Robin ở lại đêm đó, và như thường lệ, nàng dậy sớm. Điều không giống như mọi khi đó là nàng dành một giờ nữa để uống cà phê và đọc báo. Nàng ngồi bên tôi ở bàn, một bàn tay đặt trên gối tôi, hoàn thành phần còn lại của bức vẽ trong khi tôi đọc lướt qua mục tỉ số thể thao. Sau đó, chúng tôi lại chỗ cái ao và ném những mẩu bánh mỳ nho nhỏ cho cá ăn. Hơi ấm mùa xuân đến sớm, bao phủ lên luồng gió biển và không khí có vẻ như là của một kỳ nghỉ hè vậy.
Thứ bảy, nhưng tôi lại cảm thấy muốn làm việc.
Nàng vẫn bên tôi. Chúng tôi gần nhau rất nhiều nhưng dấu hiệu bồn chồn của nàng bắt đầu xuất hiện: cơ uốn éo, thỉnh thoảng liếc nhìn, đối thoại ngập ngừng, đứt quãng - điều mà chỉ người yêu hay người mắc bệnh hoang tưởng mới nhận thấy.
Tôi nói với nàng:
- Em bận hay có kế hoạch gì à?
- Em đang dở chút việc. Thế còn anh?
- Anh cũng thế. Ngày hôm nay anh có ý định tới bệnh viện.
Nàng gật đầu, choàng hai cánh tay quanh eo tôi, và chúng tôi ôm lấy nhau, đi bộ vào nhà. Sau khi nàng lấy ví, chúng tôi đi tới bãi đỗ xe.
Một chiếc xe tải mới được để cạnh chiếc Seville. Chiếc xe tải Chevy màu xanh da trời của hãng Royal có một sọc trắng dọc thành xe. Phiếu đăng kiểm dán ở trên tấm kính chắn gió.
- Tuyệt đẹp - Tôi thốt lên - Em có nó khi nào vậy?
- Hôm qua. Chiếc Toyota động cơ bị hỏng nặng và em ước tính là mình đã đi được khoảng một, hai nghìn kilômét, nên em đã tự đối đãi tốt với bản thân đấy.
Tôi cùng Robin thả bộ tới chiếc xe tải.
Robin nói:
- Nếu bố còn sống chắc ông sẽ thích nó. Ông luôn ưa thích chiếc Chevy - cho dù nó không có nhiều công dụng lắm. Khi lái chiếc xe khác, thỉnh thoảng em có cảm giác bố đang nhìn qua vai em, quắc mắt và kể câu chuyện Iwo Jima.
Nàng vào xe, để cái túi xách lên chiếc ghế của khách và thò mặt ra cửa sổ để hôn tôi.
- Tuyệt - Nàng nói - Hãy sớm làm lại việc ấy nhé, anh yêu. Nhắc lại xem tên anh là gì? Flix phải không? Hay Ajax?
- Mr.Clean.
- Thật ra là thế nào - Nàng nói, cười vang và lái chiếc xe đi.
Tôi nhắn tin cho Stephanie, và nhân viên tổng đài đáp rằng bác sĩ Eves sẽ gọi lại. Tôi chờ máy, lôi ra cuốn Thomas Guide (Thomas hướng dẫn), và xác định địa chỉ của Dawn Herbert trên phố Lindblade. Tôi vừa mới xác định xong địa chỉ thì điện thoại reo.
- Steph đấy hả?
- Không, Milo đây. Tôi có cắt ngang gì không đấy?
- Chỉ là tôi đang đợi một cuộc gọi lại từ bệnh viện thôi.
-Và tất nhiên anh không có được cuộc gọi mong đợi rồi.
- Tất nhiên là thế.
Milo khịt mũi một tiếng dài như tiếng khịt của ngựa, lại bị loa của của điện thoại khuếch đại thành ra nghe như tiếng sấm.
- Thế anh đã thay cái đèn dầu bằng chiếc đèn điện của Edison chưa?
- Nếu Chúa đã muốn con người có điện, thì ngài sẽ đưa cho chúng ta những bình ắc quy.
Anh cười hô hố:
- Tôi đang ở Trung tâm. Gọi cho tôi ngay khi anh kết thúc cuộc gọi với Steph.
Anh ta gác máy. Tôi đợi thêm mười phút nữa thì Stephanie mới gọi tới.
- Chào Alex - Cô hỏi - Có việc gì thế?
- Tôi đang hỏi cô câu ấy đây.
- Có gì to tát đâu. Tôi gặp cô bé cách đây khoảng một giờ - Nó đang cảm thấy khá hơn rồi - tỉnh táo, cảnh giác và thét lên khi thấy tôi.
- Có tin gì mới về sự hạ đường huyết không?
- Người ta nói là không có vấn đề gì liên quan tới sự trao đổi chất cả, tuyến tuỵ của cô bé cũng đã được kiểm tra kỹ - hoàn toàn chẳng có vấn đề gì cả - và thế là mọi người lại quay sang kết luận là chứng Munchausen, vậy là có lẽ tôi phải quay lại từ đầu mất thôi.
- Cô dự định giữ con bé lai bao lâu?
- Hai hoặc ba ngày gì đó, sau đó sẽ để cô bé về nhà, nếu không có chuyện gì xảy ra. Tôi hiểu rằng thật nguy hiểm khi để cô bé đi, nhưng tôi có thể làm gì được đây, chuyển bệnh viện thành nhà nuôi dưỡng cô bé hay sao? Hay anh có gợi ý gì không?
- Không.
- Anh biết không, tôi thực sự nghĩ rằng đó chính là do vấn đề về trao đổi chất.
- Đừng tự gồng mình lên thế. Đó là một ca điên khùng. Thế còn Cindy và Chip thì phản ứng thế nào về cái nguyên nhân chưa xác định được chắc chắn này?
- Tôi chỉ trông thấy Cindy thôi. Vẫn cam chịu âm thầm như thường lệ.
Nhớ lại lời bình phẩm của Al Macauley, tôi hỏi Steph:
- Có thấy nụ cười nào không?
- Cười á? Không. Ồ, anh muốn nói tới sự rộng lượng mà chị ấy thỉnh thoảng vẫn thể hiện ấy à? Không. Không phải sáng nay. Alex, tôi phát ốm lên về trường hợp này rồi, để cho cô bé về thì khác nào kết án tử hình nó?
Chẳng biết an ủi thế nào tôi đành nói:
- Thì ít nhất để Cassie về nhà sẽ cho tôi cơ hội tới nhà thăm cô bé.
- Trong khi anh ở đấy, tại sao không thử tìm kiếm chút manh mối gì đó?
- Ví dụ xem nào?
