Thứ hai, ngày 30 tháng 7 Ngủ dậy đúng giờ, quả là một vấn đề mà mỗi sáng đều phải nghĩ đến.
Đa số đội viên chúng tôi đều tỉnh ngủ rất sớm. Nhưng mãi cho tới lúc phải dậy thì nói chung, không mấy ai chịu dậy cả.
Chúng tôi cứ nằm lì ra, đứa thì ngáp, đứa thì vươn vai, dướn lưng. Mãi mới có mấy cậu chịu chui ra khỏi chăn ấm.
Hôm nay cũng thế. Loa truyền thanh đã phát ra những bản nhạc du dương, phấn khởi như thường lệ.
Pô-le vừa ngái ngủ vừa lấy tay gõ nhịp. Li-pu-li-pu thì ngáp lấy ngáp để. Khơ-lao phụng phịu tỏ vẻ rất ức về cái khoản nội quy “phải dậy đúng giờ”.
Thật ra thì chẳng còn sớm gì nữa.
Oan-tơ, Pi-tơ và Han-si đã ra cả ngoài lều. Chúng bảo nhau vén hẳn tấm vải bạt ở cửa ra vào lên, và cùng nhau huýt sáo theo điệu nhạc phát thanh.
“Chào các em đội viên thiếu niên tiền phong. Muộn lắm rồi, dậy đi thôi!” Cái câu đánh thức đó của máy phát thanh mọi người đã nghe quen quá, bây giờ lại nổi lên, làm khắp trại chỗ nào cũng như bị xáo động hết.
Lúc đầu, những cậu mới dậy không chịu ra ngoài ngay, cứ đà đận vừa giụi mắt vừa đi, đầu tóc rối bù, và vẫn cố ngáp nốt mấy cái cuối cùng. Trong lều thì không hẳn đã hết chuyện; Pô-le vẫn ngồi trên chiếu mắt nhắm mắt mở, trông như một con cá gặp ánh sáng. Hen-mu thì bị mất chiếc giày, tìm không thấy, cứ ngoạc mồm ra chửi, làm những cậu khác đều phải dậy hết. Khơ-lao mở to mắt, song vẫn nằm im. Riêng có Đích-dơ và Mai-ơ là vẫn ngủ như chết.
- Lay chúng nó dậy đi! Sắp tới giờ tập thể dục rồi, chúng ta không thể cứ như trước mãi, hôm nào cũng ra chậm nhất liên đội. – Li-pu-li-pu đã cao giọng gắt.
Ếc-vin vội tới vỗ vỗ vào Đích-dơ. Cậu này giật mình choàng dậy, tức quá quát luôn:
- Kệ xác ông, cút đi!
- Này cái thằng hạt mít, đừng có lạc hậu thế. – Oan-tơ nói. – Cứ chuyên môn dậy muộn nhất như thế không coi được.
- Thôi, cứ lôi cổ cả hai thằng dậy đi! Bọn mình lần nào chậm cũng tại hai chúng nó thôi.
Mấy cậu khác thấy ngứa mắt cũng nói theo.
Chi đội lều số 4 đã chạy huỳnh huỵch qua trước lều chúng tôi, theo sau là chi đội lều số 8. Chúng nó đã bắt đầu tập chạy đường dài.
- Chị Hai-ga kia rồi! – Hen-mu reo lên để báo tin cho chúng tôi biết. –Khơ-lao và Măm-phơ lê bấy giờ mới chịu lồm cồm bò dậy. Những đứa khác cũng đứng cả sang một bên để đợi. Chỉ có Đích-dơ và Mai-ơ là vẫn như không có chuyện gì. Chúng vẫn nằm im, vờ như chưa tỉnh ngủ.
- Chị Hai-ga đã đến! – Li-pu-li-pu nói thật to. – Dậy đi thôi, mau lên, đồ ăn bơ làm biếng! – Nhưng hai cậu vẫn không thèm cựa quậy.
Chị Hai-ga đã đứng ngay bên cột mà hai đứa vẫn không nhúc nhích, không nói gì.
- Ồ, hai em làm sao thế, mạnh dạn lên chứ! – chị Hai-ga nói. – Lại chịu kém thế à?
- Đời nào em chịu. – Mai-ơ phụng phịu.
- Chân em nó cứ đau đau. – Đích-dơ nói.
- Chúng nó nói láo đấy, chị đừng nghe, – chúng tôi cùng nói rộ lên.
- Ồ, Mai-ơ, dậy đi em! – Chị Hai-ga gọi.
Mai-ơ đành chống hai tay, uể oải ngồi dậy.
- Còn em Đích-dơ, em làm sao?
- Em thấy đau đau ở chân. – Cậu ta lại chối.
- Giơ ra cho chúng tớ xem nào? – Chích choè nói.
- Thôi, Đích-dơ à, dậy đi em ạ. – chị Hai-ga gọi.
- Chân em đau thật, em không dậy được đâu.
- Không, em nói đùa thế, chứ chân em có đau đâu mà đau. – Chị Hai-ga nói thật to.
- Đau thật ạ.
- Ừ, thế em đưa chị xem.
Đích-dơ cứ nằm yên, không động đậy.
