"Nhà báo là kẻ lang thang" không rõ là ai độc mồm định nghĩa như thế từ bao giờ. Và không biết có ai đó trong làng báo chí chúng ta khi nghe người khác nêu định nghĩa này sẽ nổi máu tự ái? Nếu có tôi tin chắc là không nhiều. Vì nói gì thì nói, nhìn ở một góc độ nào đó thì định nghĩa "nhà báo là kẻ lang thang" có thể là chính xác hoặc đúng ít nhất là 50 phần trăm.
(Khắc Dũng)
Nói đến nhà báo ( ký giả) người ta có thể nghĩ ngay đến những người viết bài đăng báo và sống về nghề viết báo. Định nghĩa này, không biết có rộng rải để đủ bao gồm ý nghĩa cho những người là cộng tác viên ( không thường xuyên) cho một tờ báo (nào đó), nhưng mỗi khi có bài viết lên khuôn thì có tiền nhuận bút.?
Theo một ký giả lão thành trong làng báo Sàigon cũ hiện đang sống ở Hoa Kỳ, thì: "Nhà báo hay ký giả phải là những người chuyên nghiệp, và kiếm sống bằng nghề viết lách, họ có thể viết cho nhiều tờ báo chứ không riêng một tờ.Họ phải là đoàn viên trong một tổ chức Báo chí được luật pháp công nhận……., và ký giả là một nghề mang một thiên chức cao quý trên phương diện hướng dẫn dư luận và truyền đạt những nhu cầu về thông tin đến với độc giả. Ký giả có nhiều loại: Ký giả chiến trường ( ký giả theo các cuộc hành quân để viết bài và săn tin gởi về tòa báo), Ký giả kịch trường ( ký giả chuyên trách các phụ trương kịch trường với mục đích nâng cao và mở rộng nghề ca kịch ), ký giả tự do ( ký giả viết báo ăn tiền bài), ký giả tăng cường ( ký giả có nghề làm ăn khác, chỉ ở nhà viết bài khảo cứu cho các trương trong một tờ báo ( có ăn tiền), ký giả làm tin và ký giả dịch tin…"
Nhưng đối với nhà báo Khắc Dũng thì định nghĩa "nhà báo là kẻ lang thang" đúng với ông 50 phần trăm. "Nhà báo là kẻ lang thang" không rõ là ai độc mồm định nghĩa như thế từ bao giờ. Và không biết có ai đó trong làng báo chí chúng ta khi nghe người khác nêu định nghĩa này sẽ nổi máu tự ái? Nếu có tôi tin chắc là không nhiều. Vì nói gì thì nói, nhìn ở một góc độ nào đó thì định nghĩa "nhà báo kẻ lang thang" có thể là chính xác hoặc đúng ít nhất là 50 phần trăm."
Là một nhà giáo, một cựu sinh viên Luật , một quân nhân, H không nghĩ mình còn có trở thành một nhà báo,với một công việc mất quá nhiều thời giờ và luôn có mặt trên từng cây số để thu thập tin tức, phóng sự đem nguồn thông tin đến mọi người.
Sau khi định cư tại Mỹ, và một thời gian dài học ngành báo chí (College of Newspaper) ở trường đại học San Francisco. H bắt đầu vào nghề, và cũng từ đó H "lang thang" ( xin hiểu từ lang thang theo nghĩa tích cực) đi đến mọi nơi để săn tin ,viết bài gởi về tòa báo.
Cứ mỗi cuối tuần thì H tất bật với công việc, không còn có thời gian dành cho gia đình. Nào là: biểu tình đòi nhân quyền cho Việt Nam, ra mắt văn thơ, nhạc,hội luận chính trị, tiệc gây quỹ ….đã chiếm mất hết số thời gian của H.
Có một đồng nghiệp cho rằng: Nhà báo mà không "lang thang" không thể có nguồn liệu để có những bài viết xác thực làm được báo! H cũng nhận ra điều này khá hữu lý.
Một hôm H phỏng vấn một cây viết phóng sự khá nổi tiếng của một Tuần Báo ở San Jose, Ký giả V nói: "Mình chỉ đi và viết ,đi và viết mãi , đi nhiều viết nhiều.. viết cho đã đời thôi. Viết là một thú vui của người cầm bút".
H có vẻ khâm phục cái tay ký giả có số tuổi đời không còn ở dạng trung niên này, mà vẫn còn có máu lang thang. Đôi chân của ký giả V đã có mặt trên vạn nẻo đường vùng Bắc Cali, đôi khi còn vượt biên ra khỏi tiểu bang Cali để có những bài phóng sự nóng bỏng thích ứng thời cuộc và đời sống hàng ngày của tập thể người Việt trên đất Hoa Kỳ.
Từ những bài phóng sự phản ảnh mặt trái cuộc sống của con người sống trên đất nước Mỹ đến việc sinh hoạt tranh đấu cho cộng đồng người thiểu số, với ký giả V còn có những bài viết dí dỏm đem lại nụ cười phong phú cho cuộc đời, tạo cho vườn phóng sự thêm nhiều màu sắc làm mọi người có thể hình dung được sự lao động miệt mài và đầy trách nhiệm của V.
Nhưng Ký giả V cũng thường than, tiền nhuận bút cho một bài viết phóng sự không đủ chi phí công tác đi thu thập tư liệu viết bài. ( Đơn cử để thực hiện bài phóng sự "Đồng tình luyến ái"cho Báo Đời Mới ký giả Duy Văn phải bỏ nhiều thời giờ để thu thập tư liệu sống, tác giả phải lên xuống nhiều lần SF và vào những quán rượu Gay điều nghiên thực tế để thực hiện bài phóng sự của mình, tiền chi phí cho công việc như thế lên đến cả trăm mà có ông chủ báo hay tòa soạn nào nghĩ tới. Dĩ nhiên là ký giả Duy Văn phải bỏ tiền túi cho những chi phí công tác bởi chính mình.)
Than thì vẫn than, nhưng phần lớn ký giả viết phóng sự hoặc làm tin cộng đồng vẫn cứ đi, vẫn cứ viết , tốn xăng, tổn sức ….rồi lại tự nhủ "Đã mang cái nghiệp viết vào thân, Cũng đừng trách cứ tiền người tiền ta" ( nhái theo thơ Nguyễn Du)
Ký giả D tâm sự với H: "Tôi viết từ trước đến nay có chủ báo hay tòa báo nào trả tiền đâu! Phụ trách tin sinh hoạt cộng đồng cho một tờ nhật báo ở San Jose, trong hai năm liền, chủ báo hứa sẽ trả tiền nhuận bút cho mỗi bài tường thuật, nhưng tôi chưa có may mắn nhận tiền nhuận bút về bài viết của tôi bao giờ, mãi cho đến khi tôi rời khỏi tòa báo thì đã hơn 3 năm làm việc "chùa" theo kiểu "lường thưng tráo đấu "của chủ báo.
Tôi không thể nào quên có một lần tôi đi thu thập tin tức buổi ra mắt cộng đồng San Jose, xe tôi bị cảnh sát "thô" ( towing) mất. Sau khi đóng phạt 120 đô nhận xe và báo cáo với chủ báo. Họ vẫn "phớt tỉnh ăng lê" coi như không có chuyện gì xảy ra mặc dù họ bảo tôi đi làm công tác này.