- Những cây kim ở trong ngăn kéo tủ, thuốc insulin trong tủ lạnh. Tôi đang nói đùa ư - không, thực ra tôi chỉ nói đùa một nửa thôi. Tôi đang sắp phải đối mặt với Cindy đấy, hãy khiến cho gia đình Chips phải chịu thua. Lần sau nếu cô bé lại ốm, tôi có thể sẽ làm thế, và nếu họ phát khùng lên và tới nơi khác chữa, ít nhất thì tôi cũng sẽ biết rằng tôi đã làm mọi điều có thể - Ồ tiếc quá, tôi có tin nhắn, tôi phải đi đây Alex anh. Gọi lại cho tôi khi anh biết thêm điều gì đó, được không?
Tôi điện thoại lại cho Milo:
- Làm việc cả những ngày cuối tuần à?
- Tôi đã có cuộc trao đổi với Charlie. Vào những ngày thứ bảy thì tôi sẽ trực để kiếm thêm công việc ngoài giờ. Thế Steph thì sao rồi?
- Không phải bệnh về thể chất, lại bị quy về chứng Munchausen. Chẳng ai tìm ra lý do về thể chất nào cho việc giảm lượng đường huyết cả.
- Tệ thật. Trong khi chờ đợi, tôi đã có được vài thông tin về Reggie Bottomley, cậu quý tử hư hỏng của bà y tá. Cậu ta chết khoảng hai năm nay rồi. Vì lý do nào đó mà tên của cậu ta không có trong hồ sơ lưu trữ về bệnh án. Có thể là tự sát.
- Sự thể là thế nào?
- Cậu ta vào buồng tắm, cởi quần áo, ngồi xuống bệ xí, hút thuốc phiện, thủ dâm. Sau đó thì dùng súng bắn nát đầu. Thật ghê tởm quá. Một nữ thám tử - tên là Tujunga, thực ra tên là Dunn - nói Vicki ở nhà khi việc đó xảy ra, đang xem tivi ở phòng bên.
- Trời đất!
- Ừ. Cả hai bọn họ đã lời qua tiếng lại với nhau về lối sống buông thả của Reggie và thằng bé phát khùng lên, nó lôi đồ nghề trong tủ quần áo ra và cả súng nữa, khoá trái cửa, nhốt mình trong nhà xí, và nổ sung. Bà mẹ nghe thấy tiếng súng, nhưng không thể vào mở được cửa, bà ta cố gắng dùng một cái rìu và bất lực. Người ta thấy bà ta ngồi trên nền nhà, khóc, gào lên thuyết phục thằng bẻ anh ngoài. Người ta phá cửa và khi trông thấy sự việc đau lòng đó, họ đã cố gắng ngăn không cho bà mẹ trông thấy. Nhưng bà ấy đã nhìn thấy rồi. Sự kiện đó có thể giải thích về sự trầm tĩnh của bà mẹ.
- Có điều gì đó cần xem xét kỹ. Có điều gì về lịch sử gia đình dẫn tới vụ tự sát này không?
- Dunn nói trước đó chẳng có sự xúc phạm trẻ em nào cả - Cô ấy thấy về cơ bản đó là người mẹ tuyệt vời với đứa con hư hỏng, và bà ấy đã dành rất nhiều thời giờ cho Reggie, rất hiểu cậu bé.
- Thế còn người cha thì sao?
- Đã chết khi Reggie còn nhỏ. Tay nghiện rượu nặng, giống như anh đã nói. Ngay sau đó thì Reggie đã gặp rắc rối với cảnh sát, cậu ta sử dụng rồi chuyển sang buôn bán ma tuý. Dunn mô tả cậu ta như một tên ngớ ngẩn, gầy trơ xương, không có khả năng học tập, không thể có được một công việc. Còn là tên tội phạm bất tài - mỗi lần phạm tội hắn đều bị bắt, nhưng trông quá tội nghiệp đến nỗi mà quan toà dễ tính thường xử nhẹ tội cho. Cậu ta không còn hung bạo nữa cho tới gần cái ngày kết liễu cuộc đời - một vụ ẩu đả. Và thậm chí đó chỉ là vụ xô xát trong quán bar thôi. Cậu ta dùng một cây gậy bi-anh đánh vào đầu kẻ kia. Dunn nói rằng Reggie ngày càng trở nên nghiện ngập. Cái chết với hắn chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn mà thôi. Theo như lời của cô ấy, bà mẹ đã chịu đựng quá lâu rồi, đã gồng mình hết sức rồi. Kết thúc của câu chuyện là thế. Câu chuyện có nói cho anh điều gì về bà mẹ như một đối tượng tình nghi không?
- Không, thật sự là không. Dẫu sao thì cũng xin cảm ơn anh.
- Thế bước tiếp theo là gì?
- Thiếu mọi thứ, tôi cho là nên có cuộc viếng thăm với Dawn Herbert. Tôi đã nói chuyện với vợ của Ashmore hôm qua, và cô ấy nói rằng ông ta thường thuê những sinh viên đã tốt nghiệp đại học. Vì vậy mà có thể Herbert có đủ hiểu biết để hiểu Ashmore đang tìm kiếm cái gì trong biểu đồ của Chad.
- Vợ của Ashmore à? Anh định làm gì thế, chi tiền cho một cuộc gọi buồn chán à?
- Đúng thế. Một phụ nữ tuyệt vời. Ashmore là người bạn khá thú vị.
Tôi kể cho anh về đôi ba lần tới Sudan, về hệ thống sòng bạc của Ashmore và những vụ đầu tư.
- Dùi cui của cảnh sát hả? Ắt hẳn phải rất thú vị.
- Cô ấy bảo ông ta là thiên tài toán học - phù thuỷ máy tính. Đạt đai nâu vài môn võ thuật cổ truyền. Chính xác là ông ta không dễ bị những tên giết người hạ gục đâu.
- Không dễ ư? Tôi biết anh từng học môn võ thuật tuyệt vờ ấy, và tôi không muốn làm anh vỡ mộng, nhưng tôi đã thấy nhiều tay võ sĩ dùng những miếng sắt ở đầu ngón chân. Nó là một thứ được dùng trong môn võ nào đó có tên là dojo, khom lưng, nhảy vòng quanh và gào thét như thể có một cái đinh trong ruột vậy. Nhưng khi trên đường phố thì sự việc lại hoàn toàn khác. Tình cờ tôi đến phòng cảnh sát Hollywood để lấy thông tin về vụ sát hại Ashmore thì họ cho rằng đây là vụ rất khó có khả năng giải quyết được. Hy vọng là bà quả phụ ấy không đặt hết hy vọng vào luật pháp.
- Bà quả phụ ấy vẫn bị lụât pháp làm cho mê mẩn.
- Ừ...
- Gì thế?