- Thế thôi vậy, tuỳ em.
- Tất cả hãy theo chị. – nói xong, chị đi ngay ra lùm cây. Chúng tôi dàn hàng một chạy theo. Mai-ơ chạy sau chót.
Mỗi sáng chạy một vòng ở dưới lùm cây như thế này, rất tốt cho mọi người. Mặt đất xốp xốp đượm sương đêm vừa mát vừa âm ẩm; tiếng chim ríu rít trên cây ca ngợi buổi bình minh, như để phá tan cái không khí vắng lặng đang bao phủ cả một vùng.
Chúng tôi tập thở hít thật dài hơi và tập các kiểu vận động co chân xoay hông. Tập xong, ai nấy đều thấy toàn thân như có hơi nóng trong người bốc len. Và các mạch máu trong cơ thể cũng như thêm phần rạo rực.
Lúc chúng tôi về lều, Đích-dơ vẫn nằm nguyên như cũ.
- Ờ, các cậu lại mà xem này! – Khơ-lao gọi.
- Cậu này chắc bị liệt chân rồi! – Pô-le nói.
Chích choè cũng nói theo:
- Nào chúng ta cùng đến lôi nó lên, nhất định nó phải dậy!
- Thôi, đừng làm thế. – Oan-tơ nói. – Cứ để nó nằm đó.
Chúng tôi lại để yên cho nó nằm, nhưng không phải mặc cho nó được tuỳ tiện thế đâu. Chúng tôi biết là, tới lúc anh tổng phụ trách đi thăm các lều, nhất định anh ấy sẽ biết chuyện, trông thấy nó nằm, anh ấy sẽ chỉnh hộ. Và lại chân nó có đau gì đau, vừa rồi nó nói thế là nói dối. Chẳng qua chỉ là nó muốn trốn tập thể dục thôi. Mà đây cũng không phải là lần đầu. Nó đã dối trá như thế mãi rồi, có điều là gần đây nó càng hay giở quẻ. Trước kia, chúng tôi thấy vậy cũng mặc. Nhưng bây giờ, chúng tôi đã quyết tâm sửa chữa cho chi đội lều số 13 trở thành một chi đội khá, nên nhất định không thể làm ngơ như thế mãi được.
Lúc chúng tôi đi rửa mặt về, nó vẫn nằm như cũ. Rồi nó giở sách ra xem, không để ý gì đến chúng tôi. Mai-ơ thì ngồi cạnh nó, mặt vẫn chưa rửa.
- Đích-dơ à! – Han-si gọi, – Cậu đừng dối trá thế. Chân cậu có đau đâu mà bảo đau.
- Ờ, đúng như cậu nói thì đã sao chưa?
- Như thế là cậu lừa dối chị Hai-ga, mà cũng là lừa dối cả anh tổng phụ trách nữa.
- Phải, đừng có ra điều tiến bộ dạy đời. Tớ nghe mãi, ngấy lắm rồi.
Li-pu-li-pu xô lên một bước, nói:
- Chúng tớ có gì là ra điều tiến bộ, chúng tớ có lên mặt bao giờ đâu. Có cái là một đội viên thiếu niên tiền phong thì không được nói dối, có thế thôi, biết không?
Đích-dơ “pì” một tiếng, quay mặt đi.
Chích choè réo:
- Cứ mang nước vào giội cho nó một mẻ, xem nó có dậy không?
- Ấy, đừng có dại dột thế. – Oan-tơ can, – chúng mình phải nghĩ cách sửa chữa cho nhau chứ. – nó nói câu này hơi to: – Tớ đề nghị là phải triệu tập cuộc họp ban chỉ huy chi đội ngay, chào cờ xong là họp luôn.
Đích-dơ cười nhạt một tiếng, lại giở sách ra xem.
Sau bữa cơm sáng, chúng tôi lại mạn đàm với nó một lúc nữa. Nó nhất định không chịu nhận khuyết điểm. Cuộc họp ban chỉ huy chi đội không thể nào họp được.
Vì là họp sau lễ chào cờ, nên chị Hai-ga không biết tí gì. Mãi khi xong việc, chị mới biết là chúng tôi đã quyết định ra sao. Đó là quyết định của toàn thể đội viên chi đội lều số 13, kể cả Mai-ơ nữa, đều nhất trí thông qua, nội dung bản quyết định là: Đích-dơ phải nhận lỗi của mình, phải thành thật kiểm điểm. Trứoc khi nó làm xong hai việc trên, toàn thể chi đội không ai được nói chuyện với nó.
Chị Hai-ga không đồng ý lắm về quyết định của chúng tôi. Chị nói, chúng tôi cũng không chịu dậy sớm, mà cho rằng nó có dậy sớm chăng nữa, thì so với các chi đội khác cũng chẳng có gì là sớm cả.
Chúng tôi không đồng ý với lời phê phán ấy. Thứ nhất, chúng tôi bao giờ cũng dậy đúng giờ; thứ hai, chúng tôi không bao giờ định trốn tập thể dục. Còn Đích-dơ thì dối trá rành rành ra. Vì thế chúng tôi không chơi với nó nữa.