Một lần khác, chủ báo yêu cầu tôi đến tận SF thu hình ảnh của một cuộc biểu tình do đồng bào tự phát chống việc phái đoàn thương mại CSViệt Nam về làm phóng sự cho số báo đầu tuần. Trên đường công tác chẳng may xe tôi bị hỏng máy. Tiền "thô" xe và các cái mất toi 2 bốp ( 200 đôla). Công việc xong tôi báo cáo lại với chủ báo kèm với những hóa đơn chứng minh, bà chủ báo hứa sẽ trả lại số tiền cho tôi. Nhưng than ôi! "Thăm thẳm chiều trôi, sự việc đã qua rồi bà cần gì để ý tới. Lời hứa hôm nao giờ tan theo mây khói." Tôi có nhắc một vài lần, nhưng sau đó vì tự trọng tôi không nói đến nữa. Thế là để lâu "cứt trâu hóa bùn". Cho tới một ngày, tôi không còn cộng tác với tòa báo, thì mọi việc cũng đã an bài.
Thú thật tôi rất yêu nghề làm báo và rất thích viết lách, tôi sẵn sàng nhiệt tình với đồng nghiệp trong những tình huống cần thiết cho nghề nghiệp, nhưng không được vui lắm với những tay chủ báo không có tình người. "
Ký giả L được xem là loại lang thang có cở, không một nơi nào có "chuyện" mà ông ta không có mặt. Có hơn 13 năm trong nghề chạy "sô" (show) tin tức , tường thuật cho hầu hết các báo ở vùng vịnh, trong một buổi phỏng vấn của H với ông về "tính cách trung thực của một bài viết", ông nói: s Theo ông muốn có những dữ kiện xác thực, người ký giả cần phải "lang thang" nhiều hơn , phải đến tận nơi xẩy ra sự việc để nắm bắt tường tận, mắt phải được mục kích, tai phải được nghe và ghi lại. Nghe và thấy là hai yếu tố căn bản và cần thiết nhất cho một nhà báo và những người viết tường thuật.
Ở hải ngoại, ký giả không có những khó khăn về phương tiện di chuyển cũng như những máy móc kỹ thuật thu thập nguồn tin như các ký giả trong nước, chỉ có một điều bức xúc là tiền thù lao cho chi phí công tác và tiền nhuận bút cho một bài viết thì ít khi được chủ báo quan tâm đến! Ngược lại với những người ký giả trong nước, phương tiện đi lấy tin của họ phần lớn là dùng xe gắn máy, đôi khi những vùng xa họ đi xe đò nên họ mất nhiều thì giờ và công sức. Và có phải chính vì thế công tác phí hoặc tiền nhuận bút của họ được đảm bảo cho cuộc sống cầm bút của họ?
Ký giả L cho biết: Ông đã được đọc một bài viết với tựa đề "tâm sự nghề nghiệp" của Khắc Dũng cho thấy những ký giả trong nước mỗi khi lấy tin tức cũng nhiều vất vả lắm, nhất là khi thu thập nguồn tin ở miền thượng du. Ngoài những đường xá hiểm trở, núi non, còn phải đối phó vấn đề lạc đường , ngủ đêm trong rừng.
"Tôi không thể nào quên một chuyến đi cùng với nhà báo nữ ĐTN cách đây hơn 3 năm. Chiều hôm ấy các cơ quan báo Lâm Đồng đang họp. Điện thoại phòng hành chính reo vang: "Ngày mai, khoảng 4 giờ sáng , lãnh đạo huyện Lâm Hà cùng các già làng tổ chức lễ đâm trâu ăn thề để dời làng từ Đầm Voi về suối Đạ Knàng để định canh định cư. Bà con mổ trâu ăn thề không lên rừng làm rẫy nữa. Chiều tối hôm nay tất cả lãnh đạo huyện phải vào Đầm Voi cách trung tâm huyện 70 km. Nếu nhà báo nhanh chân xuống huyện kịp thì cùng đi!" Nhận được cú điện thoại quá muộn nên tôi nhẩm tính: Đi xe máy từ Đà Lạt xuống huyện trung tâm Lâm Hà mất chừng hai tiếng rưỡi. Từ trung tâm huyện Lâm Hà vào đó mất ít nhất 3 tiếng đồng hồ. Với dân báo chí mất 3 hay 7 tiếng đi đường không ngán mà ngán nhất là lạc đường.
Đường vào Đầm Voi chỉ toàn là rừng , không hề có buôn làng, mặc dầu trời đã tối, nhưng tôi và chị ĐTN vẫn quyết định trên đường. Xuống đến trung tâm huyện Lâm Hà đã gần 8 giờ tối. Xe của huyện đã đi hết vào đó từ lúc chiều. Do vậy chúng tôi không còn cách nào khác là phải đi bằng xe máy. Nhưng cả hai đều không biết đường( Đầm Voi của Lâm Hà giáp với Đắk Lắk). Hỏi thăm người đi thạo đường như K’keo ( ở Đạ Đờn) ,K’Keo bảo: "Vào trung tâm thị xã Phi Liêng rồi rẽ trái. Nhưng trời tối như thế này thì nguy hiểm lắm. Lạc đường thì có mà khóc!" Nhà báo nữ ĐTN" gạ gẫm":
"Hay là anh đi cùng chúng em, vào đó ăn trâu chắc là vui lắm". Thế là tôi và ĐTN đành phải hai người một ngựa lên đường. Và chúng tôi đã lạc đường thật: Chỗ rẽ vào Đầm Voi ở khoảng trung tâm thị xã Phi Liêng thì được hướng dẫn kỹ, nhưng chúng tôi cứ đi, đi mãi chẳng thấy nó đâu.
Lại đi giữa đêm nên chẳng biết hỏi thăm ai trên đường. Đến gần Rô Men mới nhận ra chúng tôi đã đi quá chỗ rẽ ít nhất 40km. Đành phải quay lại. Mệt phờ nhưng chẳng biết làm sao được. Đến khi tìm được chỗ rẽ thì trời đã gần sáng. Nhưng đây là con đường kinh nhủng nhất: quạnh vắng, âm u, núi cao, vực sâu!" Không còn dịp tháo lui" tôi nói với nữ đồng nghiệp. Chị bảo: "Đã lỡ , "chơi luôn!" Chiếc xe tiếp tục nổ máy. Tội nghiệp cho nó! Nó phải mang trên mình gần một tạ thịt sống để vượt rừng. Lúc chúng tôi đến nới thì trời đã rõ mặt người. Mọi người nhìn hai chúng tôi phải ….lắc đầu thán phục.
Trâu vừa giết xong đang chuẩn bị xẻ thịt. Hai chúng tôi quăng xe máy lao vào ghi ghi chép chép. Chiếc máy ảnh trong tay tôi hoạt động hết công suất. Hôm sau về, những người có mặt trong chuyến đi kể với mấy người ở nhà có hai nhà báo vào Đầm Voi bằng xe máy và đi trong đêm chẳng mấy ai tin được!