- Ừ, tôi cũng đã suy nghĩ khá nhiều về vụ của anh - thứ tâm lý của toàn bộ cái gọi là chứng Munchausen - và tôi cho là chúng ta đã bỏ sót một nghi phạm tiềm năng.
- Ai thế?
- Cô bạn thân Steph của anh ấy.
- Stephanie ư? Sao lại thế được?
- Một phụ nữ có kiến thức về y học, thích quyền lực, muốn trở thành trung tâm của mọi việc.
- Tôi chẳng bao giờ nghĩ cô ấy là trung tâm của việc tìm kiếm đầu mối.
- Không phải anh đã từng nói với tôi rằng cô ta là người có quan điểm cực đoan về quá khứ, về chủ tịch hiệp hội các bác sĩ thực tập nội trú đấy chứ?
- Chính xác là thế, nhưng cô ấy có vẻ như rất chân thành. Một người theo chủ nghĩa duy tâm.
- Có thể. Nhưng hãy xem: cái cách cô ấy chữa trị cho Cassie khiến cô ấy trở thành nhân vật trung tâm đáng chú ý, và đứa bé càng ốm yếu thì Stephanie càng là người nổi bật. Và những thay đổi bất thình lình trong việc kết luận bệnh của cô ta - hôm nay là Munchausen, hôm sau lại là các bệnh về tụy, rồi lại trở về Munchausen. Anh bảo thế không điên lên sao được?
Tôi hiểu toàn bộ những sự việc đó.
- Có thể là có lý do nào đó khiến đứa bé nổi khùng lên mỗi khi cô ấy khám cho nó, Alex ạ.
- Nhưng cứ theo logic ấy áp dụng với cô bé như đã áp dụng với Vicki - Tôi nói - Cho đến tận lần nổi đoá cuối cùng này, toàn bộ rắc rối của Cassie bắt đầu từ nhà cô bé. Vậy làm sao mà Stephanie có thể liên quan tới việc này được?
- Thế cô ta từng tới nhà của cô bé chưa?
- Một hai lần gì đó để đặt máy gây ngủ.
- Rồi, cuối cùng việc này là thế nào chứ gì? Rắc rối trước tiên cô bé gặp là bệnh về thanh quản hay đại loại cái gì đó liên quan tới thanh quản. Stephanie chữa trị cho cô bé và thấy rằng vai trò bác sĩ của đứa cháu gái Chủ tịch là một cú hích. Một cuộc du ngoạn quyền lực - Anh đã chẳng nói với tôi rằng cô ấy có ý định trở thành trưởng khoa là gì.
- Nhưng nếu đó là mục đích của cô ta, thì việc chữa trị cho bé Cassie sẽ phải có kết quả tốt hơn mới phải chứ.
- Thế bố mẹ của cô bé không sa thải cô ta chứ?
- Không. Họ nghĩ cô ta thật vĩ đại.
- Anh biết không. Cô ấy khiến bọn họ phải phụ thuộc vào mình, và việc chữa trị qua loa cho Cassie thì tốt cho cả hai. Và chính anh cũng nói cho tôi biết là Cassie phát ốm ngay kh gặp bác sĩ là gì. Điều gì sẽ xảy ra nếu đó là bởi cái cách mà Stephanie đang làm với cô bé - kê thuốc quá liều cho cô bé và trả cô bé về nhà giống như thể một quả bom y học hẹn giờ?
- Cô ấy có thể làm gì được khi mà chính Cindy luôn có mặt trong phòng kiểm tra sức khoẻ?
- Làm sao mà anh biết được chị ta có ở đó không chứ?
- Bởi vì mẹ cô bé chẳng bao giờ để nó lại một mình cả. Vả lại còn có vài bệnh nhân khác và các bác sĩ - những chuyên gia đấy chứ.
- Anh có biết rằng cô ấy cũng chẳng khám cho đứa bé vào cùng một ngày với các chuyên gia khác không?
- Không. Tôi nghĩ là có thể kiểm tra biểu đồ bệnh án bệnh nhân ngoại trú xem có tìm ra điều gì không.
- Nếu như chính cô ta lập bệnh án. Có thể có sự quỷ quyệt trong đó - kiểm tra họng dứa bé và cơ hạ lưỡi của nó bị phủ một lớp gì đó. Bất kể đó là gì thì cũng phải xem xét đúng không?
- Bác sĩ đã gửi con bé về nhà cùng với vài que kẹo mút à? Thật là bậy bạ.
- Còn gì tệ hơn khi chính mẹ con bé đã đầu độc nó? Có lý do để anh nghĩ đó là động cơ trả thù: Cô ta ghét ông con bé bởi những việc mà ông ấy đang làm tại bệnh viện, vì thế mà cô ấy tới chỗ ông ta để chữa trị cho Cassie.
- Nghe ra thì anh có nhiều ý tưởng đấy.
- Chính những ý nghĩ điên rồ ấy đã giúp tôi kiếm ra tiền đấy, Alex ạ. Thực ra, tôi đến là để nói chuyện với Rick. Anh ta đã nghe được thông tin về căn bệnh Munchausen - loại ở người lớn. Anh ta nói rằng các y tá và bác sĩ có xu hướng mắc các triệu chứng Munchausen. Họ thường kê sai đơn thuốc, tất nhiên không phải ngẫu nhiên, sau đó lại là những anh hùng lao vào phòng cấp cứu - giống như người mắc chứng cuồng phóng hoả vậy.
- Chip đã kể về việc đó - Tôi nói - Những lỗi sai về thuốc thang, tính nhầm liều dùng. Có thể ông ta cảm thấy điều gì đó về Stephanie mà không phát hiện ra được... Vậy tại sao cô ấy gọi tôi? Để chơi tôi à? Chúng tôi chưa bao giờ làm việc gần nha. Tôi không có ý định nói rằng cô ta có vấn đề lớn về tâm lý.
- Gọi anh tới để chứng minh rằng cô ấy đang làm việc thấu đáo. Và anh là nhân chứng tốt - cô ấy sẽ gặp khó khăn thực sự nếu là bệnh nhân Munchausen, bởi làm gì còn có bác sĩ tâm lý nào ở lại nữa.
- Đúng thế, nhưng tôi không hiểu... Stephanie là thế nào cả?
- Chẳng có lý do gì để phải tranh luận về điều đó - chỉ là lý thuyết mà thôi, tôi có thể bóc trần cái lý thuyết ấy.
- Điều này khiến tôi rối tung, nhưng tôi sẽ thử bắt đầu quan sát cô ấy kỹ hơn. Thôi băn khoăn về chuyện ấy đi nhé vì chúng ta làm việc theo nhóm mà.
- Không phải luôn là cái cách đó đấy chứ? Một gã đang đi trên đường một mình.