Thế là chúng tôi cứ mặc cho nó nằm và cũng mặc cho Mai-ơ ngồi bên cạnh nó. Chúng tôi lấy vở kịch, theo chị Hai-ga ra lùm cây.
Vẫn trên khoảng đất sáng hôm kia chúng tôi đã họp để chuẩn bị tiết mục góp vui và rồi đã bị nhục một vố nên thân, hôm nay chúng tôi lại họp ở đấy để tập vở kịch này lần thứ nhất.
Chúng tôi ngồi cả trên thảm cỏ. Chị Hai-ga bảo chúng tôi hãy đọc cả vở ba bốn lượt từ đầu đến đuôi, mỗi người đều phải đọc lời của mình. Chị nhắc chúng tôi là tất cả đều phải luôn luôn nhớ câu cuối cùng của người khác (cũng gọi là câu nhắc ngầm), để biết mà nói tiếp câu của mình ra sao. Đồng thời, chị cũng dặn chúng tôi nên nhấn mạnh vào những chỗ nào; câu nào, tiếng nào thì nên dằn giọng.
Chúng tôi theo lời chị, đọc như thế ba lượt từ đầu đến cuối. Sau đó, Oan-tơ nói:
- Bây giờ, chúng em có thể yên trí diễn thử được rồi, vì vở kịch chúng em đã học thuộc ngay từ tối hôm qua.
- Ừ. – chị Hai-ga nói. – Có điều là các em phải chú ý những chỗ dừng, nghỉ, nếu không sẽ diễn không được hay. Phải đấy, chị cũng thấy là bây giờ có thể diễn thử được rồi.
Bấy giờ, mọi người đều như nghiêm túc lên. Ngay Chích choè cũng không còn bụng dạ nào đùa nghich như mọi khi nữa.
Chị Hai-ga nói:
- Để chị ra sân khấu trước, tuyên bố với các đội viên là chúng ta diễn tiết mục gì đã.
Lúc chị nói, mọi người đều lẳng lặng nghe.
Lô-ti se sẽ hích Phu-lân một cái, rồi hai đứa nhếch mép cười với nhau.
- Thưa các bạn, chúng tôi sẽ biểu diễn tất cả những chuyện đã lần lượt xảy ra từ trước tới nay. Chúng tôi xin kể tóm tắt tình hình sinh hoạt ở trại hè bắt đầu từ ngày thứ nhất để các bạn nắm vững nội dung tối kịch, sau đó chúng tôi mới biểu diễn.
- Chị Hai-ga à! – Hen-mu nói cướp lời. – Cái vai anh Mich thì làm… làm thế nào? Có thể tìm được ai đóng… đóng anh ấy không?
- Chị đã bàn cả với anh Mích rồi. Anh ấy đã bằng lòng đóng với chúng ta. – Khi nói, mắt chị sáng lên một cách sung sướng và tự hào.
Chúng tôi đều giật mình, trố mắt lên hỏi:
- Chị đã bàn với anh ấy thật à?
- Thật, đã bàn bạc đâu vào đấy rồi.
- Thế anh ấy cũng tham gia biểu diễn ạ?
- Phải, anh ấy cũng tham gia với chúng mình.
- Thế anh ấy không giận chúng em nữa ư?
- Việc gì mà anh ấy giận? Các em không hợp với anh ấy. Tất nhiên, cũng có những chỗ mà lỗi là tự các em, các em phải chịu trách nhiệm. Còn anh ấy, thì cũng thế, anh ấy cũng có chỗ không đúng. Điểm này, anh ấy đã nhận cả. Vì thế, anh ấy mới vui vẻ đến tham gia biểu diẽn với mình chứ.
- Phục thật, phục thật! – Li-pu-li-pu nói. – Anh Mích như thế thì phục thật đấy!
Chúng tôi đều mừng rỡ và rất phấn khởi về cái tin quý báu này.
Tôi nghĩ nếu anh Mích mà thấy rõ những chuyển biến mới đây của chúng tôi, nhất định anh sẽ phải ngạc nhiên. Mà nói cho thật, thì ngay tôi, tôi cũng không tin là chúng tôi lại có thể chóng tiến bộ được đến thế.
- Thôi, để chị tiếp tục nói đã. – chị Hai-ga lại nói. – Sau khi anh Mích đi khỏi, tôi mới về thay. Các đội viên ở đây, đều không thích làm và học, nghĩa là chỉ có độ năm ba em thích thôi, còn thì đại đa số là không thích. Và do đó chi đội này đã đi đến chỗ bị gãy trước mặt mọi người trong tối liên hoan vừa qua. Sau đây, chúng tôi sẽ biểu diễn những chuyển biến tốt của chi đội này, chúng tôi đã đồng tâm hợp lực cộng tác, và đã thành công. Màn kịch thế là hết!
- Màn kịch thế là hết. – chúng tôi cùng nhắc lại.
Li-pu-li-pu nói:
- Tục ngữ nói đúng quá: Màn kịch hết là mọi việc xong, tất cả đồng lòng là ai cũng thích.