Còn đồng nghiệp chúng tôi hay chuyện thì bảo: "Lang thang đến thế là cùng!" Vậy ai dám bảo chuyện lang thang của nhà báo là chuyện chẳng hay ho?"
"Hành nghề ký giả ở hải ngoại dù có đầy đủ phương tiện nhưng nhiều nhiêu khê lắm".Đó là lời phát biểu của một nhà báo lão thành trong một buổi gặp gỡ thân hữu tổ chức tại nhà ông ở Milpitas Tết năm Nhâm Ngọ.
"Cứ nhìn thực tế cuộc sống trong giới làm báo sẽ nhận ra sự nhiêu khê của những người ký giả ( ký giả chuyên nghiệp, đi làm mướn cho chủ báo).
Phần lớn báo Việt Ngữ phát hành nơi hải ngoại dựa vào số lượng quảng cáo để nuôi sống tờ báo, nhờ vào quảng cáo để trang trải những chi phí trong việc làm báo, nên người làm báo ở hải ngoại (chủ báo) bị lệ thuộc hẳn hoi vào khách hàng quảng cáo. Đó là một thế yếu của giới làm báo hải ngoại nên suy gẫm. Một tờ báo có quảng cáo nhiều thì từ ông chủ báo cho đến nhân viên đều có sự ổn định về đời sống. Ngược lại nếu một tờ báo có quảng cáo ít thì sinh mệnh tờ báo chưa chắc thọ, nói chi đến lương bổng của nhân viên.
Trong vùng Bắc Cali có mấy chục tờ báo, nhưng đa phần đời sống của người làm báo (chủ báo) vẫn bấp bênh, huống hồ chi nói đến những tay ký giả làm công cho chủ. Người ký giả( chuyên nghiệp) sống nhờ vào nhuận bút nhưng thành thật mà nói từ trước đến nay có bao nhiêu ông chủ báo đã làm tròn nghĩa cử cao cả này? Và nếu có chỉ là chiếu lệ. Người ký giả vì yêu nghề , thích viết lách hoặc vì sự lịch sự nên ít khi nhắc nhở với chủ báo những "khía cạnh tế nhị" này.
Cũng có những chủ báo thông cảm được những nỗi khó khăn của người ký giả, nên rất ân cần với người cộng tác của mình trên vai trò một chủ báo có trách nhiệm.( mặc dù tờ báo của họ trong giai đoạn chưa phát triển và còn có nguy cơ đình bản)
Chủ báo loại này là chủ báo có lý tưởng. Họ xem nhẹ việc làm báo là vì sinh kế để nuôi sống mình , nuôi sống gia đình. Gặp những chủ báo như thế này có lẽ người ký giả chuyên nghiệp chỉ còn có việc viết và viết phục vụ cho độc giả mà không còn bận tâm đến những nhu cầu khác của đời sống.
Ký giả P tự ví mình như là một "tay tổ" trong nghề làm báo, một hôm nói với bạn bè đồng nghiệp: "Tôi suýt bị đuổi nhà vì tháng rồi con vợ tôi nó bệnh không đi làm được nên trông vào lương làm báo của tôi để trang trải vào món nợ triền miên nhà mướn, nhưng cho tới cuối tháng vẫn biệt vô âm tính, không thấy chủ báo đá động gì đến tiền lương. Chủ nhà là người Mỹ họ không thể khoan nhượng nên đã thẳng thừng mời ra. Tôi buộc phải chạy vắt giò lên cổ mượn bè bạn vừa năn nĩ vừa nộp cho họ mới yên thân".
Theo lời P, thì ông ta đã vào làng báo hải ngoại kể đến nay cũng thuộc loại "lão làng" và kinh nghiệm trong đời ký giả cũng thuộc bậc "sư", nên không ông chủ báo nào mà không mời ông cộng tác. Ông đi khắp các tiểu bang của nước Mỹ và một phần Au Châu, nhưng hiện nay H vẫn thấy ông vẫn "đói". Đói cả việc làm lẫn phương tiện di chuyển, đôi khi đói cả vợ. Có một lần H thấy ông đang ì ạch đẩy chiếc Ford đời 88 của ông vào lề để tránh cản trở lưu thông trên đường Story giữa trưa nắng hè. Hỏi chuyện mới biết ông đang nhận lệnh của chủ báo đến nhà hàng Phú Lâm tham dự ngày kỷ niệm thành lập Lực Lượng Biệt Kích Nhảy Dù và làm phóng sự, nhưng xe của ông bị hư máy giữa đường.
Đưa tay quệt mồ hôi rịn ra trên trán ông nói với H: "Làm đời ký giả chán lắm anh ơi! Anh có thấy không, có "cái thằng" ký giả nào mà giàu đâu. Hơn hai mươi mấy năm lăn lộn trong nghề, tôi nay, vẫn là con số không. Không có một chiếc xe đàng hoàng để đi. Mỗi lần đi dự hội hè "rê" chiếc xe này đi tôi mắc cỡ lắm, nhưng không phải biết mần sao, vì không có xe nào khác. Thỉnh thoảng lấy tin xa thì đi chung với bạn bè hoặc mượn xe chủ báo, mà việc này cũng họa hoằn lắm chủ mới đưa xe cho đi. Nhiều lúc tinh thần tôi bị chao đảo, nhưng rồi cũng tự an ủi và cho rằng đây là "cái nghiệp chướng" mà kiếp này tôi phải trả."
Còn H đã kể lại sự vui buồn của mình sau nhiều năm làm nghề viết báo: "Tờ báo đầu tiên tôi cộng tác là một tuần báo. Tôi viết những đoản văn ngắn nói về cuộc sống của người Việt trên đất Mỹ và một số chuyện kỳ lạ của người Việt. Những bài viết của tôi độc giả có khen và cũng có phê bình. Có lần ông chủ nhiệm nhắn đến tòa soạn nhận ít tiền nhuận bút. Tôi gặp một người đàn bà trung niên trên xe buýt đang đọc bài báo của tôi. Khi đọc xong bà quay sang người đàn bà ngồi bên nói bằng giọng miền Trung Việt Nam: "Cái thèn che nèo nó viết cái bè này đọc được ghê à nghen. Chị biết không thèn chả viết về "Một Người Có Khả Năng Kỳ Lạ Tự Phát Sáng" đúng ghê nghen. (Cái thằng cha nào nó viết cái bài này đọc được ghê à nghen, Chị biết không thằng chả viết về "Một người có khả năng kỳ lạ tự phát sáng" đúng ghê nghen.)