- Ừ... trong khi chờ đợi điều tra, vấn đề này thì thế nào đây? Chúng tôi vẫn chẳng có tiến triển gì cả bởi đang phải tập trung vào một gã tồi tệ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu có vụ cấu kết thông đồng nào đó đang diễn ra?
- Ai thế?
- Cindy và Chip là những người đáng nghi trước hết. Một ví dụ điển hình về người chồng bị mắc chứng Munchausen, ông ta được mô tả như một kẻ tiêu cực và không có ý chí. Việc đó không hợp với Chip chút nào cả. Ông ta là gã hiểu biết, thông minh, và kiên định. Vì thế nếu vợ ông ta lạm dụng bé Cassie, thì tại sao ông ta lại không biết? Nhưng cũng có thể là Cindy và Vicki.
- Cái gì? Có gì lãng mạn giữa bọn họ ấy à?
- Hay là chuyện khó hiểu giữa con gái và mẹ. Cindy thấy Vicki giống người dì đã mất của chị ta - một bà y tá cũng khá khó chịu. Và Vicki cũng có một đứa con gái đã chết và muốn có cô con gái thay thế. Có thể là họ có triệu chứng kỳ dị giống nhau. Thật là kinh khủng, có thể Cindy và Stephanie đang cùng nhau thực hiện âm mưu gì đó chăng. Và có thể nó thật hão huyền. Tôi không biết gì về đời tư của Stephanie cả. Trước đây cô ấy dường như sống một mình.
- Cứ như thể anh đang thổi phồng câu chuyện lên đấy, thế còn ông bố và Stephanie thì thế nào?
- Đúng thế. Ông bố và bác sĩ, ông bố và y tá - Vicki chắc hẳn đã hôn Chip nhiều. Y tá và bác sĩ, và các thứ khác kiểu như thế. Có thể là tất cả bọn họ, Milo ạ. Một nhóm người mắc chứng Munchausen - Có thể là một nửa thế giới chết tiệt này mắc chứng tâm thần.
- Một sự ước lượng quá dè dặt đấy.
- Rất có thể.
- Anh cần có một kỳ nghỉ đi, bác sĩ ạ.
- Tôi không thể. Quá nhiều bệnh nhân tâm thần và lại quá ít thời gian. Cảm ơn đã nhắc nhở tôi.
Anh cười:
- Rất vui khi tôi có tểh làm anh tươi tỉnh lại. Anh có muốn tôi điều tra Stephanie qua hồ sơ không?
- Có chứ. Miễn sao anh tìm ra được chìa khoá của vấn đề này, tại sao không phải là Ashmore? Một người chết không thể kiện cáo được gì cả.
- Đúng rồi. Còn ai nữa không? Hãy lợi dụng tâm trạng vui vẻ của tôi và các máy móc kỹ thuật ở phòng cảnh sát Los Angeles.
- Thế còn tôi thì sao?
- Bất cứ lúc nào tôi cần. Mấy năm trước tôi đã nghĩ chúng ta có thể trở thành những người bạn rồi...
Tôi lái xe tới Culver, hy vọng Dawn Herbert có ở nhà vào sáng thứ bảy. Xe của tôi băng qua khu chung cư tồi tàn trên con phố Overland nơi mà trước đây tôi và nhưng sinh viên thực tập nội trú làm việc. Cửa hàng bên cạnh vẫn còn đó, nhưng toà nhà của tôi đã bị phá bỏ và thay vào đó là một bãi đỗ xe đã được sử dụng.
Tới Washington Boulevard, tôi lái về hướng Tây, nhằm tới Sepulveda, sau đó tiếp tục lái về hướng Bắc tới một dãy phố chạy ngang qua Culver. Tới cửa hàng cá nhiệt đới với bức họa dải san hô ngầm trên cửa sổ và lái xe xuống dãy phố, tìm địa chỉ mà Milo lấy ra từ hồ sơ lưu trữ.
Khu phố Lindblade là những ngôi nhà gỗ một tầng nhỏ, hình hộp với những mái vòm và bãi cỏ chỉ vừa đủ lớn cho trẻ chơi ô lò cò. Cấu trúc bề ngoài tự do; được sơn màu bơ. Những cây đu xoà bóng xuống đường phố. Hầu hết các ngôi nhà vẫn giữ vẻ gọn gàng ngăn nắp, mặc dù phong cảnh có vẻ như lộn xộn - vườn chim cũ, những cụm hồng khẳng khiu.
Nhà của Dawn Herbert là một hộp màu xanh nhạt, nằm ở góc phố. Một chiếc xe buýt cũ màu nâu hiệu VW đang đỗ ở đường lái xe vào nhà. Những tấm đề can về du lịch chồng chất ở các mép thấp của cửa sổ phía sau. Bức tranh tẻ ngắt màu nâu như thuốc súng.
Một người đàn ông và một phụ nữ đang làm vườn ở phía trước, hộ tống họ là con chó to màu vàng và một con chó lai nhỏ màu đen giống Spaniel (giống con chó lông mượt, tai to cụp).
Hai người chạc tứ tuần. Cả hai đều có nước da xanh xao của người ngồi bàn giấy nhiều. Phần cánh tay trên và vai của họ hơi rám nắng, mái tóc màu nâu nhạt, và họ mang kính không vành. Hai người mang theo nắp thùng đựng nước, mặc quần soóc và đi dép cao su.
Người đàn ông đứng ở chỗ bụi cây cẩm tú cầu, với cái kéo xén cây trong tay. Anh ta xén những búi hoa như mớ lông cừu màu hồng. Người đàn ông gầy gò gân guốc, tóc mai dài kéo xuống tận hàm, và chiếc quần của anh ta được giữ bởi hàng mớ những dây da lòng thòng. Một dải dây quấn quanh đầu anh ta.
Người phụ nữ không mặc áo nịt ngực và khi cúi xuống nhổ cỏ, ngực của cô như thể treo trên ngọn cỏ vậy, hai núm vú màu nâu lộ rõ. Cô có chiều cao của một người đàn ông - khoảng 1 mét 8 hay 1 mét 9. Nhưng có lẽ cô nặng cân hơn người đàn ông, bởi bộ ngực và bắp đùi. Một người trong già hơn so với tuổi.
Khi lái xe tới nơi, tôi nhận thấy hai người bọn họ trông quen quen nhưng không thể lý giải được tại sao.
Tôi xuống xe. Không ai trong bọn họ nhìn lên cả. Con chó bắt đầu sủa, người đàn ông quát:
- Ngòi xuống, Homer - và tiếp tục tỉa hoa.
Khẩu lệnh của ông chủ bảo con chó sủa nhỏ thôi. Nhưng con chó này càng sủa to hơn, con chó tai cụp kia đứng nhìn, sửng sốt. Người phụ ngừng nhổ cỏ và tìm hiểu nguyên nhân tại sao chúng làm ầm ĩ lên như thế.
