Về những hành động của Edward Bellingham chống lại William Monkhouse Lee, và về lý do của sự hoảng sợ lớn lao của Abercrombie Smith, thật là khó mà đưa ra một sự phán đoán dứt khoát, chắc chắn là chúng ta đã có được sự tường thuật rõ ràng và đầy đủ của chính ông Smith, điều mà Thomas Styles, tên đầy tớ cha bề trên Plumptree Peterson hội viên của nghiệp đoàn trường Đại học, và nhiều nhân chứng khác của vụ này, vụ nọ đã làm cho vững chắc thêm. Tuy nhiên câu chuyện chỉ dựa trên một mình Smith thôi, và hình như nhiều người lại muốn nghĩ rằng một bộ óc mặc dù bề ngoài thì có vẻ lành mạnh cũng sẽ thấy bực bội về một sự phiền nhiễu nhỏ nhặt, hơn là chịu chấp nhận rằng tiến trình bình thường của tạo hóa có thể bị đảo lộn tại một trung tâm của khoa học và ánh sáng như Đại học Oxford này. Nhưng khi ta ngẫm nghĩ về những khúc quanh co và về sự hẹp hòi của cái tiến trình bình thường ấy của tạo hóa, về nỗi khó khăn mà ta trải qua để truy tìm nó bất kể mọi sự soi sáng của khoa học, và về các khá năng lớn lao, khủng khiếp phát sinh một cách hỗn độn từ các khoảng tối tăm bao quanh nó, người ta phải rất dũng cảm, ngay cả rất liều lĩnh nữa, để đặt ra một giới hạn ở những con đường quanh co mà trí tuệ của nhân loại có thể đi qua.
Trong một chái nhà ở nơi mà chúng ta sẽ gọi là Vieux College tại Oxford, có một cái tháp rất cũ kỹ. Cái vòm nặng nề nằm trên cái cửa mở ngỏ đã oằn xuống ở quãng giữa dưới sức nặng của những tháng năm. Những tảng đá xám, bám đầy rêu được ghép lại với nhau bởi những cây trường xuân và những nhánh liễu giống như có một bà mẹ già đã thận trọng đưa chúng ra thử thách với gió, mưa. Phía sau cái cửa là một cầu thang bằng đá leo cuốn vòng tròn lên tới tầng thứ ba; những phiến đá lát của nó đã bị khoét trũng xuống và trở thành xấu xí dưới những bước chân của nhiều thế hệ những người đi tìm kiến thức. Cuộc sống đã lan tràn ra như nước chảy dọc theo cái cầu thang xoáy trôn ốc này, và cũng như nước, nó đã để lại những rãnh mòn nhẵn nhụi. Từ những cậu học sinh đóng bộ chỉnh tề với chiếc áo dài lệt bệt thời Plantagenet cho tới những chàng sinh viên mặc đồng phục trong những năm vừa qua, một làn sóng mạnh mẽ của tuổi trẻ nước Anh đã chảy qua nơi đây. Và bây giờ còn lại những gì của tất cả những hy vọng dó, những cố gắng đó những nghị lực kinh khủng đó, nếu không phải là một vài dòng chữ trên tấm mộ bia hoặc một nắm bụi trong một quan tài nằm lây lất nơi nghĩa địa? Nhưng cái cầu thang thầm lặng và bức tường già nua xám xịt còn được trang hoàng bằng các huy hiệu thì vẫn tồn tại mãi;
Vào tháng 5 năm 1884, có ba chàng thanh niên chiếm ngụ ba căn hộ nằm trên ba đầu cầu thang. Mỗi căn chỉ có một phòng khách nhỏ và một phòng ngủ. Ở tầng trệt, những phòng nằm dưới ba căn hộ đó được sử dụng theo cách một phòng như là hầm đựng than củi, một phòng khác làm chỗ ở cho đầy tớ. Thomas Styles đã làm việc cho ba chàng sinh viên cư ngụ ở bên trên đầu y. Ở bên phải và bên trái là một dãy phòng lớp học và văn phòng, quá tốt để cho những người ở thuê cái tháp cũ kỹ tận dụng được một sự cô quạnh, rất quý giá cho những chàng trai chăm chỉ học hành. Mà ba người cư ngụ hồi đó là những người rất chăm chỉ học hành: Abercrombie Smith ở tầng thứ ba, Edward Bellingham ở dưới, và William Monkhouse Lee ở tầng thứ nhất.
Đã mười giờ tối. Trời đêm sáng sủa Abercrombie Smith ngồi lọt thỏm trong ghế bành, hai chân để lên khung che lò sưởi miệng ngậm ống píp. Trong cái ghế bành thứ hai, cũng được kê một cách không kém phần thoải mái, người bạn lâu năm Jephro Hastie của anh ngồi uể oải ở phía bên kia lò sưởi. Cả hai người đều mặc quần áo nỉ, vì họ đã chơi cả buổi tối trên sông; tuy nhiên chỉ cần nhìn bộ mặt tỉnh táo với những nét cứng cỏi của họ cũng đoán được rằng họ yêu thích không khí bao la với tất cả những gì là khang kiện và cường tráng. Hastie là trưởng nhóm bơi lội ở trường cao đẳng của anh; Smith là người chèo thuyền còn giỏi hơn, nhưng viễn ảnh đen tối của một kỳ thi sắp tới đã tạm thời cầm chân anh ở nhà, ngoại trừ mỗi tuần vài giờ do sự đòi hỏi của sức khỏe. Một đống sách y khoa trên bàn, những mẩu xương rải rác, những cái khuôn đúc, những bản khắc mô hình cơ thể cho thấy tính chất các môn học của anh. Phía trên lò sưởi một cặp gậy và những găng đánh bốc chỉ rõ bằng cách nào, với sự trợ giúp của Hastie, anh đã giữ được thân hình khỏe mạnh. Họ đã hiểu biết nhau rất nhiều: nhiều đến nỗi họ có thể ngồi yên một cách thanh thản không nói năng gì với nhau, đây là một mức độ cao trong tình bạn bè.