Tiếp đó, chúng tôi bắt đầu diễn thử ngay. Trước hết, chị Hai-ga nói rõ là chúng tôi phải đứng ở đâu, đứng như thế nào. Chị bảo chúng tôi phải làm giả như vừa mới ở Bá-linh về trại và chị bảo Măm-phơ-lê đừng cầm cái lọ thuỷ tinh đựng thằn lằn vội, vì nó cứ mang kè kè mãi cái lọ ấy không chịu rời ra lúc nào. Đó cũng là tại chúng tôi đồng ý cho nó mang lên sân khấu, nhưng là để đến lúc diễn cơ, đằng này nó cứ cầm luôn ở tay.
Rồi chúng tôi bắt đầu diễn lại những niềm vui sướng của những bạn mới tới trại hè.
Đến đây, chị Hai-ga cũng phải nói đúng như trong vở. Chị tạm thay anh Mích ra diễn vai của anh ấy. Trong vở có ghi rõ là lúc anh ấy tới lều thì chúng tôi đang lăn lộn trên giường và cũng ghi rõ những câu nói khích của anh Mích để động viên chúng tôi bỏ tật xấu, ghi rõ những câu chúng tôi bắt bí anh ấy. Chúng tôi diễn lại những câu nói kháy giữa chúng tôi, những cuộc tranh cãi giữa Hen-mu và Chích choè; Chích choè làm lại cái ngón cướp bánh mì và Măm-phơ-lê làm lại cái trò nhai nhồm nhoàm lúc ăn. Sau khi diễn xong cái trò tranh ăn giữa chúng tôi, chúng tôi nằm lăn ra bãi cỏ, vỗ bụng, làm các điệu ngáo ộp, và lúc đó anh Mich lại đến…
(xin nhớ là vẫn chị Hai-ga đóng thay, chưa phải anh Mich thật).
Anh Mích: “Các em chú ý. Sáng ngày mai các em phải họp chi đội, để bầu ban chỉ huy chi đội của chúng ta”.
Oan-tơ: “Nhưng chúng em chưa thật hiểu nhau thì làm sau mà bầu được”.
Anh Mích: “Cái đó không ngại. Các em đã có lúc cùng đợi tàu với nhau, cũng không còn lạ nhau lắm. Hơn nữa lại đều là đội viên thiếu niên tiền phong cũng khá lâu rồi kia mà”.
Pô-le: “Không đâu, em mới gia nhập tháng trước thôi”.
Phu-lân: “Em cũng thế”.
Măm-phơ-lê, Ếc-vin và Chích choè: “Em cũng thế”.
Anh Mích: “Ờ, nhưng ban chỉ huy chi đội là gì, tất cả các em phải biết cả chứ?”
Pô-le: “Em vẫn chưa biết ạ”.
Oan-tơ: “Thế thì cậu ở liên đội nào đến đây đã? Ở liên đội các cậu không có ban chỉ huy chi đội à? Nếu thế thì các cậu làm thế nào mà hoạt động chi đội được?”
Pô-le: “Tớ không biết chúng nó làm thế nào cả”.
Anh Mích: “Có điều là, các em đã là đội viên thiếu niên tiền phong thì phải biết tổ chức của đội là thế nào rồi chứ”.
Pô-le và Chích choè: “Ồ, chúng em vừa mới vào Đội, cái đó có gì là lạ; chúng em không biết tổ chức của Đội ta ra sao là thường chứ”.
Anh Mích: “Không biết thì cũng phải biết. Sáng mai các em phải bầu ban chỉ huy chi đội”. Và anh nói với Oan-tơ: “Em có thể nói qua về nhiệm vụ của ban chỉ huy chi đội cho các em ấy nghe một lượt không?”
Oan-tơ: “Anh hỏi buồn cười quá. Ban chỉ huy chi đội có nhiệm vụ điều khiển mọi hoạt động của chi đội và cắt đặt công tác cho các phân đội chứ gì!”
Khơ-lao: “Mà các phân đội phải giúp đỡ ban chỉ huy. Chẳng hạn như lúc chuẩn bị họp thì một phân đội phụ trách sắp xếp chỗ họp, một phân đội khác thì lo việc thảo luận tác phẩm văn nghệ,…”
Anh Mích: “Đúng, đúng lắm. Do đó, các đội viên mới vào Đội, phải chịu khó học tập ở trại hè này, để rồi khi về đội mình, sẽ giúp đỡ được các đội viên ở nhà”.
Pô-le: “Chúng em muốn tha hồ tắm có được không?”
Anh Mích: “Bây giờ, không nói chuyện ấy vội”.
Lô-ti: “Thì hỏi thế có làm sao. Anh hãy trả lời câu em hỏi ấy đã”.
Anh Mích: “Thì hẳn là có thể tắm được chứ sao.”
Hen-mu: “Mà chúng em có thể đi chơi được chứ?”
Han-si: “Ở đây, có tổ chức thi đạt huy hiệu thể dục thể thao không hả anh?”
Măm-phơ-lê: “Ở đây có thằn lằn không anh?”
Khơ-lao: “Buổi sáng chúng em phải dậy từ mấy giờ ạ?”
Pi-tơ: “Ở đây có thuyền không anh?”
Oan-tơ: “Chúng em ở đây có được bầu ban chỉ huy liên đội không anh?”