Trong bài viết thằng chẻ nói là thằng chẻ nghe lại chuyện kể của báo chí trong nước, nhưng việc này tôi biết thằng chẻ bỏ sức lang thang thu thập nên mới đúc kết được một bài như vậy. Chuyện này xẩy ra ở quê tôi mà, năm rồi về quê tôi có nghe kể lóm thóm, không hiểu hết, nay mới được đọc trên báo. Câu chuyện được viết như sau:
"Thời gian gần đây , bà con ở thôn Bình An , thị trấn Tiên Kỳ , huyện Tiên Phước (Quảng Nam Đà Nẵng ) xầm xì với nhau về cô giáo Trần Thị Lộc có điện trong người nên tự phát sáng! Nhiều đồng nghiệp của cô Trần Thị Lộc ở trường trung học Lý Tự Trọng thị trấn Tiên Kỳ cũng đồn như vậy. Đây là một hiện tượng lạ hay
là những lời đồn đại nhảm nhí của những "thông tấn mồm" thích đơm đặt dựng chuyện giật gân? Để xác minh sự việc một nhóm phóng viên truyền thanh QNĐN đã đến gặp cô Trần Thị Lộc và cô cho biết: "Vào một buổi tối đầu năm 19…. Dọn dẹp bếp núc xong, tôi lau tay và thấy cánh tay mình phát ra ánh sáng xanh màu lân tinh. Ngỡ bị hoa mắt, "trông gà hóa cuốc", tôi lặp lại động tác cũ, ánh sáng màu xanh lân tinh vẫn xuất hiện với cường độ mạnh hơn. Hoảng quá, tôi gọi chồng cùng các con tới coi. Và mọi người đều trông thấy rõ hiện tượng này".
Do không biết được vì sao lại có hiện tượng lạ lùng này nên gia đình tôi giấu kín, không cho ai biết.
Nhưng rồi vào dịp tết năm 19… vừa qua, tôi cùng các đồng nghiệp đi thăm bạn bè và trong quá trình đi lại , cơ thể tôi lại phát sáng nên mọi người đều biết. Nhóm phóng viên đề nghị cho họ "mục sở thị". Cô vui vẻ nhận lời. Đứng vào chổ khuất ánh đèn, cô đưa tay chà mạnh lên thân thể mình , lập tức nơi đó phát ra thứ ánh sáng xanh màu lân tinh và kèm theo tiếng nổ lép bép nghe giống như tiếng nổ của hạt mè khi rang trên chảo nóng. Cô lập lại nhiều lần. Ánh sáng cùng với tiếng nổ đi kèm càng lúc càng có cường độ mạnh hơn.
Cô giáo Trần Thị Lộc cho nhóm phóng viên biết: Hiện tượng lạ trên cơ thể cô không xuất hiện khi mặc áo quần bằng vải sợi bông và áo len dày. Những ngày hành kinh hoặc khi cơ thể mệt mỏi cũng không xuất hiện.
Năm nay, cô giáo Trần Thị Lộc đã hơn 40 tuổi. Cô quê Hải Hưng. Cô có 3 con, hai gái, một trai, tất cả đều đã lớn.
Từ khi phát hiện ra hiện tượng lạ, cô vẫn khoẻ mạnh bình thường. Cùng lứa tuổi của cô nhiều người phải dùng kính cận, nhưng cô vẫn soạn bài, đọc sách đến một, hai giờ sáng cũng không thấy mệt mỏi hay nhoà mắt. Chỉ có điều, thỉnh thoảng cô cảm thấy hơi nhức đầu…" Cô giáo Trần Thị Lộc tâm sự với nhóm phóng viên:
Hiện tượng lạ bị mọi người biết được đồn đại theo kiểu "thêm mắm thêm muối" khiến nhiều người mê tín dị đoan, gán ghép đủ điều huyền bí, duy tâm nên cô rất buồn. Nhất là những nguời "ganh ăn ghét ở "lợi dụng điều đó để tung tin thất thiệt nhằm làm cho mọi người xa lánh cô. Chồng cô đã viết thư gửi "Báo Khoa Học Đời Sống "đề nghị giải thích hiện tượng này. "Báo Khoa Học Đời Sống" khẳng định đây là một hiện tượng khoa học, không dính dáng gì đến những yếu tố mê tín dị đoan. Tuy nhiên muốn giải thích rõ về hiện tượng này cần phải quan sát thực tế, cần phải có thời gian tìm hiểu, nghiên cứu nghiêm túc.
Để xua tan những lời đàm tiếu, dị nghị không hay và để giúp cô giáo Trần Thị Lộc không mặc cảm, lo lắng, chúng tôi viết bài báo này nhằm cung cấp tư liệu với mong muốn các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu hiện tượng này. Và đó là mong muốn thiết tha của gia đình cô giáo Lộc. ( trích KTNN 25)
Người đàn bà (nói giọng miền Trung) , kể hết câu chuyện "cô giáo Lộc tự phát sáng" cho bà khách ngồi bên nghe. Bà khách im lặng hồi lâu rồi nói: "Ôi có cái gì đâu mà mấy ông nhà báo phải đề nghị lên cơ quan khoa học này nọ xin giải thích. Cái hiện tượng phát sáng ở con người cũng đâu có gì phải ngạc nhiên vì con người cũng là một sinh vật, nhưng là một sinh vật thượng đẳng nên cũng có những yếu tố cơ bản của một loài sinh vật. Chị có biết con đom đóm không? Hồi còn ở bậc trung học môn "Vạn Vật" tôi được nghe giáo sư P.K.N giải thích về hiện tượng phát sáng trên thân của con đom đóm. Tôi nghĩ sự phát sáng trên thân thể của người cũng không khác những yếu tố mà con đom đóm đã có.
Trong bài giảng giáo sư P.K.N nói: “ Không phải đom đóm là một con vật phát được ra ánh sáng. Nhiều sinh vật khác cũng có khả năng này. Trên các cánh đồng ở Châu Mỹ cũng có những sinh vật , cùng họ với đom đóm phát ra những tia sáng lập lòe theo những nhịp nhất định thay đổi tùy loài. Ở Nam Mỹ lại có những loài sinh vật trên lưng phát ra những ánh sáng có màu sắc khác nhau ( giống Pyrophora hay Cucujos). Có khi ánh sáng của chúng phát ra đủ mạnh để chỉ cần một con Pyrophora cũng đủ đọc được một tờ báo. Anh sáng của chúng phát ra có thể là trắng, xanh lá cây, vàng hoặc đỏ tùy theo từng loài. Thổ dân ở đó thường bắt chúng về làm đèn, và những người phụ nữ thường dùng chúng để trang sức vào mái tóc cho đẹp. Ở Chili lại có loài thuộc giống Pyrophora có ánh sáng ở trước thân và hai hàng ánh sáng xanh ở hai bên sườn. Không những thế các ấu trùng của chúng cũng có ánh sáng. Có con có hai đốm lửa vàng trên đầu., một dãy ánh sáng xanh ở hai bên sườn, lại thêm một cái “ đèn đỏ” ở đuôi, trông chẳng khác gì một đoàn tàu hỏa. Chính vì thế mà người dân địa phương gọi chúng là “ con sâu của đường sắt”.