- Một chút whisky nhé! - Sau cùng, Abercrombie Smith đưa đề nghị ra giữa hai làn khói thuốc lá - Rượu scoth thì ở trong bình, còn rượu Irland thì ở trong chai.
- Không, cảm ơn. Tôi đang tập chèo thuyền. Tôi không uống rượu khi tập luyện. Còn anh?
- Tôi làm việc cực nhọc. Tôi nghĩ không nên gây ra những sự hỗn tạp.
Hastie gật đầu đồng ý. Họ lại chìm vào một sự yên lặng thoải mái.
Sau đó một lát, Hastie hỏi:
- Smith này, hãy nói đi, anh có quen với hai anh chàng ở phía dưới cầu thang của anh không?
- Khi chúng tôi gặp nhau thì chỉ gật đầu chào. Khô ng nói gì hơn cả.
- Hừ! Ở địa vị anh tôi sẽ ngừng lại ở đó! Tôi có biết đôi chút về cả hai người đó. Không biết nhiều lắm, nhưng cũng đủ đối với sở thích của tôi; tôi không nghĩ rằng nếu tôi ở đây tôi sẽ thân thiết ngay với họ. Không phải vì cái tính xấu ở anh chàng Monkhouse Lee.
- Anh chàng gầy còm hả?
- Phải. Một anh chàng bé nhỏ có vẻ khá lịch sự. Tôi không nghĩ rằng chính bản thân anh ta xấu. Chỉ cố một điều là anh không thể lui tới nhà anh ấy mà đồng thời không lui tới nhà Bellingham.
- Anh chàng to lớn hả?
- Phả. Anh chàng to lớn đó. Và hắn ta là loại người mà tôi không thích giao du.
Abercrombie Smith nhướng cặp lông mày lên và ném một cái nhìn chăm chú vào người bạn.
- Tại sao vậy? - Anh hỏi - Hắn uống rượu à? Hắn chơi bài bạc à? Hắn có máu vô lại à? Thường khi anh không hay phán xét nghiêm khắc cơ mà!
- A, tôi thấy rõ là anh không biết hắn rồi. Nếu anh biết rõ hắn, thì anh đã không hỏi tôi tại sao. Ở hắn có đủ những gì gớm ghiếc; những gì đê tiện làm cho tôi ghê tởm. Tôi coi hắn như một kẻ có những tật xấu được che giấu, một kẻ trụy lạc. Tuy nhiên, hắn không ngu ngốc. Người ta nói rằng trong bộ môn của hắn thì hắn là một trong những phần tử tài giỏi nhất mà trường cao đẳng đã từng biết tới.
- Y khoa hay văn học cổ điển?
- Ngôn ngữ Đông phương. Hắn thật đáng sợ! Mới đây Chilling Worth đã gặp hắn tại một nơi nào đó bên trên thác nước số hai; anh ấy kể lại với tôi rằng hắn đã nói chuyện con cà con kê với những người Ả Rập như thể hắn đã được sinh ra ở vùng đó. Hắn nói tiếng Coptes với người Coptes, tiếng Héfreux với người Héfreux, tiếng Ả Rập với người Bédouins, họ sẵn sàng cúi hôn vạt áo dài của hắn. Có một vài nhà ẩn sĩ ngồi trên các mỏm đá, họ thường có thói cười ngạo đời, gắt gỏng và nhổ nước bọt xuống đất khi nhìn thấy một người lạ mặt. Vậy mà khi Bellingham chưa nói với họ hết năm tiếng, họ đã nằm sấp xuống và xun xoe trước mặt hắn! Chilling Worth xác nhận với tôi rằng, anh ấy chưa từng thấy một chuyện như vậy bao giờ. Bellingham có vẻ rất thoải mái; hắn có dáng điệu một người đang hành xử một quyền lực tự nhiên của mình; hắn ung dung đi lại ở giữa bọn họ và giảng huấn lý cho họ. Không có gì là tệ hại cho một sinh viên Oxford phải không?
- Tại sao anh lại nói rằng người ta không thể tới thăm Lee mà không tới thăm Bellingham được?
- Bởi vì Bellingham đã đính hôn với em gái của Lee. Smith này, phải nói rằng Eveline là một thiếu nữ rất xinh đẹp Tôi biết rất rõ tất cả gia đình này. Thật là đáng chán khi nhìn thấy cô ấy đi với anh chàng thô lỗ ấy? Một con cóc và một con bồ câu, họ giống hệt như vậy đó.
Abercrombie cười mỉm và gõ cái píp vào lò sưởi để đổ ra hết tro ở trong.
- Anh bạn già ơi, anh bày thêm chuyện rồi đó! - anh nói với người bạn. - Anh là một vị quan tòa mới thiên vị làm sao! Thực tình anh đâu có gì thù ghét thằng cha đó, ngoại trừ việc này.
- Anh muốn nói gì? Tôi biết cô ấy từ khi cô ấy chưa lớn bằng cái píp của anh, và tôi không muốn thấy cô ấy gặp những sự rủi ro, và cô ấy đang gặp rủi ro đó. Hắn có điệu bộ một con thú hoang dã. Và hắn có một tính tình man rợ, một tính cách độc địa. Anh có nhớ vụ cãi cọ của hắn với Long Norton không?
- Không. Anh luôn luôn quên rằng tôi là một người mới tới đây.