Cô ta thấy tôi, và nhìn chằm chằm. Tôi ra khỏi xe. Con chó lai nhỏ đứng yên nhưng đầu cúi xuống ra vẻ ngoan ngoãn.
Tôi cất tiếng:
- Này, cu cậu - Rồi cúi xuống vuốt ve con chó.
Người đàn ông hạ kéo xuống. Giờ thì cả bốn bọn họ đều nhìn chằm chặp vào tôi.
- Xin chào - Tôi nói.
Người phụ nữ đứng dậy. Cô ta quá cao so với người đàn ông, mặc dù ông ta cũng rất cao. Khuôn mặt đẫy đà của cô run lên vì xúc động.
- Tôi có thể giúp gì cho ông? - Cô nói. Giọng của cô du dương và chắc chắn là tôi đã nghe giọng nói này rồi. Nhưng ở đâu?
- Tôi đang tìm nhà của Dawn Herbert..
Bọn họ liếc nhìn nhau làm tôi cảm thấy mình như một cảnh sát mật vụ vậy.
- Vậy sao? - Người đàn ông nói - Coôta không còn sống ở đây nữa.
- Anh có biết cô ấy đang sống ở đâu không?
Họ lại liếc nhìn nhau như trao đổi điều gì. Trông họ có vẻ sợ sệt hơn là đề phòng.
- Không có gì đáng ngại cả - Tôi nói với họ - Tôi là bác sĩ, tới từ Bệnh viện Nhi đồng miền Tây ở Hollywood. Dawn trước đây làm việc ở đó và cô ấy có thể có thông tin về một bệnh nhân quan trọng. Đây là địa chỉ duy nhất của cô ấy mà tôi có thể có được.
Người phụ nữ di chuyển lên trước mặt người đàn ông. Đó như thể là cú di chuyển để tự vệ nhưng tôi không rõ ai là người bảo vệ.
Người đàn ông dùng bàn tay không cầm kéo phủi những cánh hoa khỏi chiếc quần soóc. Cái hàm xương xẩu thô cứng. Mũi anh ta sạm nắng, đầu mũi thô.
- Anh đi tất cả các con phố ở đây chỉ để hỏi thông tin đó sao? - Anh ta hỏi tôi.
- Thật phức tạp - Tôi đáp, trong đầu nhanh chóng dựng ên một câu chuyện có thể tin được - Một ca quan trọng - một đứa bé đang nguy kịch. Dawn kiểm tra bệnh án cho đứa bé ở bên ngoài bệnh viện và rồi không thấy quay trở lại viện nữa. Thường thì tôi phải tới chỗ cấp trên của Dawn. Một bác sĩ tên là Ashmore. Nhưng ông ấy đã mất. Ông ấy bị bóp cổ chết cách đây hai ngày ở bãi đỗ xe - anh có thể đã nghe tin này.
Một cái nhìn mới trên khuôn mặt họ. Một sự sợ hãi và đề phòng. Cái tin ấy khiến họ sửng sốt và họ không biết phải đáp lại thế nào. Cuối cùng họ ngờ vực, hai tay đan vào nhau và nhìn tôi chằm chặp.
Con chó nhỏ có vẻ không thích sự căng thẳng đó. Nó ngoái nhìn ông chủ và bắt đầu rên rỉ.
- Jethro - Người phụ nữ nói, và con chó thôi không rên nữa. Con chó lai đen vểnh tai lên và gầm gừ.
Cô ta nói:
- Yên nào, Homer - Giọng cô nghe như giọng hát ngâm nga.
- Homer và Jethro - Tôi nói - Bọn chúng dùng nhạc khí tự do hay sử dụng sự hỗ trợ?
Không thấy họ mỉm cười. Cuối cùng tôi cũng đã nhớ ra nơi mà tôi đã gặp hai người bọn họ. Năm ngoái, ở cửa hàng của Robin. Khách sửa chữa. Một chiếc guitar và một chiếc mandolin. Chiếc guitar có vẻ bị hỏng nặng. Hai người bọn họ rất gắn bó với nhau, họ có tài nhưng không có nhiều tiền. Họ đưa cho Robin vài đĩa hát mà họ tự sản xuất, một đĩa bánh xốp tự làm, và 75 đồng đôla tiền mặt thay vì phải trả nàng 50 đôla cho công việc nàng đã làm giúp họ. Tôi quan sát vụ giao dịch giữa họ từ buồng ngủ trên gác xép. Sau đó, Robin và tôi đã nghe hai đĩa hát của họ. Đó là các bài hát quần chúng, hầu hết là các điêu ballad và vũ điệu reel, được thể hiện một cách truyền thống và khá hay.
- Hai người là Bobby và Ben đúng không?
Bị tôi nhận ra, mối nghi ngờ của họ tan biến và lại trở nên bối rối.
- Robin Castagna là bạn của tôi - Tôi nói.
- Vậy sao? - Người đàn ông đáp lời tôi.
- Mùa đông năm ngoái cô ấy đã sửa nhạc cụ cho anh chị. Một chiếc trục bị rạn nứt, chiếc thì dây chùng, gập xuống, những phím đàn thì thật tệ và một cái cần đàn bị vỡ có đúng không? Ai đó đã nướng bánh xốp rất ngon.
- Vậy anh là ai? - Người phụ nữ hỏi.
- Thì như tôi đã giới thiệu với anh chị rồi đấy. Gọi cho Robin đi - bây giờ cô ấy đang ở cửa hàng đấy. Hỏi cô ấy về Alex Delaware. Hoặc là nếu anh chị không muốn bị làm phiền, làm ơn hãy nói cho tôi biết tôi có thể tìm Dawn Herbert ở đâu. Tôi không có ý định đến phiền cô ấy mà chỉ muốn lấy lại cái bệnh án thôi.
Họ không trả lời. Người đàn ông ngoắc ngón tay vào sau những dải dây quần.
- Đi gọi điện thoại đi - Người phụ nữ nói với người đàn ông.
Anh ta vào trong nhà. Cô ta ở lại, quan sát tôi, thở sâu, ngực lắc lư. Hai con chó cũng canh chừng tôi. Chẳng ai nói lời nào. Mắt tôi dõi theo những chuyển động từ hướng tây phía cuối dãy phố và bắt gặp một người cắm trại bên ngoài lối cho xe chạy vào nhà và một đống lộn xộn phía Spulveda. Có ai đó ở rìa phố đối diện đang treo lá cờ Mỹ. Bên ngoài, một người đàn ông lớn tuổi ngồi phịch xuống cái ghế ở bãi cỏ. Không chắc lắm nhưng tôi nghĩ ông ta cũng đang quan sát tôi.
Hẳn tôi là gã đẹp trai của thành phố Culver.