Anh Mích: “Thôi, thôi, khoan hẵng! Các em cứ hỏi rối lên thế, thì anh trả lời làm sao được!”
Thật vậy, chúng tôi cứ mỗi đứa một câu nhao nhao lên như thế thì anh Mích làm sao mà trả lời kịp. Nên chi anh cũng kêu toáng lên. Và do đó, về sau giữa anh và chúng tôi cứ xa nhau mãi, càng ngày càng tệ. Điểm này các bạn đã biết rồi, đây không nhắc lại nữa. Có điều là về phần vở kịch thì tôi không chép thêm mà nói ngay chuyện chúng tôi đi thuyền đã.
Hôm nay, lúc ăn sáng xong, tất cả chúng tôi đều đi chơi thuyền. Li-pu-li-pu, Lô ti và Pô-le ngồi chung một chiếc, Pi-tơ, chị Hai-ga và tôi ngồi một chiếc khác. Chị Hai-ga cũng đi, vì chị còn phải trông coi chúng tôi.
Mỗi chi đội được đi thuyền một giờ. Những ai muốn đi phải rút thăm để cho khỏi suy bì.
Những cậu không rút thăm đều giảu môi phụng phịu tỏ ý hậm hực. Nhưng chúng cũng không thể không đồng ý với cách giải quyết rất công bằng hợp lý là rút thăm này. Chúng thừa biết là, cả chi đội chỉ có năm người được đi, vì thuyền có ít mà người lại nhiều, phải để cho các chi đội khác cũng được hưởng quyền lợi như chi đội mình, không thể chiếm cả được.
Hai chúng tôi đẩy thuyền xuống nước. Bọn chúng nhìn chúng tôi bằng cái nhìn thèm thuồng và ghen tị.
Chúng tôi và chị Hai-ga cùng ra bến ở bên hồ. Những chiếc thuyền này vừa nhỏ vừa dài, xung quanh có mấy đội viên thiếu niên tiền phong đang đứng.
Li-pu-li-pu, Lô-ti và Pô-le cãi nhau ỏm tỏi vì tranh nhau chỗ ngồi. Pô-le cứ đòi cầm chèo.
- Mày chèo uể oải lắm. – Li-pu-li-pu nói.
- Còn mày ngù ngờ thế, mà lại đòi chỉ huy chúng tao à? – Pô-le vặn lại.
- Ở đây không có ai có quyền chỉ huy ai cả. – Chị Hai-ga nói. – Các em nên nhớ là đầu mũi càng cao thì chèo càng đỡ mệt. Có phải thế không? Vậy thì em nào nhẹ người nên ngồi ở mũi, để em nặng cân ngồi ở lái mới đúng.
- Cái đó, em biết thừa đi rồi. – Pô-le nói có vẻ ấm ức, song cũng phải nghe ngay.
Lô-ti là đứa thứ hai trèo vào thuyền.
- Phải giẫm vào ván thuyền kia! Tuyệt đối không đuợc giẫm vào cạp thuyền! – Chị Hai-ga nhắc nó.
Nó bặm môi thật chặt, đứng lom khom ở giữa lòng thuyền, lảo đảo, định vớ một cái gì có thể vịn được.
- Hừ, ngồi xuống đi! – Li-pu-li-pu cười nói.
Lô-ti tức thì ngồi phịch xuống như bị ngã.
Pô-le cáu tiết, mắng:
- Mày điên đấy à!
- Không sao, – Lô-ti nói, và nó thấy là đã thật sự an toàn, không sợ gì hết. Không ngờ tới lúc Li-pu-li-pu trèo vào thuyền, nó lại hoảng lên, vội đưa tay ra vịn vào cạp thuyền. May mà cũng chẳng sao cả.
Li-pu-li-pu thành thạo như một chú lái nhỏ. Nó trèo vào thuyền đã gọn mà tìm chỗ ngồi cũng rất dễ.
Đã có thể bắt đầu chèo được rồi. Chị Hai-ga và chúng tôi đều đợi chúng nó mất khá lâu.
- Chúng ta chèo đi đâu bây giờ nào? – Chị Hai-ga hỏi.
- Ồ, đi đâu thì đi. – Pô-le đáp và nói thêm. – Mục đích chỉ cốt chèo chơi một lát cho khoái thôi. – Rồi nó huýt một tiếng còi thật to, tỏ vẻ rất thích thú.
- Em muốn vào trong bụi lau để lấy ít ống sậy, chị ạ. – Lô-ti nói.
- Không được. – Li-pu-li-pu gạt ngay. – Vào trong ấy không có chỗ đỗ, mà lội xuống thì cũng không lội được. Gọi là cứ bơi thẳng ra sông con thôi.
Pi-tơ và tôi không nói gì, chúng tôi cũng nghĩ như Pô-le. Thế là tất cả cùng lái về phía đông bắc, bơi men theo bờ hồ ở ngay chỗ đầu dốc gần trại.