- Đúng vậy. Câu chuyện trở ngược lại mùa đông năm ngoái. Chắc chắn thế! Anh biết con đường để kéo thuyền ở gần sông không? Có nhiều cậu trai dạo chơi ở đó. Dẫn đầu là Bellingham. Họ gặp một bà già hiền lành bán hàng ở chợ. Trời thì mưa, và hẳn anh đã biết khi trời mưa thì những cánh đồng trông giống cái gì rồi. Con đường chạy ở giữa con sông và một cái ao lớn cũng rộng gần bằng con sông. Này, anh có biết cái thằng con lợn đó làm gì không? Hắn không cần bận tâm hắn cứ tiếp tục đi thẳng, và hắn đã đẩy bà già hiền lành xuống bùn làm bà ấy bị bẩn bê bết, cả hàng hóa của bà. Đó là cách cư xử của cầm thú! Tuy nhiên Long Norton là người hiền lành nhất trong đám đó, đã nói thẳng với hắn những điều anh ấy nghĩ. Lời qua tiếng lại một lát, và kết cục là Norton đã quật cho hắn một gậy rất đau vào giữa hai bả vai. Vụ này được loan truyền khắp nơi, và không có gì buồn cười hơn là nhìn cái đầu của Bellingham khi hắn gặp Norton. Trời ơi, anh Smith, sắp mười một giờ rồi...
- Không có gì phải vội vã! Hãy châm một píp nữa đi
- Không. Theo nguyên tắc thì tôi đang ở thời kỳ tập luyện. Vậy mà tôi còn ngồi đây nói lung tung thay vì đã nằm trên giường rồi Tôi muốn mượn cái sọ người của anh, nếu anh chưa dùng tới. Williams đã lấy cái của tôi từ một tháng nay. Và tôi cũng sẽ mang đi những mẩu xương con ở tai, nếu anh đoan chắc với tôi là anh không cần đến chúng. Cám ơn. Không, lại không có túi xách? Tôi sẽ dư sức cắt chúng trong cánh tay. Ngủ ngon nhé cậu trai của tôi? Và hãy theo lời khuyên của tôi về vấn đề gã hàng xóm của anh.
Khi Hastie đã có đủ chiến lợi phẩm về giải phẫu học, bước ra khỏi phòng, Abercrombie Smith ném cái píp vào giỏ giấy vụn; kéo ghế bành lại gần ngọn đèn, rồi chúi đầu vào một quyển sách đồ sộ bìa xanh, có in những họa đồ lớn tô màu trưng ra cái vương quốc, xa lạ và thân cận mà chúng ta là những nhà vua bất hạnh. Anh đúng là một người mới ở Oxford, anh không phải là người mới bước chân vào ngành y; trong bốn năm, anh đã làm việc ở Glasgow và ở Berlin, và kỳ thi sắp tới phải cho phép anh giật được mảnh bằng. Với đôi môi cương nghị, vầng trán cao, dáng điệu cẩn trọng, anh tự chứng tỏ là phải trở thành một người, dù không có các tài năng lỗi lạc, thì cũng có đầy đủ sự bền bỉ, sự kiên nhẫn và sức mạnh để có thể vượt trội người khác. Người nào đã biết chút ít về anh giữa những sinh viên Tô Cách Lan và sinh viên miền bắc Đức đều hiểu, tất cả bọn họ không phải là những kẻ coi thường được! Smith đã để lại ở Glasgow và ở Berlin một danh tiếng tuyệt hảo; anh biết rất rõ rằng anh cũng đáng được tiếng tăm như vậy ở Oxford vì sự tận lực làm việc và tôn trọng kỷ luật.
Anh đã đọc từ khoảng một giờ đồng hồ, khi bỗng nhiên anh nghe thấy một tiếng kỳ quái; một tiếng động chói tai, chát chúa; một tiếng gì giống như tiếng hít vào rít lên của một người đang thở khi bị xúc động mạnh. Smith để sách xuống và lắng tai nghe. Vì không có một ai ở bên cạnh hay ở phía trên anh, chắc chắn là tiếng động đã tới từ người láng giềng phía dưới của anh, chàng sinh viên mà Hastie đã phác họa một hình ảnh chẳng tốt đẹp chút nào. Smith chỉ biết anh ta dưới bộ mặt một chàng trai xanh xao, yếu đuối có thói quen sống yên lặng và chăm chỉ làm việc, và ngọn đèn của anh ta thường chiếu ra một vạch vàng trên cái tháp cổ xưa ngay cả sau khỉ anh đã tắt ngọn đèn của anh. Sự cảm thông trong những đêm thức khuya kéo dài này đã tạo ra giữa họ một thứ liên hệ bí mật. Khi những giờ đã trôi qua gần tới rạng đông, Smith thích cảm thấy rằng ngay ở gần bên, một sinh viên khác cũng coi khinh giấc ngủ như anh. Và đúng vào lúc đó, khi mà các ý nghĩ của anh đều hướng về người bạn láng giềng một cách ngoài ý muốn, anh chỉ cảm thấy những tình cảm tốt đẹp. Hastie là một chàng trai dũng cảm, nhưng thô lỗ, rất khỏe mạnh và không có óc tưởng tượng cũng như sự thông cảm. Anh ta không thể chịu đựng được một người không được đào tạo theo cái mẫu mực cường tráng mà anh ta đã dứt khoát chọn lựa. Nếu người nào không thể được đo lường theo các tiêu chuẩn này, thì nhất định là người đó sẽ chuốc lấy sự ác cảm của Hastie. Giống như nhiều chàng trai khỏe mạnh về thể chất, anh ta tỏ ra lầm lẫn cấu trúc của cơ thể với tính tình, anh ta không ngần ngại gì để gán tội vô nguyên tắc cho một việc khi việc đó chỉ là một lỗi nhỏ. Smith có tinh thần cởi mở hơn: anh biết cái bệnh của bạn anh và anh thể tất nó.