Nhưng không phải chỉ có sâu bọ mới có khả năng phát sáng, dưới nước cũng có nhiều loại khả năng phát sáng. Trên mặt biển thường có trùng roi ( (Noctiluca miliaris) có khả năng phát sáng, nhất là khi có nhiều oxy. Do đó khi chúng ta bơi thuyền, có những vệt sáng như lân tinh bám vào mái chèo, hoặc ném hòn đá xuống nước , chúng ta cũng thấy được nước sáng bùng lên rồi lại tắt. Dưới đáy biển tối , lại có những loài cá có một ngọn đèn ở phía trước để soi đường. Nhiều loại thân mềm, giáp xác khác cũng có khả năng phát sáng. Khả năng phát sáng này của những con vật có liên quan chặt chẽ với chất phốt pho trong nước biển. Những con vật đó tích lũy được nhiều phốt pho trong cơ thể và trong quá trình đặc biệt bị oxy hóa nên phát sáng. Anh sáng sinh vật là một thứ ánh sáng đặc biệt: nó không nóng như ánh sáng nhân tạo.Đứng về phương diện lý học, điều đó có nghĩa là năng lượng được biến đổi hầu hết quang năng chứ không phải biến phần lớn sang nhiệt năng như những nguồn sáng nhân tạo. Bạn hãy lấy một con đom đóm vứt xuống đất rồi dí chân lên. Bạn sẽ thấy một vệt sáng được bôi ra trên mặt đất. Vệt sáng đó còn sáng một thời gian sau mới mờ dần đi rồi mất hẳn. Điều đó nghĩa là ánh sáng phát ra là một hóa trình hóa học chứ không phải là một quá trình sinh học. Có những chất nào đó phản ứng với nhau sinh ra ánh sáng, vì chỉ có như vậy thì sau khi con vật đã chết rồi ánh sáng đó vẫn còn và cơ thể con vật chỉ có nhiệm vụ liên tục sinh ra các chất đó mà thôi.
Nghiên cứu một số con vật phát sáng, người ta đã tách ra được hai chất từ cơ thể chúng: Luxipherin và Luxiphera. Hai chất đó rời nhau là hai chất hóa học thường. Nhưng khi trộn lẫn với nhau trong tối thì người ta thấy chúng phát ra ánh sáng. Nghiên cứu kỹ, người ta thấy Luxiphera là chất men, chất men đó thúc đẩy quá trình oxy hóa chất Luxipherin. Quá trình oxy hóa đó đã phát ra quang năng.
Nghiên cứu kỹ hơn một số sinh vật phát sáng ở biển người ta thấy không phải tự chúng phát sáng mà chính nhờ những loại vi khuẩn phát sáng đặc biệt ký sinh trên cơ thể chúng. Có loài hoạt động khi vật chủ của chúng đã chết. Vì thế chúng ta thường thấy những xác tôm cua ngoài biển phát sáng ra khi trời tối. Và người ta đã có thể nuôi những vi khuẩn đó trong một bình cầu thủy tinh khiến cho bình cầu sáng lên như một ngọn đèn trong căn buồng.
Cũng từ lâu, các nhà khoa học muốn tìm hiểu ý nghĩa của những quá trình phát sáng ở loài vật. Đã có những ý kiến ngây thơ cho rằng chúng phát ra ánh sáng để soi đường (!). Nhưng những con vi khuẩn soi đường để làm gì khi chúng không cần trông. Nhiều con vật phát sáng khác cũng không có mắt. Những loài vật như vậy, ánh sáng chỉ có một đặc tính biến đổi nào đó vô hình trung được duy trì lại. Có những loài nhờ thứ ánh sáng đó mà con vật khác sợ hãi khiến chúng không dám ăn thịt nên dễ tồn tại. Có loài vật vì nhờ có ánh sáng mà con mồi tập trung đến nhiều hơn dễ kiếm thức ăn hơn.
Nhưng cũng có trường hợp ánh sáng sinh vật có ý nghĩa hơn. Đó là trường hợp các sinh vật phát sáng. Những con đom đóm mà chúng ta thường thấy thật ra phải gọi là đom đóm cái, còn những con đom đóm đực thì không phát sáng. Chính nhờ ánh sáng lập lòe đó mà đom đóm đực biết đường tìm đến đom đóm cái”.
Sau khi nói hết sự hiểu biết của mình qua học hỏi từ ông thầy dạy môn “ Vạn Vật “ ở bậc trung học cho bà bạn (nói giọng miền Trung) nghe, bà khách nói tiếp: “ từ những ý niệm trên bài giảng cho phép chúng ta thấy sự phát sáng ở loài sinh vật là do hai chất hóa học: Luxipheri và Luxiphera có trong cơ thể của sinh vật và khi hai chất này trộn lẫn với nhau trong tối thì người ta thấy chúng phát ra ánh sáng. Đặc biệt con vật cái có hiện tượng này nhiều hơn còn con vật đực hiện tượng phát sáng rất hiếm xảy ra.” Và những trùng hợp cơ bản này tôi có thể nói với chị ( quay sang hướng bà nói giọng miền Trung) cô giáo Trần Thị Lộc là một điển hình tiêu biểu một động vật có phát sáng.
Các ông nhà báo viết lên một bài báo rất công phu, tuy nhiên thường vẫn phải phản ánh sự kiện chứ không có tính cách giải quyết rốt ráo sự việc. Như cái bài viết về cô giáo Lộc tự phát sáng mà chị đã kể cho tôi nghe ấy. Ông ký giả nào đó đã quá lười không muốn tự dùng kiến thức của mình để giải thích câu chuyện mà đùn đẩy cho bộ phận khoa học.
H nghe qua câu chuyện của hai người đàn bà đối thoại nhau trên xe buýt khen chê về bài viết của mình mà nhớ đến chuyện “khen chê” của nhà văn Thanh Thương Hoàng trong tập truyện “Những Nỗi Đau Đời” do nhà Nhà Xuất bản Thằng Mõ ấn hành.
“ Xe hơi đụng Honda bỏ chạy. Người đi Honda nằm bất tỉnh trên đường. Thiên hạ xúm lại ngó và bàn tán sôi nổi về lỗi của xe hơi hay xe Honda. Không ai nghĩ tới việc đưa nạn nhân đi cấp cứu. Chợt có hai thanh niên dạt mọi người ra nói: “ Xin các ông các bà dẹp lối cho chúng tôi đưa ảnh đi cấp cứu”. Dứt lời một gã nâng nạn nhân, một gã dựng Honda của nạn nhân nổ máy. Rồi đặt nạn nhân lên xe , gã cầm lái, gã ngồi sau ôm nạn nhân. Xe phóng đi. Ai cũng khen hai thanh niên tốt bụng. Tới một quãng vắng, họ vứt nạn nhân xuống bên đường , phóng Honda mất hút. Một người xe đạp tới thấy nạn nhân vội gọi xích lô chở đi bệnh viện. Sợ nạn nhân té, người này cũng lên xe ngồi trên xích lô và để xe đạp phía trước. Tới bệnh viện , người đi xe đạp bồng nạn nhân vào phòng cấp cứu. Khi trở ra tìm mãi không thấy anh xich lô và chiếc xe đạp của mình đâu, kêu ầm lên. Thiên hạ xúm lại hiểu chuyện, chê: “ Rõ đồ ngu!” ( tr 248)
H nghĩ: “ Việc khen chê của độc giả về hành động người viết báo đó là việc hiển nhiên. Độc giả có thể lên án một bài báo viết quá khích gây tác hại cho tập thể, độc giả cũng có thể phê phán hành động của người ký giả trên một phương diện nào đó…như là sự nhiệt tình của một ký giả X ở San Jose cách đây khoảng một năm đã cứu lấy sự sụp đổ của một tờ báo để rồi sau đó được các bạn tặng cho danh hiệu là “kẻ ngu đần”.