Người đàn ông với những dải quần lòng thòng quay trở lại sau vài phút, anh ta mỉm cười như thể vừa chạy tới chỗ đấng cứu thế vậy. Anh ta mang theo cái đĩa màu xanh nhạt đựng những chiếc bánh quy và bánh xốp.
Anh ta gật đầu. Cử chỉ đó và nụ cười của anh ta làm người phụ nữ kia thấy thoải mái hơn. Hai con chó bắt đầu vẫy đuôi.
Tôi đợi ai đó mời nhảy.
- Nào, Bob - Anh ta nói với người phụ nữ - Chàng trai này là bạn thân của cô ấy.
- Thế giới này thật nhỏ bé - Người phụ nữ nói. Cuối cùng thì cô cũng mỉm cười. Tôi nhớ giọng hát của cô trong đĩa, cao và trong, réo rắt và tinh tế. Giọng nói của cô cũng rất tuyệt.
- Cô ấy thật là một phụ nữ tuyệt vời - Cô ta nói như thể vẫn đang kiểm tra tôi - Anh có hay gặp cô ấy không?
- Hàng ngày.
Cô gật đầu, chìa tay ra và nói:
- Tôi là Bobby Murtaugh và đây là Ben. Anh cũng vừa giới thiệu những nhân vật này rồi.
Bọn chó chạy vòng quanh mừng rỡ. Tôi vuốt ve hai con chó và Ben đưa cái đĩa tới. Cả ba chúng tôi lấy bánh xếp ăn. Đó như là nghi lễ của một bộ lạc vậy. Nhưng thậm chí khi đang nhai bánh, trông họ vẫn có vẻ lo lắng.
Bobby ăn xong cái bánh xốp trước tiên, ăn tiếp chiếc bánh quy, sau đó là một cái khác, cô không ngừng nhai. Những mẩu bánh vụn rơi xuống ngực cô. Cô phủi chúng đi và nói:
- Hãy vào trong đi.
Hai con chó theo chúng tôi vào trong bếp. Một lát sau tôi nghe thấy tiếng chúng húp sùm sụp. Căn phòng phía trước có trần nhà phẳng, tối và u buồn. Phòng có mùi hôi của chó, mùi đường và ẩm ướt. Những bức tường màu nâu vàng và sàn nhà gỗ thông đã quá ọp ẹp, những giá sách tự làm không theo kích cỡ khoa học, vài cái hộp đựng nhạc cụ đặt ở nơi đáng lẽ kê bàn uống cà phê. Góc nhà là cái giá để bản nhạc được dựng lên, trên đó là một bản nhạc. Đồ đạc trong nhà cũng đều rất cũ. Trên những bức tường là chiếc đồng hồ kiểu Áo đã ngừng chạy ở hai giờ. Bức áp phích về cây đàn guitar của Martn được lồng vào khung kính, và vài tờ thông cáo tưởng nhớ tới Topanga Fiddle và Banjo Contest.
Ben nói:
- Mời ngồi.
Trước khi tôi kịp ngồi, anh ta nói tiếp:
- Xin lỗi phải nói với anh điều này, anh bạn, Dawn đã chết rồi. Ai đó đã giết cô ấy. Đó là lý do tại sao chúng tôi thấy hoang mang khi anh nhắc tới tên cô ấy, và một tên giết người khác. Tôi rất tiếc.
Anh ta nhìn xuống đĩa bánh xốp và lắc đầu:
- Chúng tôi vẫn không thể nào quên được chuyện này - Bobby nói - Anh có thể ngồi xuống nếu muốn.
Cô ngồi xuống chiếc ghế sô-pha cũ màu xanh. Ben ngồi cạnh cô, giữ cho đĩa bánh thăng bằng trên đầu gối.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế thấp có diềm đăng ten và nói:
- Chuyện ấy xảy ra khi nào?
- Cách đây hai tháng - Bobby nói - Tháng Ba, vào một ngày cuối tuần - trung tuần của tháng, mồng mười, tôi nghĩ thế. À không, mồng chín - rồi nhìn Ben.
- Đại loại là như thế - Anh ta nói.
- Em không chắc hôm ấy là mồng chín, anh yêu ạ. Hôm ấy là ngày nghỉ ở Sonoma, anh có nhớ không? Chúng ta chơi nhạc vào ngày mồng chín và trở về Los Angeles ngày mười - anh có nhớ lúc đó đã muộn như thế nào không bởi vì chúng ta gặp trục trặc với chiếc xe tải ở San Simeon? Ít nhất thì đó phải là lúc mà anh ta thông báo chuyện đó - tay cảnh sát ấy. Mồng chín. Đúng là mồng chín.
Anh chồng nói:
- Ừ, em nói đúng.
Cô nhìn tôi:
- Chúng tôi ra khỏi thị trấn đến chơi nhạc cho một lễ hội ở miền Bắc. Chiếc xe gặp trục trặc, chúng tôi bị chôn chân ở đó và không thể quay về cho mãi tới cuối ngày mồng mười. Sáng sớm ngày mười một, thực ra là thế. Có một tấm thẻ của cảnh sát trong hộp thư và một số điện thoại liên lạc. Một thám tử. Chúng tôi không biết phải làm gì và đã không gọi cho anh ta, nhưng anh ta đã gọi lại cho chúng tôi. Anh ta kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đó đã xảy ra và hỏi chúng tôi rất nhiều. Chúng tôi chẳng có gì để nói cho anh ta cả. Ngày hôm sau, anh ta và hai người đàn ông nữa tới xem xét kỹ lưỡng ngôi nhà này. Họ lấy được một chứng chỉ và mọi thứ... nhưng họ thì tốt.
- Thế là sao?
- Anh ta - thám tử - nói Dawn là.. - Cô vợ nhắm mắt lại và với lấy một cái bánh quy.
- Theo cảnh sát, đó là một người bị bệnh tâm thần - Ben nói - Anh ta nói rằng cô ấy thật ra là...
Anh ta lắc đầu.
- Thật là ghê tởm - Bobby nói.
- Họ chẳng ìtm thấy bất cứ cái gì ở đây cả - Ben nói. Cả hai người run rẩy.
- Khiếp quá - Tôi đế theo
- Vâng, đúng thế - Bobby nói - Dawn khiến chúng tôi sợ hãi - cô ta lại là người mà chúng tôi biết - Cô ta với lấy chiếc bánh khác, mặc dù nửa chiếc kia vẫn ở trong tay.
- Cô ta ở cùng nhà với anh chị?