Vì tiếng động kỳ quái đó không tiếp diễn nữa, Smith đang sắp cầm lấy quyển sách, thì bỗng nhiên lại một tiếng rên rỉ khô khan một tiếng kêu thực sự chọc thủng sự yên tĩnh của màn đêm. Đó là tiếng gọi của một người bị khích động và đau đớn vượt khỏi sự kiềm chế. Smith chồm ra khỏi ghế bành bỏ quyển sách xuống. Mặc dù anh có bộ thần kinh vững vàng, tiếng kêu khủng khiếp đột ngột đó cũng làm máu anh lạnh toát như băng và làm anh nổi da gà. Được phát ra trong một nơi như thế này? Và sao một giờ như thế này? Nó đã gieo vào đầu óc anh hàng ngàn giả thuyết kỳ quái. Anh có nên chạy ngay xuống bên dưới không, hay là hãy đợi xem sao? Cũng như tất cả các đồng bào của anh, anh ghét việc làm cho mọi người chú ý hay tự đề cao mình, và anh biết rất ít về người hàng xóm nên anh không có ý định xen lấn vào công việc của hắn một cách khinh suất. Anh đắn đo trong một khoảnh khắc; nhưng những bước chân mau lẹ đã vang lên trong cầu thang, và chàng thanh niên Monkhouse Lee, nửa mình để trần, mặt mày tái mét, chạy xộc vào phòng anh.
“Xuống đi?” anh ta lắp bắp nói. “Bellingham bị bệnh!” Abercrombic Smith đi theo anh ta tới tận căn phòng khách nhỏ nằm ngay phía dưới phòng khách của anh, dù dã dồn hết tâm trí vào sự việc xảy ra, anh cũng không thể kiềm chế được việc ném một cái nhìn kinh ngạc quanh mình khi anh bước qua bậc cửa. Đó là một căn phòng hình như chưa bao giờ anh nhìn thấy trước đây: một viện bảo tàng hơn là một phòng làm việc. Các bác tường và trần nhà gần như được toàn bộ che phủ bằng hằng hà sa số những thành tích kỳ lạ xuất xứ từ Ai Cập và Đông phương. Những bóng ma cao lớn mang những gánh nặng hay những khí giới treo một cách ngạo nghễ trên một tấm vải thô chạy vòng quanh căn phòng. Phía. trên, được chạm vào trong đá là những cái đầu bò rừng, đầu hạc, đầu cú mèo, cùng với các pho tượng những vua chúa có những con mắt hạt hạch nhân, trên đầu quấn những con rắn độc và những vị thần kỳ quái trông giống như những con giáp trùng đẽo bằng ngọc bích Ai Cập. Horus, Isis và Osins đang ngồi ngắm nghía căn phòng khách có nhiều hốc trong tường và tất cả những cái kệ, ngang trần nhà, một đứa con chính thống của sông Nu cổ đại, con cá sấu lớn với cái miệng há rộng, được treo lủng lẳng bằng một nút dây kép.
Ở giữa căn phòng không tầm thường này, có một cái bàn vuông lớn rải rác những giấy tờ, chai lọ và những lá khô của một loại cây cọ rất đẹp, những vật linh tinh này đã bị đẩy ra thành từng đống lộn xộn để lấy chỗ đặt một cái thùng xác ướp được lấy ra từ trong bức tường (đúng như khoảng trống nó để lại trong tường đã chứng thực điều này), và nó được đặt nằm ngang qua cái bàn. Về phần cái xác ướp, thì nó là một vật khủng khiếp, đen xì và khô héo, chìa ra một cái đầu xám như than trên một cái cây nhỏ đầy mấu đốt, một nửa thân hình nó thòi ra bên ngoài cái thùng; một cái bàn tay trong giống như một cái kìm và một cánh tay xương xấu nằm trên bàn. Một cuộn giấy bằng lá chỉ thảo được dựng tựa vào cái quan tài; phía trước cuộn giấy, người chủ căn phòng dang ngồi trong một cái ghế bành gỗ, đầu anh ta ngả về phía sau; hai mắt mở lớn nhìn dán chặt vào con cá sấu; cặp môi xanh tái và run rẩy một cách nặng nề theo từng hơi thở.
- Trời ơi! Anh ấy chết mất! - Monkhouse sợ hãi kêu lên.
Monkhouse Lee là một chàng trai mảnh khảnh có cặp mắt đen và nước da xanh tái; anh ta có cốt cách Tây Ban Nha hơn là cốt cách Anh Cát Lợi; tính tình cởi mở của người Celtes ở anh trái nghịch lại với tính lạnh lùng của dân Saxon ở Abercrombie Smith.
- Tôi nghĩ rằng đây chỉ là sự ngất xỉu đi thôi - anh sinh viên y khoa trả lời - Hãy giúp tôi một tay. Nắm lấy hai chân anh ấy. Bây giờ chúng ta hãy đặt anh ấy nằm lên trên ghế dài. Anh có thể dẹp hết những dỗ quỷ quái lắt nhắt bằng gỗ ra khỏi cái ghế dài được không? Thật là bừa bãi! Kia kìa? Nêu ta cởi cúc áo ở cổ anh ấy ra và cho anh ấy uống một ít nước thì sẽ rất tốt đó Điều gì xảy ra cho anh ấy thế?
- Tôi không biết một tý gì cả. Tôi nghe tiếng anh ấy kêu to, tôi chạy ngay lên. Tôi quen biết anh ấy lắm, anh hiểu chứ? Anh thật quá tốt bụng khi đi xuống đây.
- Tim anh ấy đập như một cái lục lạc ấy - Smith nói sau khi để tay lên ngực Bellingham khi anh này vẫn còn bất tỉnh - Người ta sẽ nói rằng anh ấy bị quá hoảng sợ. Giội nước lên người anh ấy đi. Bộ mặt anh ấy trông mới kỳ cục làm sao!...