Nhưng H nhủ thầm người làm báo cũng giống như người buôn bán phải làm vừa lòng tất cả khách hàng ( độc giả) và vì thế khó tránh bị khen chê mai mỉa, nên cần phải lắng nghe. Lắng nghe để sửa đổi cho hoàn hảo.”
Một nhà báo nữ khi được hỏi về, những kỷ niệm vui buồn trong đời làm báo của ký giả Kiến Nâu Tuần báo Đời Mới San Jose, bà A vui vẻ trả lời:
“ Tôi đã vào làng báo hải ngoại này cũng đã khá lâu, vui thì không thấy bao nhiêu , nhưng buồn thì hầu như đã tràn ngập trong tâm hồn. Ông ký giả cứ coi chuyện như thế này có vui được không?
Vào năm 1995, tôi làm cho báo B ở San Jose. Được biết tờ báo này là một tờ báo khá lớn phát hành cả Nam lẫn Bắc California và một số các tiểu bang khác. Chủ nhiệm - chủ bút là một cặp vợ chồng nhà văn, nhà thơ khá nổi tiếng trước năm 1975. Mọi người được biết bà C nhiều nhất trong những tác phẩm viết về những nỗi đau do chiến tranh gây ra cho dân lành ở miền Trung Việt Nam. Sau 1975, cả hai đã định cư tại Hoa Kỳ và tiếp tục làm báo. Tờ báo này cũng đã được giới nghệ sĩ minh tinh màn bạc ủng hộ.
Đó là về phương diện hình thức, và tổ chức, nhưng thực tế việc điều hành và nuôi dưỡng tờ báo là một vấn đề cần lưu tâm. Bộ phận báo B ở San Jose giao cho nhóm chúng tôi gồm vài người, và tôi đảm nhận vai trò Trị sự Tòa soạn. Với nhiệm vụ này, tôi rất tất bật với những công việc có tính cách ngoại giao, hành chánh và kể cả những sổ sách kế toán (mặc dù có nhân viên kế toán phụ giúp. ) Một thời gian hoạt động tờ báo có khởi sắc về phương diện thông tin, được độc giả gần xa quan tâm, nhưng về kinh tế sinh hoạt của báo dần dần bị sa sút. Những nhân viên lấy quảng cáo cho báo (saleman & salewoman) cũng đã không còn nhiệt tình như lúc ban đầu, nên tình trạng thu nhập của bộ phận báo B San Jose đã rơi vào bế tắc. Người phụ trách tổng quát không còn có thể quản lý nên đã phải cầu cứu đến bộ phận chính của báo ở miền Nam giải quyết vấn đề hầu cứu vãn tình trạng bế tắc.Bà chủ nhiệm bèn phải đích thân khăn gói lên đường kinh lý để tỏ tường cớ sự. Qua 8 tiếng đồng hồ giam hãm trên chiếc xe vốn đã không quá già theo năm tháng, nhưng cũng không được sang trọng như Lincoln hay Mercedes, bà chủ nhiệm C đã đến cái nôi văn hóa của người Việt ở miền Bắc.
Tại tòa soạn báo B ở đường AV, bà chủ nhiệm nghe nhà báo S phụ trách tổng quát báo cáo về tình hình bế tắc của tờ báo, bà thở dài và nói:
“ Xin mọi người hãy thanh thản, đừng quá bi quan. Tôi có “chiếc đũa thần” và “ vị nữ thần hộ mạng” chiếc đũa này sẽ gắp bỏ đi tất cả những khó khăn mà quí vị đang lo lắng và vị thần nữ sẽ là niềm tin cho mọi người để cùng nhau đưa tờ báo “ ngóc dậy.”
Nói xong, bà lấy trong xách tay ra một chi phiếu 20 ngàn đô trao cho nhà báo S dặn dò trả tiền công cho nhân viên đoạn bà giới thiệu bà A với mọi thành viên có mặt như là một “ nữ thần hộ mạng” sẽ làm cho tờ báo vững và phát triển. Bà C yêu cầu bà A rời khỏi nhiệm vụ của một trị sự viên và tăng cường cho bộ phận đi xin quảng cáo. Dĩ nhiên bà chủ nhiệm C có quyền yêu cầu và nhà báo nữ, bà A cũng có quyền có những lý do riêng để từ chối.
Bà A thẳng thắn từ chối lời yêu cầu của bà chủ nhiệm C. Thế thì cuộc họp trở nên căng thẳng vì bà C quá hy vọng vào bà A là một người đàn bà hoạt bác có thể giúp cho tờ báo tránh khỏi sự sụp đổ, nhưng lời yêu cầu của bà đã bị bà A từ chối thẳng thừng. Bà chủ nhiệm tuyệt vọng chỉ còn căm ghét.
Qua câu chuyện Kiến Nâu chợt nhớ đến câu danh ngôn của Luận Ngữ: “ Yêu người ta mà yêu vô lý, thành ra làm hại người ta. Ghét người ta mà ghét vô lý , thành ra làm hại cho thân mình”.
Nên chi theo Kiến nâu bà chủ nhiệm đừng nên có thái độ ghen ghét nhất là sự ghen ghét vì từ chối một công việc.
Cũng nhân cái ghét của bà chủ nhiệm C đối với nhân viên, Kiến Nâu nhớ đến chuyện cái ghét “ con không giống mình” của Khổng Tùng Tử.
“ Doãn Văn Tử sinh được một đứa con , không thấy giống mình, lấy làm giận lắm, thường đánh đập luôn. Một hôm đang cầm gậy đánh, thấy Tử Tư đến chơi bèn nói rằng: “ Nó không giống tôi, không phải là con tôi. Tôi lại ngờ mẹ nó có ngoại tình mà đẻ ra nó, nên tôi muốn bỏ…
Tử Tư hỏi: Cứ như ông nói, thì vợ Vua Nghiêu Thuấn cũng chẳng đáng ngờ ư? Hai ông là bậc Thánh đế mà sao đẻ ra Đan Chu và Thường Quân thực không bằng kẻ thất phu. Như thế là con cứ gì mà phải giống cha? Cái đạo thường, thì phần nhiều cha mẹ làm sao đẻ con ra như vậy. Nhưng cha hiền mà đẻ con ra ngu, thì cũng là thế thường tự nhiên như thế, chứ nào có phải tội tự người vợ đâu?
Doãn Văn Tử nghe hiểu, nói rằng: “ Thôi, xin ông đừng nói nữa”. Rồi về sau Doãn Văn Tử không bỏ vợ.
Có cha ấy, tất phải có con ấy, thường thì vẫn thế. Nhưng cũng không phải cái lý nhất định bao giờ cũng thế. Có khi cha mẹ rất hay mà đẻ con ra rất dở. Hổ phụ khuyển tử cũng nhiều , chớ ghét đứa con vì nó không giống mình, cầm gậy đánh nó, rồi lại rắp tăm đuổi mẹ nó đi, thì cũng chẳng là tự ái quá ra si ư? Cha mẹ sinh con , trời sinh tính , cố nhiên là thế. Nhưng đẻ con phải dạy, dạy con là việc rất cần. Nếu đẻ con chẳng dạy, để vậy mà nuôi, rồi cứ trách con dở, giận con hư đó là lỗi nặng của người làm cha mẹ vậy. Bà chủ nhiệm C ghét bà A vì không làm giống theo ý muốn của mình và đưa đến việc bà A không còn tiếp tục công việc, giống như Doãn Văn Tử cứ thấy con khác mình là lòng không ưng định hại con là một cái lỗi to mà làm người thường mắc phải.