Ở đây, có một đám lau xanh rờn và rất rậm, ngăn hẳn tầm mắt chúng tôi. Lái qua đám lau, chúng tôi bơi đến chỗ bến tắm. Từ trong thuyền nhìn ra, cảnh vật xung quanh – khu trại và mấy người cảnh vệ đang ngồi ở trên chiếc thuyền cũ kĩ tại bến tắm – đều như có vẻ khác lạ, không giống mọi khi. Chúng tôi ngắm nhìn những hàng lau sậy và rặng thông trên bờ, lắng nghe các đội viên đang hát theo nhịp một chiéc phong cầm nào đó.
Bồng bềnh trên mặt nước thế này thật là thú quá! Thuyền thì nhỏ, càng nhỏ càng xinh, bóng thuyền lung linh lồng xuống đáy nước. Mặt hồ lăn tăn ánh sáng, sáng lên như muôn chuỗi pha lê. Nhìn sang bờ trước mặt, sao mà xa quá thế. Rừng thông ở đằng xa kia, hôm nay như xanh thắm lại và êm ái quá chừng. Mấy cây to lá ở gần đó trông cứ thưa dần. Bóng cây dốc ngọn xuống hồ trông như mọc ngược. Lau sậy và những cột buồm trên các xuồng máy cũng như cắm ngược cả xuống hồ.
Bức tranh đó thật là càng ngắm càng thấy đẹp không sao tả xiết.
Người ta như không nghe thấy tiếng chiếc xuồng lướt trên mặt nước.
Mỗi khi mũi thuyền cản sóng, thường reo lên những tiếng nước vỗ lép bép. Và mỗi khi mái chèo khuấy xuống là bọt nước lại tung lên, rồi nước từ mái chèo lại rơi như mưa xuống mạn thuyền.
Mấy chiếc xuồng ở các chi đội khác cũng đang chèo sát bên xuồng chúng tôi.
Lô-ti và Pô-le lại bắt đầu cãi nhau.
- Mày thì biết gì. – Pô-le nói. – Thuyền con tất nhiên là phải lướt nhanh như nó đã lướt chứ.
- Nhưng dù sao cũng không nhanh bằng xe đạp được. – Lô-ti nói.
- Ai bảo. Chính mắt tớ thấy là nó nhanh bằng đấy. – Pô-le cãi lại.
- Có lẽ là cậu nằm mơ thấy chứ gì. – Lô-ti bảo.
- Chị Hai-ga ơi! – Pô-le bỗng gọi váng lên. – Chị Hai-ga à! Chị bảo cái thuyền con này có đi nhanh bằng xe đạp không?
- Còn tuỳ xem người bơi thuyền thế nào đã chứ.
Ngoắt một cái, Pô-le quay ngay lại:
- Ờ, cậu có nghe thấy không? Giờ cậu đã tin chưa? Hử?
Lô-ti cười nhạt nói:
- Nếu người ngồi thuyền là cậu, thì nhất định không thể nào nhanh bằng xe đạp được, vì cậu có biết bơi thuyền đâu!
Pô-le trợn mắt lên không nói được nữa. Nó quay mặt đi; vì còn biết nói thế nào được. Chính nó từ trước tới nay không biết chèo thuyền.
Chỗ giáp với hồ Cây gạo với con sông con có một doi đất nhô hẳn ra. Sau doi đất này về phía bờ sông có một vũng nhỏ, trong vũng có hai chiéc thuyền buồm đậu bến. Cả hai thuyền đều vững và to, có khoang lớn lại có cột buồm rất cao. Trên một chiếc có một người đàn ông và một người đàn bà đang ăn cơm. Chỗ này rất tĩnh mịch, chúng tôi nghe rõ cả tiếng thìa canh chạm vào bát đĩa.
- Chúc hai bác ăn ngon nhé. – Pô-le vẫy tay về phía hai người nói thật to. Họ cũng cười nheo mắt và giơ tay vẫy lại.
- Giá được một cái thuyền buồm như thế mà bơi thì thích nhỉ. – Pi-tơ nói.
- Chị Hai-ga ạ, – tôi nói to. – giá ở trại chúng mình cũng có một chiếc thuyền như thế này thì thích quá, chị nhỉ.
Pi-tơ tiếp:
- Tớ chỉ muốn được ngồi thuyền buồm một chuyến xem nó thú vị hơn ngồi thuyền con ra sao thôi.
Nói xong nó cho tay xuống nước vốc một vốc rồi tung cao lên trên khôn, lập tức có tới hàng nghìn giọt nước rơi toả xuống như những giọt thuỷ tinh trông rất đẹp mắt.
- Chị Hai-ga ạ! – Lô-ti ở thuyền bên kia lại lên tiếng. Nó hỏi: – Tại sao nước hồ ở xa trông xanh biếc, mà ở đây trông xuống thì nó lại xanh lục hả chị?
- Đó là tại sắc trời ánh xuống mặt nước chứ sao! – Li-pu-li-pu nói.
- Thế sao nước ở ngay cạnh thuyền trông cũng xanh lục?
- Vì vốn dĩ nó có màu xanh lục.
- Sao, nước màu xanh lục à?
- Ừ. – Li-pu-li-pu đáp.
- Thế mà cũng đòi! Nước không có màu gì cả, nó trong suốt.