- Người thuê nhà - Bobby nói. Chúng tôi là chủ ngôi nhà này. - Anh ta nói với vẻ kinh ngạc - Chúng tôi chung nhau một phòng ngủ nhưng thường dùng làm phòng tập, ghi vài cái đĩa hát tại nhà. Sau đó tôi bị mất việc, nên đã quyết định cho thuê căn phòng đó để kiếm thêm chút tiền. Chúng tôi đã dán thông báo ở trường đại học bởi vì chúng tôi cho rằng một sinh viên có thể muốn thuê phòng. Dawn là người đầu tiên gọi tới.
- Việc này xảy ra cách đây bao lâu?
- Tháng Bảy.
Cô vợ ăn cả hai chiếc bánh. Ben đặt bàn tay lên đùi vợ và xiết nhẹ. Miếng phó mát tươi. Cô ta thở dài.
- Lúc nãy anh nói gì nhỉ? - Anh ta hỏi tôi - Về chuyện cái bệnh án ấy mà. Có phải nó chưa được ướp lạnh?
- Người ta đề nghị cô ấy trả lại.
Họ nhìn nhau.
- Cô ấy gặp trục trặc về "nói" phải không? - Tôi hỏi.
- Đúng - Anh ta nói, vẻ không được thoải mái.
- Ban đầu không phải thế - Bobby nói - Lúc đầu cô ấy là một người thuê nhà tuyệt vời - gọn gàng, luôn ghi nhớ công việc của mình. Thực tế là, chúng tôi không gặp gỡ cô ấy nhiều bởi vì chúng tôi đi làm cả ngày và thỉnh thoảng ra ngoài vào ban đêm để hát. Mỗi khi phải ra ngoài, chúng tôi đi ngủ rất sớm. Cô ấy vắng nhà suốt - thực ra là vào ban đêm. Đó thật sự là một sự sắp xếp khéo quá.
- Chỉ có một trục trặc - Ben tiếp lời - Đó là cô ấy về nhà bất cứ lúc nào, bởi vì Homer là con chó canh gác tốt và khi cô ấy vào nhà, nó thường sủa ầm ĩ và chúng tôi làm sao có thể nói cho cô ấy biết tốt hơn là khi nào thì nên về nhà và khi nào thì nên ra khỏi nhà phải không? Ngoài ra thì hầu như không có vấn đề gì cả.
- Thế cô ấy bắt đầu lấy các vật dụng từ khi nào?
- Hai tháng sau khi cô ấy tới ở - Bobby nói - Lúc đầu chúng tôi không để các vật dụng cùng với nhau. Chỉ là những thứ lặt vặt - cái bút, những dụng cụ chơi guitar. Chúng tôi không sở hữu những thứ có giá trị, ngoại trừ các nhạc cụ và những thứ khác đã mất có phải vậy không? Mấy cái băng đài, một lốc sáu lon bia - những thứ cô ấy hoàn toàn có thể lấy đi nếu hỏi chúng tôi một tiếng. Trong việc ăn uống chúng tôi cũng rất thoáng, thậm chí cô ấy nên tự mua thức ăn cho chính mình. Sau đó là những thứ quý giá - một đôi khuyên tai. Và những chiếc khăn rằn của Ben, thêm vào đó là đôi móc treo - thứ đồ cổ mà anh ấy có được ở Seattle. Những cái dây căng trống bằng da thật, rất đẹp và nặng, loại này chúng tôi không tự làm ra được. Cái cuối cùng mà cô ấy lấy đi là thứ khiến chúng tôi khó chịu nhất đó là một cây trâm cài đầu của Anh mà tôi được kế thừa từ người bà - bằng bạc và nạm ngọc hồng lựu. Mặt đá đã bị sứt nhưng nó có giá trị về mặt tinh thần. Tôi để cây trâm bên ngoài tủ quần áo và ngày hôm sau thì nó biến mất.
- Thế cô có hỏi cô ta về cái trâm đó không? - Tôi nói.
- Tôi không thể ra ngoài và kết tội cô ta được, nhưng tôi đã hỏi cô ấy có trông thấy nó hay đôi khuyên tai không. Cô ta nói là không thấy, với vẻ vô tình. Nhưng chúng tôi biết chính cô ấy đã lấy đi những thứ đó. Còn ai vào đây nữa? Cô ấy là người ngoài duy nhất bước chân vào đây, và mọi thứ chẳng bao giờ biến mất cho tới khi cô ta tới.
- Đó hẳn phải là vấn đề tế nhị rồi - Ben nói - Thói ăn cắp vặt hay đại loại là như thế. Cô ta không thể có nhiều tiền từ những thứ đồ đó. Không phải cô ta cần tiền. Cô ta có nhiều quần áo và chiếc xe mới toanh.
- Loại xe gì?
- Một chiếc xe bỏ mui nhỏ - hiệu Mazda, tôi cho là thế. Cô ấy có nó sau lễ Giáng sinh, lúc đầu đến đây ở cô ấy chưa có chiếc xe này. Thực tế là chúng tôi có thể đòi cô ấy trả tiền thuê nhà cao lên một chút. Chúng tôi tính giá cho cô ta tất tật chỉ có 100 đôla một tháng. Chúng tôi nghĩ rằng cô ấy là sinh viên rất nghèo.
Bobby nói:
- Cô ta hoàn toàn có vấn đề về đầu óc. Tôi phát hiện ra những thứ lặt vặt mà cô ta ăn cắp ở gara, giấu dưới ván sàn, trong cái hộp cùng với một bức tranh của cô ấy - như thể cô ta muốn đóng cọc nhận phần vậy, giống như cái tổ sóc nhỏ hay thứ tương tự như thế. Nói đúng ra, cô ấy quá tham lam - Tôi biết nói thế thì không nhân đạo nhưng đó là sự thật. Mãi sau này tôi mới hiểu rõ điều đó.
- Cô ta tham lam theo cách nào?
- Chiếm lấy những thứ tốt nhất cho bản thân. Giống như thể có cái bánh kem để trong tủ lạnh, anh quay lại và thấy rằng tất cả kẹo mềm đã bị đào hết và chỉ còn lại quả vani mà thôi. Hay một bát anh đào, tất cả những quả chín đều bị lấy đi.
- Cô ấy có trả tiền nhà đúng hạn không?
- Nhiều hơn hoặc ít hơn. Thỉnh thoảng cô tôi chậm một hoặc hai tuần. Chúng tôi chẳng bao giờ phàn nàn gì cả, và cô ta luôn luôn trả tiền, thực tế là thế.
Ben nói:
- Nhưng không khí giữa chúng tôi đã trở nên căng thẳng.
- Chúng tôi cũng nghĩ tới việc bảo cô ta chuyển đi chỗ khác - Bobby nói - Chúng tôi đã bàn tới chuyện này khoảng hai tuần trước khi chuyện tồi tệ đó xảy ra. Rồi sau đó chúng tôi có một hợp đồng biểu diễn ở Sonoma và bị trói chân ở đó. Khi chúng tôi trở về nhà thì...
