiếc xi lanh và kim tiêm đó cần thiết đối với Cindy hoặc Chip.
Không - Stephanie nói đã kiểm tra cả hai người xem có mắc bệnh về trao đổi chất hay không nhưng họ đều khoẻ mạnh.
Tôi nhìn cánh cửa phòng ngủ của chủ nhà và liếc đồng hồ. Tôi đã mất ba phút trong toa lét nhưng lại có cảm giác như đã ở trong đó một tuần vậy. Mở cửa, tôi rón rén đi vào, thật may căn phòng trải thảm nên bước chân của tôi không hề phát ra tiếng động nào.
Căn phòng có khá nhiều đồ: Một chiếc giường ngủ theo phong cách Victoria bóng loáng, giá sách, điện thoại, giá treo quần áo trên có có mấy chiếc quần jeans. Chiếc giường được sắp đặt gọn gàng. Căn phòng có mùi nhựa thông sát trùng như tôi vừa thấy trong phòng tắm.
Rất nhiều chỗ phải sát trùng. Tại sao vậy?
Có một ngăn kéo ở phía tường đối diện với giường, tôi mở chiếc ngăn kéo ra, bên trong toàn là đồ lót và băng vệ sinh phụ nữ. Tôi tiếp tục tìm kiếm ở chiếc ngăn kéo bên dưới xem có thấy những chiếc đĩa của Dawn đã bị mất không. Không có gì ngoài mấy thứ đồ dùng như quần áo, máy camera, ống nhòm, mấy quyển sách...
Có thể chỗ xó tối trong buồng vệ sinh giấu thứ gì đó nhưng tôi đã ở trong này quá lâu rồi. Tôi đóng cửa lại và đi sang phòng tắm. Không còn tiếng nước chảy và Cindy cũng đã ngưng nói chuyện.
Liệu chị ta có nghi ngờ sự vắng mặt quá lâu của tôi không? Tôi lại giả vờ hắng giọng và xả nước. Lại có tiếng của Cindy - có vẻ không bằng lòng với điều gì đó nhưng rồi cũng trở lại với giọng vỗ về của người mẹ.
Tôi lấy chiếc hộp trắng, giả vờ lấy giấy vệ sinh và xả nước bồn cầu. Xong mọi việc, tôi đẩy cửa bước ra và cố gắng cười gượng. |
|
|