Tôi liền nhìn chị Hai-ga một cái. Chị cười tủm tỉm thú vị nghe hai đứa nói. Hễ khi nào chị cười là đôi mắt chị cũng híp lại thành hai vệt ngay. Tôi thích nhìn cái lối cười chân thật đó của chị.
- Đến màu sắc mà cậu cũng không biết phân biệt nữa à! – Li-pu-li-pu nói.
Lô-ti nhìn sang chị Hai-ga nói:
- Kìa chị bảo đi, xem nó như thế nào.
- Li-pu-li-pu nói sai rồi. Nước hồ không phải màu xanh lục đâu, nhưng vì ở trong nước đó có rất nhiều động vật và thực vật nhỏ, cho nên ta trông cứ thấy như nó có màu xanh lục. Cái hồ này của chúng ta vốn có nhiều dương liễu đấy, nghĩa là ở đáy hồ có rất nhiều bùn, mà trong bùn thì thường có cơ man nào các loài động vật, thực vật. Cho nên trông nước hồ cứ như có sắc xanh lục là vì thế.
- Ồ ra là thế đấy? – Lô-ti nói. – Em thật không hề nghĩ đến bao giờ cả.
- Có lẽ khi ở lớp giảng tới bài này thì cậu lại vừa mới xin nghỉ xong. – Li-pu-li-pu cười nói.
- Thì cậu cũng vừa mới trốn học đấy thôi. – Lô-ti đáp.
- Không, ở lớp tớ chưa giảng tới môn này.
Li-pu-li-pu nói rồi đưa cái bơi chèo cho Pô-le:
- Pô-le à, cậu cứ bơi một lát xem.
Pô-le đón lấy mái chèo, lóng ngóng mãi mới biết cách cầm như thế nào. Nhưng rồi nó cũng chỉ bơi quấy quá một hồi thôi, không làm sao mà làm cho thuyền tiến lên được.
- Trước hết, hãy để chếch cái mái chèo lên phía trước mà đẩy đã, rồi mới ngả nó xuống độ bốn nhăm độ mà bơi ở dưới nước. Khi bơi thì nhè nhẹ tay thôi, đừng đẩy mạnh quá. Cứ như thế là nó tự khắc nổi lên mặt nước.
- Hì hì. – chúng tôi đều phì cười.
- Cậu nói có vẻ thạo lắm nhỉ. Cậu học ở đâu thế, Li-pu-li-pu?
- Tớ học anh phụ trách chúng tớ đấy, trước chúng tớ vẫn bơi với anh ấy mãi.
Bây giờ, Pô-le đang mắm môi mắm lợi cố học lấy được. Những là đặt bơi chèo xuống nước ra sao, vẫy nó về phía sau như thế nào. Nó cứ ngoay ngoáy cái đầu trọc mà nhô lên cúi xuống mãi, trông rất buồn cười.
Chúng tôi bơi qua bến của các vận động viên bơi lội. Trước đây bốn ngày, chúng tôi đã vào đây chơi trong một dịp đi bộ mà tôi đã nói ở trên; bây giờ, chúng tôi lại trông thấy lần nữa.
- Không biết có phải hai người hôm nọ nhóm bếp mãi không cháy kia không? – Li-pu-li-pu thình lình hỏi to thế, và cong hai ngón tay đưa vào miệng, huýt một tiếng còi gọi.
Hai người kia cũng huýt lại nó một tiếng.
Gần chỗ họ dứng, cũng có một đống lửa đang bốc khói; một chiếc giường treo mắc trên hai thân cây như cái võng đan ở trên có một người đang nằm xem sách, miệng ngậm điếu xì gà.
Pô-le đắc ý khoe:
- Loại giường này, tao đã được nằm một lần rồi!
- Ờ, thế thì có gì là lạ. – Lô-ti nói.
Li-pu-li-pu nghĩ một lúc nói:
- Để hai năm nữa, thì ra, tớ sẽ học nghề thuỷ thủ, chuyên chạy trên tàu biển. Bấy giờ, tớ tha hồ ngủ giường treo; mà là giường treo chính cống cơ, chứ không phải thứ giường làm bằng võng này.
- Hừ, ở tàu làm gì có giường treo. – Lô-ti nói. – Tớ có một ông chú, công tác trên tàu đánh cá, chỉ ngủ giường đóng vào vách gỗ thôi.
- Đấy là chỗ nằm ở trong khoang đáy. – Chị Hai-ga nói.
Li-pu-li-pu không biết nói gì, cứ nhìn chị Hai-ga rồi lại nhìn Lô-ti.
- Thật không?
- Em ấy nói thật đấy. – chị Hai-ga đáp. – Tàu buôn kiểu mới bây giờ không có giường treo nữa, trên tàu chia thành từng ngăn, mỗi ngăn hai người ở chung.
- Ồ! – Li-pu-li-pu kêu lên một tiếng, rồi tỏ vẻ suy nghĩ như tiêng tiếc cái gì.
- Chị Hai-ga à, chúng ta có nên đi luôn một mạch ra tận Mi-rô-si không chị? – Pô-le hỏi.
Chị Hai-ga cười đáp:
- Thế thì xa quá! – rồi chị xem đồng hồ, nói tiếp: – Bây giờ, chúng ta phải quay về thôi, không thì lại đi quá giờ đã quy định.