Thực sự vẻ mặt Bellingham trông vừa kỳ dị vừa đáng sợ, cả về thần sắc lần về dáng điệu. Nó trắng bệch, không phải sự tái xanh thông thường do sự sợ hãi gây ra, mà là sự trắng bệch, hoàn toàn không có màu sắc ở bụng một vài loại cá. Anh ta khá mập, nhưng cho ta ấn tượng là trước đây anh ta còn mập hơn nhiều, vì da anh ta lõng thõng thành những nếp và vết hằn ngang dọc. Mái tóc nâu để kiểu bàn chải dựng đứng lởm chởm trên đầu, trong đôi mắt màu xám vẫn mở trừng trừng, các đồng tử giãn căng ra, sự chăm chú của cái nhìn trông thật khủng khiếp. Smith cúi xuống trên người anh ta, tự nhủ thầm là anh chưa bao giờ nhìn thấy rõ ràng như thế này những tín hiệu của sự khủng khiếp trên diện mạo một con người; ngay tức thì anh nhớ lại với ít hoài nghi hơn lời cảnh báo của Hastie.
Anh hỏi:
- Vậy thì điều gì đã làm cho anh ấy kinh hoàng tới mức độ này?
- Cái xác ướp
- Xác ướp à? Tại sao như vậy?
- Tôi không biết. Nó hôi thối và gây bệnh hoạn, lẽ ra tôi đã muốn cho anh ấy quăng nó đi. Đây là lần thứ nhì anh ta làm cho tôi kinh sợ. Mùa đông năm ngoái cũng một lần như thế này. Tôi đã thấy anh ta đúng hệt như hôm nay, với cái vật đáng ghét này để trước mặt anh ta.
- Vậy anh ấy tìm kiếm cái gì ở cái xác ướp?
- Ồ, thật là một kẻ cuồng dại Một kẻ cuồng dại về xác ướp. Anh ấy hiểu biết về các xác ướp nhiều hơn là bất kỳ một người dân Anh nào hiện đang còn sống. Nhưng tôi thì tôi mong rằng anh ấy nên biết ít hơn về những thứ đó. A, anh ấy tỉnh lại rồi kìa!
Những màu sắc mờ nhạt bắt đầu nhuốm ứng đôi gò má tái mét của Bellingham; mí mắt anh ta nhấp nháy; anh ta nắm chặt bàn tay lại và lại duỗi bàn tay ra, hít một hơi dài không khí qua kẽ răng, rồi đột nhiên ngẩng đầu lên và đưa mắt nhìn quanh một cái nhìn dò xét Khi mắt anh nhìn tới cái xác ướp, anh đứng phắt dậy, cầm lấy cuộn chỉ thảo, quẳng nó vào một ngăn kéo và khóa nó lại, rồi lảo đảo quay trở lại cái ghế dài.
Anh ta hỏi:
- Chuyện gì đã xảy ra? Các bạn muốn gì ở tôi vậy?
- Anh đã kêu lớn và làm ồn ào quá - Monkhouse Lee đáp lại - Nếu ông bạn hàng xóm của chúng ta ở tầng trên không đi xuống, thì tôi tự hỏi là một mình tôi sẽ làm được việc gì đây.
- À, đây là Abercrombie Smith! - Bellingham nhìn anh và nói - Thật là anh đã tử tế quá khi tới đây! Tôi là một thằng ngốc thật! Trời ơi, sao mà tôi ngu ngốc thế!
Anh ta gục đầu vào hai bàn tay và bật lên mọt tiếng cười điên dại không còn ngưng được nữa.
- Coi chừng đó! Dừng lại! - Smith quát to và nắm lấy vai anh ta lắc mạnh - Các dây thần kinh của anh bị hoàn toàn rối loạn rồi. Anh phải vứt bỏ những trò chơi nhỏ nhặt về nửa đêm với những cái xác ướp đi nếu không anh sẽ mất trí đó. Lúc này anh là một cục pin điện đó.
Bellingham trả lời:
- Tôi không nghĩ rằng anh cũng sẽ bình tĩnh được như tôi nếu anh trông thấy...
- Cái gì vậy?
- À, không có gì cả! Tôi chỉ muốn nói rằng tôi không tin là anh có thể ngồi suốt một buổi tối với một cái xác ướp mà các dây thần kinh không bị nôn nao. Anh nói rất đúng, trong thời gian gần đây tôi đã làm việc quá nhiều. Nhưng tôi cảm thấy đã hoàn toàn bình phục. Xin hãy đợi vài phút, và tôi sẽ trở lại như thường.
- Căn phòng có mùi khó chịu quá - Lee đưa ra nhận xét và anh đi mở cửa sổ để cho không khí mát mẻ ban đêm lùa vào.
- Đó là chất nhựa thơm...
Bellingham giơ lên một chiếc lá khô và làm nó quăn lại trên miệng cái đèn. Nó biến thành những cuộn khói dày đặc; một mùi hăng khó chịu tràn ngập căn phòng.
- Đó là thứ cây linh không thứ cây của các vị thầy tu - anh ta giải thích - Anh Smith, anh có biết gì về các ngôn ngữ Đông phương không?
- Không biết gì hết. Không biết một chữ.
Câu trả lời có vẻ làm cho nhà Ai Cập học thấy nhẹ nhõm. Anh hỏi:
- Về chuyện này, từ lúc cái anh chạy vào tới lúc tôi tỉnh lại có lâu không?