Kiến Nâu cũng là một ký giả chuyên làm mướn nhiều đời cho nhiều chủ báo có lời đề nghị với bà chủ nhiệm C nên đứng trên tinh thần dân chủ mà đối xử bình đẳng lẫn nhau với người cộng tác của mình.
Ký giả K vào nghề viết báo trước năm 1975, không được bao lâu nghề viết báo của ông cũng tàn theo vận nước. Mang ước mộng làm sao để viết báo. Khi di tản ra hải ngoại nghe được nguồn tin là đại học MS dự tính xin tiền của chính phủ Liên Bang Mỹ để huấn luyện cho những người đã từng làm báo ở Việt Nam, để cho họ có cơ hội trở lại nghề cũ và sinh sống. Ông vất vả lắm mới được nộp được hồ sơ vào trường với hy vọng được nhà trường nhận vào huấn luyện. Nhưng ước mộng làm báo, viết báo không bao giờ có dịp đến với ông, vì chính phủ Liên Bang Hoa kỳ đã hủy bỏ dự án này.
Mang trong lòng nỗi thất vọng, nhưng chưa quá chán nản để bỏ mơ ước của mình, ông tìm gặp lại nhiều bè bạn trước để bộc bạch ý định làm báo, viết báo may ra có những ai còn có thể giúp đỡ ông thực hiện mộng ước. Trong chuyến đi đến California tìm một người bạn là một nhà thơ nổi tiếng, và trong chuyến đi thăm thân hữu này ông cũng đã thực hiện được mơ ước. Được viết tin cho tờ QH lòng ông mừng khấp khởi như mới vừa trúng số độc đắc. Nhưng nói viết tin là cộng tác cho “le” chơi chứ thật sự ông chỉ là người bị ông chủ báo sai vặt. Cứ hễ mỗi buổi sáng ông phải lái xe đưa ông chủ nhiệm đi qua nhà một người bạn của ông chủ nhiệm ở một thành phố khác đánh máy bài vở cho tới đến khuya mới được về ( vì thời điểm làm báo lúc này nhất là chữ Việt chưa có phổ biến trên computer và không có máy đánh chữ Việt) sau đó còn lại phải cắm cúi bỏ dấu và sửa chữa lỗi chính tả. Làm được vài số tờ QH đình bản vì không đủ trả tiền in và báo thì không bán được bởi thời điểm này tiệm sách báo hãy còn thưa thớt.
Ông rời tờ QH, bỏ làm báo, đi học và không nghĩ sẽ có ngày trở lại với nghề viết báo nữa. Ông biết rằng ông chủ nhiệm của ông rất đau buồn khi thấy tờ báo từ từ chết, chết trong cảnh nghèo nàn mà một con người nặng với chữ nghĩa không bao giờ muốn thế. Đầu thập niên 80, các dịch vụ quảng cáo hãy còn chưa có một ai khai thác, dùng tiền quảng cáo để nuôi tờ báo, phần lớn chỉ bỏ tiền túi ra trang trải khâu in ấn nên không thể tồn tại lâu dài. Mặc dù vậy, nhưng vẫn có khối người làm báo. Nhiều nhà thức giả cho rằng làm báo, viết báo là một “nghiệp dĩ “, nhưng với ông Lâm Lễ Trinh cựu Bộ Trưởng Nội Vụ Việt Nam Cộng Hòa thì đây là một “nghiệp chướng” mà người làm báo phải trả.
Ký giả K trở lại với báo chí sau một thời gian “mai danh ẩn tích” trong một vai trò ký giả dịch tin cho tờ VB. Theo ông trong xuất hiện vào làng báo lần này của ông thì kỹ thuật làm báo của người Việt hải ngoại đã có sự chuyển mình hơn. Đa số các tòa báo đã có máy Verytyper nên không còn phải bỏ dấu ( vì trước đó dùng máy đánh chữ của Mỹ đánh xong phải bỏ dấu tiếng Việt) , nhưng tin tức vẫn chịu ảnh hưởng bởi các nguồn tin nước ngoài nhất là tin Việt Nam nên cần có ký giả dịch tin như ông. Thế thì ông lại lao vào nghề làm báo như một định số và với tất cả nhiệt tình và một thời gian ngắn ông và người bạn của ông nhà báo T đã cho ra mắt đồng hương tờ Báo đầu tiên mà theo nhận xét của những người yêu chữ nghĩa thì đây là một bước tiến lớn trong lãnh vực truyền thông của người Việt hải ngoại.
“ Tôi đã thực sự vào vũng bùn báo bổ”. Đó là lời nói của ký giả K khi ông tiếp xúc với một số bạn đồng nghiệp. Với tờ Báo (ông và người bạn cùng quản lý) ông phải làm nhiều công việc cùng một lúc để trám chỗ cho tờ báo, từ việc viết tin sinh hoạt cộng đồng của người Việt hải ngoại đến những tin quốc nội, quốc tế và những bài có tính cách bình luận thời sự , những bài viết phiếm v.v.
Mỗi anh em trong tòa soạn báo ai nấy đều bù đầu bù cổ với công việc, để cốt cho tờ báo phát hành đúng thời gian. Ký giả K ngoài những bài viết cơ bản ông còn đi lấy quảng cáo. Anh bạn của ông nói “ lấy quảng cáo cũng là một nghề , nhưng với ký giả đó là một nghề bất đắc dĩ”. Nhưng riêng ký giả K thì nghĩ: “ nghề làm báo ở hải ngoại này vô hình trung đã là một nghề bất đắc dĩ rồi, chứ đừng nói chi đến việc đi lấy quảng cáo”. Người viết báo ở hải ngoại đã không được tôn trọng như tinh thần là một “chiến sĩ văn hóa” mà lại còn bị nhìn bởi một góc nhìn không được “ thoáng” của lớp người thương mại. Có một lần ông và người bạn ký giả A đến một cơ sở lấy quảng cáo ( mặc dù đã có hẹn ) khi đến nơi cả hai phải ngồi đợi mất khoảng 3 tiếng đồng hồ. Xong việc ông chủ cơ sở gọi cả hai vào văn phòng, và nói: “ Tôi nghe tiếng tăm tờ báo của hai vị, nhưng hãy để số điện thoại lại bà xã tôi sẽ liên lạc cùng quí vị vì công việc quảng cáo trên báo là do bà quản lý, riêng tôi không phụ trách công việc này". Rồi dứng dậy bước khỏi văn phòng với sắc mặt lạnh như tiền.
Lần sau ký giả K đi một mình đến gặp một phụ nữ trạc tuổi 30, ông chào bà theo thói quen lịch sự bà ngước nhìn ông mà không chào , chợt lạnh lùng hỏi:
- Ông đến dây có chuyện chi?
- Thưa cô tôi muốn gặp bà chủ để trao đổi về quảng cáo cho báo.
- Chủ là tôi đây, ông xin quảng cáo cho báo nào?