- Thế cô ấy bị giết ở đâu?
- Ở đâu đó trong thành phố. Ở một câu lạc bộ.
- Một hộp đêm phải không?
Cả hai bọn họ gật đầu. Bobby nói:
- Từ những gì tôi thu lượm được thì đó là một trong những địa điểm của New Wave. Thế tên của nó là gì nhỉ Ben? Tên Ấn Độ có đúng không?
- Mayan - Người đàn ông đáp - The Moody Mayan. Hay tên gì đó gần như thế - Anh ta cười - Cảnh sát đã hỏi chúng tôi là có mặt ở đó lúc vụ việc xảy ra không?
- Thế Dawn có phải là hội viên của New Wave không?
- Lúc đầu thì không. - Bobby nói - Ý tôi là khi tôi gặp cô ấy, trông cô ta có vẻ rất nghiêm nghị. Thực tế là rất đứng đắn. Chúng tôi nghĩ cô ấy cho rằng chúng tôi quá dễ dãi. Sau đó dần dần cô ta trở nên đổ đốn. Một điều nữa tôi muốn nói với anh là cô ấy rất thông minh. Thường xuyên đọc sách, nghiên cứu môn toán sinh hay môn gì đó đại loại như thế. Nhưng đêm về cô ấy thường thay đổi - ăn diện và đi ra noài. Đó là điều Ben muốn nói về quần áo của cô ấy - quần áo kì cục, rất nhiều cái màu đen. Cô ấy thường bôi thuốc nhuộm lên mái tóc, thứ thuốc có thể gội sạch ngay được, giống như hoá trang vậy. Sáng hôm sau cô ấy lại chỉnh tề, và đi làm bình thường. Anh sẽ không thể nhận ra cô ấy được đâu.
- Thực tế thì cô ấy bị giết ở câu lạc bộ đó phải không?
- Tôi không biết - Ben đáp - Chúng tôi không được nghe chi tiết về việc này, chỉ muốn cảnh sát hãy sớm mang những thứ đồ đạc lủng củng của cô ấy ra khỏi chỗ của chúng tôi.
- Thế anh chị có nhớ tên vị thám tử kia không?
- Gomez - Họ đồng thanh.
- Ray Gomez - Bobby nói - Anh ta là fan hâm mọ của ban nhạc Los Lobos và thích thể loại nhạc doo-wop. Không phải là một anh chàng tồi đâu.
Ben gật đầu. Đầu gối của họ tì vào nhau và áp lực khiến chúng chuyển thành màu trắng.
- Đứa bé đang phải chịu đựng những gì từ việc Dawn ăn trộm bệnh án - Ben hỏi.
- Chúng tôi vẫn có thể làm việc được, có điều sẽ tốt hơn nếu có bệnh án này - Tôi đáp.
- Thật ngại quá - Ben đáp - Rất tiếc chúng tôi không thể giúp gì được cho anh. Cảnh sát đã lấy đi tất cả những đồ dùng của cô ấy và tôi chẳng thấy cái bệnh án nào cả.
- Thế còn những thứ mà cô ta lấy cắp thì sao?
- Không, cũng không có bệnh án nào ở đó cả. Chẳng phải cảnh sát đã tìm rất kỹ càng nhưng cũng không thấy được gì sao? Nhưng để tôi kiểm tra xem cho chắc chắn - có thể bên trong vành mũ hay ngóc ngách nào đó.
Cô ta đi vào trong bếp và lát sau quay trở lại cùng với chiếc hộp đựng giày và một mảnh giấy.
- Trống rỗng - đây là ảnh của cô ấy. Dawn để nó ở trên gác. Giống như cô ấy đang khăng khăng tuyên bố vậy.
Tôi cầm bức ảnh của Dawn lên. Ảnh chân dung đen trắng. Bốn phiên bản của gương mặt một thời xinh đẹp, nay bị phết đầy mỡ và bị sự nghi hoặc huỷ hoại. Mái tóc đen mượt, đôi mắt to đen. Đôi mắt đã bị thâm tím lại. Tôi đưa trả lại. Bobby nói:
- Anh cứ giữ đi. Tôi không cần nó.
Trước khi cho bức ảnh này vào túi, tôi cầm một bức khác lên. Bốn tư thế nhận dạng, nham hiểm và đề phòng.
- Buồn - Tôi nói.
- Đúng, cô ấy chẳng cười nhiều bao giờ - Bobby nói.
- Có thể cô ấy để nó trong văn phòng của mình ở trường đại học - ý tôi là cái bệnh án ấy - Bob nói.
- Thế chị có biết cô ấy học khoa nào không?
- Không, nhưng ở đó có một số máy lẻ mà cô ấy đã đưa cho chúng tôi, 2-2-3-8, đúng o nhỉ?
- Tôi cũng nghĩ thế - Bob nói.
Tôi lấy tờ giấy, cây bút ra khỏi cặp và ghi lại.
- Cô ấy là sinh viên y khoa có phải không?
- Khi thuê nhà, cô ấy nói học toán sinh hoặc khoa gì đó tương tự thế.
- Cô ta có từng nhắc tới tên của giáo sư hướng dẫn cô ấy không?
- Cô ấy có đưa cho tôi một cái tên tham khảo thôi, nhưng thú thực chúng tôi chẳng bao giờ gọi cả - Bobby nói và mỉm cười e lệ.
- Những thứ vụn vặt - Bob nói - Chúng tôi cần gấp một người thuê nhà, và cô ấy có vẻ đáng tin cậy.
- Ông chủ duy nhất của cô ấy từng nói tới là một người đàn ông ở bệnh viện - người đó đã bị giết. Nhưng cô ấy chẳng bao giờ nhắc tới tên ông ấy cả.
Ben gật đầu:
- Cô ấy không ưa ông ta lắm.
- Tại sao lại thế?
- Tôi không biết. Cô ấy không bao giờ đi sâu vào chi tiết - chỉ nói rằng ông ta là đồ bẩn thỉu, kiểu cách và cô ấy sắp nghỉ không làm việc chỗ ông ta nữa. Sau đó cô ấy không làm ở đấy nữa, lúc đó là tháng Hai.
- Thế cô ta có công việc nào khác không?
- Cô ấy không nói về việc ấy - Bobby nói.
- Vậy anh chị có biết cô ấy chi trả cho những hoá đơn của mình bằng cách nào không?
- Không, nhưng cô ấy luôn luôn có tiền để chi trả.
Ben cười mệt mỏi.
Bobby nói:
- Gì cơ?
- Cô ta và ông chủ của mình. Cô ấy ghét ông ta nhưng giờ họ lại cùng trên một chiếc thuyền của cảnh sát Los Angeles.
Bobby rùng mình và ăn thêm một cái bánh. |
|
|