- Không lâu. Khoảng bốn hay năm phút
- Hình như tôi thấy rằng tôi đã không bị bất tỉnh lâu hơn! - anh vừa nói vừa hít vào một hơi dài - nhưng sự ngất xỉu thật là một điều kỳ lạ! Không có cách nào để đo lường thời gian của nó. Theo các cảm giác của riêng tôi, tôi không tài nào nói chắc được là tôi đã bị ngất đi trong vài giây hay vài tuần lễ. Cái ông khách nằm trên bàn kia đã được tẩm liệm đã bốn mươi thế kỷ rồi; nếu ông ấy lại nói được, ông ấy sẽ bảo chúng ta rằng cái khoảng thời gian này chỉ thoảng qua như thời gian mà ta cần có để nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra. Đó là mộ t xác ướp tuyệt đẹp, anh Smith ạ!...
Smith lại gần cái bàn và nhìn cái hình thù đen đúa và cong queo bằng con mắt của nhà chuyên môn. Bộ mặt tuy đã bị mất màu sắc một cách khủng khiếp nhưng vẫn còn nguyên vẹn; hai nhãn cầu nhỏ bé còn nằm trong hốc sâu của những lỗ mắt đen ngòm. Cái cằm có vân như cẩm thạch bị kéo vẹo sang một bên, và những sợi tóc to và đen rủ xuống hai tai. Hai chiếc răng nhỏ như răng chuột phủ lên cái môi dưới đã teo lại. Trong tư thế ngồi xổm, với những khớp xương cong lại và cái đầu nghểnh về phía trước, cái vật khủng khiếp này tỏa ra một cảm giác về khí lực làm đảo lộn tinh thần của Smith. Những cái xương sườn hằn rõ như dược bọc bởi một cái vỏ bằng da thuộc, cũng như cái bụng màu xám chì, bị rạch theo chiều dài bởi người ướp xác; nhưng hai chân thì vẫn còn được quấn các băng vải vàng. Những lá đinh hương, những mảnh vụn nhựa mật nhi lạp và trái ba đậu còn rải rác trên cái xác hoặc vương vãi bên trong cái hòm.
- Tôi không biết tên hắn, - Bellingham nói trong lúc đưa bàn tay lên cái trán nhăn nheo của anh - Các anh nhìn đấy: tôi thiếu mất cỗ quách bên ngoài cùng với những chữ ghi chép của nó. Lô số 249, đó là tất cả danh hiệu của hắn hiện nay. Hãy dọc chữ này trên cái hòm. Đó là con số hắn mang trong cuộc bán đấu giá mà tôi đã mua được.
Abercrombie Smith nói:
- Lúc sinh thời, chắc chắn hắn là một người đàn ông đẹp trai.
- Một anh khổng lồ. Cái xác ướp của hắn đo được hai mét chiều dài; ở nơi đó, hắn phải là một anh khổng lồ vì giống người ở đó đã không được phát triển mấy. Hãy thử sờ vào mấy cái xương lớn quăn queo xem. Không ai dại dột mà trêu chọc hắn.
- Có thể là những bàn tay này đã góp sức vào việc xây dựng các ngôi Kim tự Tháp chăng? - Monkhouse Lee góp ý trong khi ngắm nghía những bàn tay với sự kinh tởm.
- Chớ nên tin gì vào việc đó! Anh chàng nay đã được ướp một cách kỹ càng trong một kiểu cách tốt nhất. Người ta không đối xử tử tế như vậy với những anh thợ nề tập sự đâu. Muối hoặc dầu hắc cũng là quá tốt rồi. Người ta đã tính là cái thứ công việc vớ vẩn phải tốn vào khoảng 730 bảng tiền của chúng ta. Ít nhất anh bạn của chúng ta cũng là một nhà quý tộc. Anh Smith, anh nghì thế nào về cái dòng chữ nhỏ ở gần hai bàn chân hắn?
- Tôi đã nói với anh là tôi không biết một thứ ngôn ngữ Đông phương nào mà.
- À phải! Đó là tên của người ướp ít nhất tôi cũng giả thiết là vậy. Ông ta phải là một nghệ nhân rất có lương tâm nghề nghiệp. Tôi đã tự hỏi rằng liệu có bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật hiện dại sẽ tồn tại được bốn ngàn năm!...
Anh ta tiếp tục nói với vẻ giễu cợt, nhưng Abercrombne Smith nhận thấy anh ta vẫn còn run rẩy vì sợ hãi. Tay anh ta có những cử động thiếu tự chủ, môi dưới của anh ta run run và mắt anh ta lúc nào. cũng nhìn vào người bạn gớm ghiếc của mình! Tuy nhiên, bất kể nỗi sợ sệt anh ta vẫn có một vẻ đắc thắng trong giọng nói và trong thái độ. Mắt anh ta sáng ngời, bước chân nhanh nhẹn và khinh khoái khi đi đi, lại lại trong eăn phòng. Người ta có thể nói đó là một người vừa trải qua một cuộc thử thách phũ phàng, còn mang các dấu vết của cuộc thử thách, nhưng đã đạt được mục đích của mình.
- Anh không bỏ đi đấy chứ? - anh ta kêu lên khi Smith từ ghế dài đứng lên.
Trước viễn ảnh đơn độc, những mối lo sợ hình như lại tấn công anh ba và anh ta vươn tay ra như thể giữ Smith ở lại.
- Đúng, tôi phải đi đây. Công việc đang đợi tôi. Anh đã hồi phục rất khá rồi. Tôi nghĩ rằng với hệ thần kinh của anh, anh nên chuyên tâm vào những môn học ít bệnh hoạn hơn. – Ô, thông thường tôi không bao giờ bị suy yếu cả? Và tôi đã từng tháo vải bọc cho nhiều xác ướp mà.
- Lần trước anh cũng đã bị ngất xỉu - Monkhouse Lee đưa ra lời lưu ý.
- À, phải! Này, tôi sẽ phải dùng một liều thuốc bổ cho các dây thần kinh. Anh không bỏ đi chứ, anh Lee?
- Tôi sẽ làm theo ý anh muốn, Ned ạ.