- Dạ báo D.
- Báo D hả! Chồng tôi nói hay lắm ! Nhưng thưa ông tôi không thể quảng cáo.
- Bà đã có hẹn với chúng tôi đến lấy mẫu để đăng báo.
- Vâng lúc trước tôi có ý định đó nên gọi ông, nhưng nay tôi…..,xin ông thông cảm.
Ký giả K ra về lòng buồn cho sự đời.
Còn ký giả lão thành T H đến Hoa Kỳ trong thời điểm hoàng kim của nền báo chí hải ngoại. ( Nói thời điểm hoàng kim là vì thời điểm này báo Việt Ngữ hải ngoại đã chuyển mình về kỹ thuật cũng như về số lượng phát hành. Có những tờ báo đã vị thế vững vàng trên đường kinh doanh mặc dù sự lệ thuộc quảng cáo cũng chưa dứt hẳn, số độc giả cũng một ngày một đông hơn ) Nhưng theo kinh nghiệm hơn 40 năm làm báo trong nước nhìn về mặt kinh tế ông cho rằng đời sống của người ký giả vẫn chưa được cải thiện.
Ký giả NVK nhận xét: “ Nếu so sánh thì giờ bỏ ra để viết bài và số tiền được trả, có lẽ nghề viết báo Việt Ngữ ở Hoa Kỳ là nghề “ rẻ” nhất. Cả trăm tờ báo được phát hành khắp nơi mỗi tuần, cả chục ngàn ấn bản gửi đến tay người đọc mỗi ngày nhưng theo tôi biết hầu như chưa có một người nào có thể nuôi được gia đình bằng tiền lương viết báo cả. Đại đa số những người chấp nhận viết báo đều phải làm một việc khác để nuôi thân, vì thế dù hơn 20 năm trôi qua nhưng nếu anh bạn trẻ Trần Thái Văn có dịp xem lại danh sách mới nhất liệt kê do Tòa Bạch Ốc phổ biến, có lẽ số người mang họ Đinh , Lê , Lý Trần…cũng vẫn đếm được trên đầu ngón tay, và những người gốc Việt Nam này đang săn tin và viết tin cho báo chí Hoa Kỳ , chứ không phải là báo Việt Ngữ. Nếu gần 30 trước tôi chứng kiến được nỗi buồn của anh Du Tử Lê vì không có tiền mua cái máy IBM để làm báo thì 30 năm sau, tôi thấy nỗi buồn của những bậc đàn anh trong nghề vì vẫn chưa dựng được một dàn ký giả cho ngon lành. Tôi biết các anh chưa thành công không phải vì các anh không có tài mà chính vì các anh không có đủ khả năng để trả cho họ đồng lương cần có để nuôi thân.
Không nuôi được gia đình, những người viết báo như chúng tôi còn lấy mất quá nhiều thời giờ đáng lý ra phải dành cho gia đình.
Điều đó có thể nói là Trời thương nên bên cạnh ông lỡ dại mê mẩn với nghề báo bao giờ cũng có một người phụ nữ hiền từ , vui với cái vui “ nghề nghiệp” của chồng, chấp nhận gánh vác hết mọi khó khăn mà ông chồng viết báo nhờ gánh vác. Ông Như Phong Lê Văn Tiến, người được kính trọng và ca ngợi là “ bậc thày trong nghề báo“ có lần nói với tôi là chỉ có những người phụ nữ Việt Nam “ dở hơi” mới lấy chồng làm báo, vì vừa phải gánh vác giang sơn nhà chồng lại phải gánh vác cả nghề nghiệp cho chồng.
Tôi biết “ Thày Như Phong “ nói đùa, nhưng điều” Thày” nói chứa đựng tất cả sự thật. Tôi không bao giờ quên những người vợ ngày này qua ngày khác, tuần này sang tuần khác , cắm cúi mổ cò, sửa chữa , trình bày các quảng cáo lẫn bài vở cho tờ báo mà chồng đứng làm chủ; các Chị…căm cúi làm việc ngày đêm kiếm tiền nuôi con để cho chồng mình có cơ hội sống với “ chữ nghĩa” và “ báo bổ”. Tôi cũng biết ngay những tờ báo có tầm vóc tại hải ngoại như tờ Người Việt, Việt Báo , Viễn Đông v.v. trước khi được ca ngợi là những tờ báo lớn , cũng từng có sự đóng góp không nhỏ của các chị Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Chị Nguyễn Đức Quang, Chị Trần Dạ Từ v.v… Mỗi lần nghĩ đến các Chị, tôi nhớ lại bài học thuộc lòng mở đầu bằng câu “họ là những anh hùng không tên tuổi”. Với tôi và với rất nhiều người, các chị đúng là những anhhùng không tên tuổi, góp phần thật lớn nuôi đứa con tinh thần mang tên “ Báo Chí Việt Nam Hải Ngoại”. Đứa con đó ngày hôm nay đã đi vững bằng hai chân phần lớn là nhờ công lao của các chị, chứ chưa hẳn đã là công lao của chúng tôi, dù ở ngoài xã hội chúng tôi đi đâu cũng được mọi người yêu mến gọi là ông nhà báo.” ( Chuyện Làng báo Việt tr 81)
Làm báo ở xứ người thật là khó khăn và nhất là trong giai đoạn nghiệt ngã của nền kinh tế Hoa Kỳ hiện nay. Có người vừa dí dõm vừa cường điệu nói với nhà văn Thanh Thương Hoàng “Nếu bắt buộc phải chọn giữa ở tù và làm báo thì tôi xin chọn ở tù. Anh mới sang đây mấy năm chưa có dịp bơi lội trong “ vũng nước báo bổ” nơi hải ngoại này, nên chưa biết cái nỗi “đoạn trường” khổ lắm và đôi khi nhục lắm”.
Ký giả Kiến Nâu nhớ không lầm trong ngày ra mắt Tuần Báo Đời có một quan khách phát biểu: “ Tôi đến đây không phải để cầu chúc cho tờ báo mà là để cầu nguyện cho tờ báo được trường tồn”
Theo Kiến Nâu thì đây là lời phát biểu xem qua có vẻ trào phúng nhưng thực tế. Trước viễn ảnh nền kinh tế Hoa Kỳ đang đi xuống thê thảm, đã cuốn theo nền chính trị Mỹ vào tình trạng lao đao, người làm báo Việt trên xứ người ít nhiều phải chịu ảnh hưởng. Do vậy sinh mệnh của mỗi tờ báo đều có số thọ nhất định, mặc dù có những tờ báo đã được quý độc giả mến mộ và khen ngợi rất nhiều về nội dung lẫn hình thức.
Để kết thúc chuyện vui buồn của đời viết báo hải ngoại người viết mượn câu nói của Prevet nói về nghề dạy học để kết thúc câu chuyện: “ trên tấm bảng đen khốn khó, người ta vẫn cố vẽ nên những vòng hạnh phúc”.
“Với những người đang sống với nghề viết báo Việt Ngữ, giữa những hàng mực lem nhem , chúng tôi cũng đã cố gắng vẽ nên những vòng hạnh phúc.”( trích lời nói ký giả NVK )
Kết Thúc (END) |
|
|