Lẽ ra chị không nên nói cái câu cụt hứng này mới phải.
Chúng tôi đều nhăn nhó, không đứa nào muốn về, vì đang chơi vui và vào giữa lúc thích nhất! Nhưng Pi-tơ và tôi không thể cưỡng được. Chị ngồi ở thuyền chúng tôi, nên chúng tôi đành phải cho thuyền quay lại. Còn Li-pu-li-pu, Lô-ti và Pô-le thì cứ làm như không nghe thấy gì, chúng vẫn tiếp tục bơi. Mãi tới lúc chị Hai-ga phải quát lên, chúng mới dừng chèo và quay lại.
- Đi thêm một quãng nữa không được ư chị? – Li-pu-li-pu hỏi ề à.
- Không, chúng ta phải về thôi. – chị Hai-ga vừa lắc đầu vừa đáp.
- Không, chị cho chúng em đi nữa cơ.
- Đừng có kèo nhèo thế. Mau lên! Người ta còn đợi hai chiếc thuyền này đấy.
- Ồ, ra là thế ạ. – Li-pu-li-pu nói xong, bẻ mũi thuyền quay lại. Chúng tôi cùng chèo về.
Hồ Cây gạo bây giờ lại hiện ra một vẻ khác. Chúng tôi bơi về phía mặt trời, ánh nắng chiếu rọi xuống mặt hồ nhấp nhánh, những làn sóng lại càng thêm sáng chói. Mỗi khi Pi-tơ cất mái chèo lên, những giọt nước lại rơi xuống lả tả như những giọt thuỷ tinh lóng lánh mọc trong nắng vàng.
Đường về sao mà ngắn quá! Khu trại mỗi lúc một gần thêm. Chúng tôi lại nghe thấy những tiếng ồn ào, lại trông thấy chỗ bến tắm và mấy người cảnh vệ ngồi trên chiếc thuyền cũ kĩ.
Lát sau, chúng tôi đã về tới bến. Các đội viên ở một chi đội khác đã đứng sẵn ở đó chờ chúng tôi. Chúng tôi vừa lên bờ một cái chúng nó đã theo anh phụ trách và xuống thuyền ngay.
Nhìn chiếc thuyền rời bến, Pô-le vẫn còn thèm thuồng nói:
- Ngồi thuyền thật thú ghê!
Cuộc đi chơi thuyền của chúng tôi thế là kết thúc. Thời gian tuy rất ngắn, trước sau không tới một tiếng đồng hồ, song cũng đã thú lắm rồi. Tôi thấy là không thể im không nói lại được những cái thú trong cuộc đi thuyền này với mọi người được.
Buổi chiều, tất cả chi đội chúng tôi lại tập diễn lại vở kịch một lần nữa. Mặc dù chị Hai-ga đặt mức yêu cầu với chúng tôi có phần gay gắt, nhưng chúng tôi cũng đồng ý cố gắng tập thật cẩn thận. Và cũng xin nói thêm là chúng tôi còn học được một bài hát nữa, học thật sự. Đó không phải là bài gì mới lạ, mà là bài “Tương lai tươi sáng”. Trong chúng tôi đã có nửa số đội viên học thuộc từ lâu rồi. Bài hát này, chúng tôi định để tới lúc diễn xong vở kịch sẽ cùng hát một lượt. Hôm nay, mọi người học hát đều khá cả. Tuy có một số chưa thuộc, song chỉ cần sáng mai ôn lại một vài lượt, là đến chiều nhất định hát phải trơn tru. Về kịch, cũng chắc chắn không có vấn đề gì.
Tôi thấy mệt quá, ngáp luôn mấy cái. Ngày giờ đã muộn; mặt trời soi trên ngọn thông như cũng có vẻ uể oải; nó đỏ ra, không còn chói sáng như trước nữa. Bầu trời trên mặt hồ cũng ảm đạm. Từng bè mây tản mát đều có đượm chút nắng hồng.
Tiếng nhạc truyền thanh lại vang lên. Trong lều số 14 và số 4, đều có tiếng cười nhảy múa. Các lều ấy đang luyện một điệu múa dân gian. Không riêng gì các bạn gái ở lều số 4 và các bạn trai ở lều số 5, tất cả các đội viên ở những lều khác cũng tham gia nhảy múa. Chúng vây cả lại thành một vòng rất rộng, lúc thì nhảy và hát, lúc lại đứng ngoài đánh nhịp hoan hô. Có thể là hầu hết đội viên ở trại đều có mặt tại đây. Chỉ riêng hai cậu Mai-ơ và Đích-dơ là vẫn lẩn ở trong lều thôi. Đích-dơ thì đang ăn một quả táo.
Chập tối chúng tôi lại ra hồ tắm một lượt, khắp trại đều đi hết. Chúng tôi thả sức vui đùa, làm nhộn lên một trận, tưởng như đến phải lật úp cả cái hồ Cây gạo này thì mới đã.
Ngày mai lại sẽ viết tiếp cuốn nhật ký này.
Ngày mai sẽ là ngày cuối cùng ở trại hè. Thật là lưu luyến biết bao. |
|
|