- Vậy thì tôi sẽ xuống phòng anh, và tôi sẽ ngủ trên cái ghế dài của anh. Chúc ngủ ngon nhé Smith. Tôi rất buồn vì đã làm phiền anh với những trò ngu ngốc của tôi.
Họ bắt tay nhau; chàng sinh viên y khoa leo mỗi bước bốn bậc thang để trở về phòng của mình, anh nghe thấy tiếng hai người bạn đi xuống phía căn hộ ở tầng thứ nhất.
Đó là lý do tại sao Edward Bellingham và Abercrombie đã làm quen với nhau, chàng sinh viên y khoa không có ý định gắn bó xa hơn nữa, nhưng Bellingham có vẻ như say mê anh hàng xóm; anh ta đã có những cử chỉ mở đầu một cách thân thiện quá đến nỗi chỉ một kẻ thật sự thô lỗ mới dám khước từ. Đã hai lần anh ta tới phòng Smith để cảm ơn về sự giúp đỡ; rồi sau đó anh ta gõ cửa để mang tới cho anh các sách, báo và mọi thứ lặt vặt mà hai anh hàng xóm độc thân có thể tặng, biếu cho nhau. Smith đã phát hiện ra ngay là anh ta đọc rất nhiều, anh ta có một trí nhớ phi thường. Lối cư xử của anh ta rất khả ái, rất dịu dàng khiến cho sau một thời gian nào đó người ta quên đi cái diện mạo thể chất ít gây được cảm tình của anh ta. Phải làm việc quá sức như Smith, mà anh cũng không thấy anh ta gây khó chịu chút nào; anh đã mau chóng có thói quen về các cuộc thăm viếng của anh ta, và khi có cơ hội anh cũng tới thăm anh ta.
Bellingham đúng là một người thông minh không ai chối cãi được tuy nhiên Smith đã phát hiện ở anh ta một đôi chút khùng điên, ít nhất cũng ở bề ngoài. Đôi khi anh ta có những lúc nói năng lưu loát, khoa trương trái ngược hẳn với sự giản dị trong lối sống.
Anh ta kêu lên:
- Thật là một điều kỳ thú khi cảm thấy rằng ta có thể sai khiến được các quyền lực của điều thiện và điều ác rằng ta có thể là một ông thánh cứu nhân, độ thế hay một ác quỷ của sự hận thù!...
Và đối với Monkhouse thì anh ta nói:
-... Lee là một anh chàng dũng cảm, một người lương thiện nhưng anh ấy không có nghị lực, mà cũng không có tham vọng. Anh ấy sẽ không phải là người cộng tác tốt cho người nào muốn lập một sự nghiệp lớn lao. Anh ấy không phải là một người cộng tác tốt với tôi.
Khi nghe những lời như vậy, anh chàng Smith khỏe mạnh chỉ rít ống píp một cách nghiêm trang và nhường cặp chân mày lên và lắc đầu.
Bellingham đã mắc phải một thói quen mà Smith biết là nó biểu lộ một tinh thần suy nhược; anh ta nói liên miên, nói lớn tiếng. Lúc đêm đã khuya, khi không có thể còn khách khứa nào trong phòng anh ta, Smith nghe thấy anh ta nói một mình với một giọng tắc nghẹn trầm xuống gần như tiếng thì thầm, nhưng sự yên lặng ở chung quanh làm cho nghe rõ mồn một. Sự lảm nhảm một mình này làm chàng sinh viên y bực bội quá dện nỗi chàng phải cự nự anh hàng xóm. Bellingham ngượng đỏ mặt trước lời buộc tội và chối phăng là anh ta đã không nói một tiếng nào; thực sự anh ta có vẻ như đang bực bội điều gì đó.
Nếu Abercrombie Smith có những nghi ngờ về thính giác của mình thì anh đã không cần phải đi xa hơn nữa để được xác nhận về sự phát hiện của anh. Tom Styles, gã đầy tớ nhỏ bé nhăn nheo là người đã làm việc từ lâu cho ba người khách trọ của cái tháp, cũng thấy bực bội về cùng một vấn đề này.
- Thưa ông, - một buổi sáng khi đang quét dọn căn phòng phía trên, hắn hỏi - ông có nghĩ rằng ông Bellingham là khỏe mạnh không ạ?
- Khỏe mạnh hả, Styles?
- Vâng, thưa ông. Là đầu óc ông ấy ở tình trạng tốt
- Và tại sao đầu óc ông ấy lại không ở tình trạng tốt hả?
- Thưa ông, tôi thề là tôi không biết gì cả. Từ ít lâu nay ông ấy đã có những chứng cuồng mới. Ông ấy không phải là cùng một con người như ngày trước nữa mặc dù tôi xin được mạn phép nói với ông rằng chưa bao giờ ông ấy hoàn toàn giống như người lịch sự như ông Hastic hoặc như ông vậy. Ông ấy cứ nói chuyện một mình, đó là một điều gì có vẻ đáng sợ. Tôi tự hỏi liệu chuyện đó có làm phiền cho ông không? Thưa ông, tôi không biết nghĩ về ông ấy thế nào đây.
- Anh Styles này, tôi không thấy chuyện đó có liên quan gì tới anh cả.
- Vâng, thưa ông Smith, đó là vì tôi quan tâm tới thôi! Có lẽ đó là một thiên kiến của tô , nhưng tôi không thể tự ngăn cản để khỏi nghĩ tới việc đó. Đôi khi tôi cảm thấy như tôi là cha mẹ của những vị công tử trẻ trung của tôi. Mọi trách nhiệm đều đổ lên đầu tôi khi có các sự việc chẳng tốt lành và khi các vị phụ mẫu tới thăm, nhưng thưa ông Bellingham, ông... Tôi rất muốn biết một đôi khi có ai đó đi trong phòng của ông ấy - lúc ông ấy ra khỏi và lúc cửa được khóa ở phía bên ngoài.
- Vậy hả? Anh nói nhảm nhí rồi Styles ạ!
- Có lẽ là thế, thưa ông. Nhưng chính tai tôi đã nghe tiếng động đó hơn một lần nữa.
- Chuyện tầm phào, Styles ạ!
- Được rồi, thưa ông khi nào ông cần xin bấm chuông gọi tôi.
Abercrombie Smith không mấy để ý tới những lời nói của gã đầy tớ lâu năm, nhưng vài ngày sau đó một sự cố nhỏ đã dể lại cho anh một ấn tượng khó chịu và nhắc nhở với anh những lời nói đó một cách mãnh liệt.
Bellingham đi lên gặp anh vào một giờ đã muộn, anh ta đang kể cho anh nghe những điều rất thú vị về các ngôi mộ của dòng họ Beni Hassan ở Bắc Ai Cập, thì Smith, vốn là người có cặp tai rất thính, nghe thấy rõ ràng tiếng một cánh cửa mở ra ở tầng dưới. Anh nói với Bellingham:
- Có người đi vào hay đi ra khỏi phòng anh.
Anh chàng này đứng phắt dậy và cứ chứng yên hoàn toàn bị bối rối trong vài giây; anh ta có vẻ nửa không tin, nửa kinh hãi.
- Chắc chắn là tôi đã đóng cửa rồi mà. Tôi hoàn toàn tin chắc là tôi đã đóng cửa - anh ta hổn hển nói - không ai có thể mở được nó.
- Này, bây giờ tôi nghe thấy tiếng một người đi lên các bậc thang.
Bellingham chạy vội ra cửa, mở cửa, đóng đánh sầm một tiếng sau lưng anh ta và nhẩy xuống cầu thang. Khoảng giữa chừng, Smith nghe thấy anh ta đứng lại, và anh tưởng như bất chợt nghe thấy tiếng nói thì thầm. Một lát sau cánh cửa của tầng dưới đóng lại, một cái chìa khóa cọt kẹt trong ổ khóa, và Bellingham trán đẫm mồ hôi nhỏ giọt, lại lên cầu thang và đi vào trong phòng.
- Không có chuyện gì cả - anh ta nói và ngồi phịch xuống một cái ghế - Đó là cái con chó ngốc nghếch. Nó đã đẩy cửa ra. Tôi không biết tại sao tôi lại quên không khóa cửa lại.
- Tôi không biết là anh có một con chó, - Smith nói trong khi ngắm nhìn một cách đầy tư lự nét mặt bối rối của người bạn.
- Phải. Tôi đã không nuôi chó từ lâu rồi. Tôi sẽ phải vất nó đi, nó làm tôi phiền phức quá.
- Tôi thấy hình như đóng cửa mà không khóa lại là chưa đủ, phải không?
- Tôi muốn ngăn cản không cho lão Styles để nó chạy ra. Đó là một con vật đắt giá, anh hiểu chứ? Và để mất thì thật là ngốc.
- Tôi là một tay chơi tài tử về chó - Smith nói trong khi tiếp tục vẫn liếc mắt quan sát người bạn của mình - Anh có thể vui lòng cho tôi xem con chó đó được không?
- Dĩ nhiên là được rồi! Nhưng không phải tối nay, xin anh vui lòng. Tôi có một buổi hẹn. Đồng hồ treo của anh chạy có đúng không? Trời ơi, tôi đã bị trễ mất mười lăm phút rồi! Xin anh tha lỗi cho nhé được không?
Anh ta chộp lấy cái mũ và vội vã rời khỏi phòng. Một buổi hẹn à? Smith nghe thấy anh ta trở về phòng và khóa cửa lại ở phía bên trong.
Cuộc nói chuyện này đã gây một cảm tưởng không vui cho chàng sinh viên y khoa. Bellingham đã nói dối anh; và nói dối một cách quá vụng về khiến người ta phải nghĩ rằng có những nguyên do rất cấp thiết để che giấu sự thật. Smith biết chắc chắn là anh hàng xóm này không có chó. Anh cũng biết rằng tiếng bước chân trong cầu thang không phải là tiếng bước chân của một con vật. Trong trường hợp này thì là tiếng bước chân của ai? Smith nhớ lại những diều mà lão Styles đã nói với anh về những tiếng động mà hắn bất chợt nghe thấy trong khi người chủ căn phòng vắng mặt. Có thể là một người đàn bà chăng? Smith nghĩ tới giả thuyết này. Nếu sự hiện diện của một người dàn bà bị các giới chức nhà trường phát hiện thì Bellingham sẽ bị đuổi học ngay lập tức; sự cố có thể xảy ra này có thể giải thích được sự lo lắng và sự dối trá của anh ta. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng một sinh viên lại giữ được một người đàn bà trong phòng mình mà không bị phát giác ngay tức thì. Dù cho sự giải thích là thế nào đi nữa, chắc chắn nó cũng không tốt đẹp gì. Smith trở lại với các tập sách của anh, quyết định sẽ làm nản lòng tất cá mọi ý định kết thân mới cua người hàng xóm, một người nói thì rất hay mà hành động thì rất tệ.
Nhưng số trời đã định là anh không thể làm việc một cách yên tĩnh buổi tối hôm đó. Anh vừa mới nối xong sợi dây đứt đoạn thì một bước chân nặng nề và chắc chắn leo lên từng ba bậc một trong cầu thang, và Hastie, với áo vét và quần bằng nỉ, chạy xộc vào phòng anh.
- Còn làm việc à! - anh ta có kêu lên tuột cách kinh ngạc và ngồi phịch ngay xuống chiếc ghế bành ưa thích của anh ta - người đâu mà chăm học thế? Tôi nghĩ rằng nếu có một trận động đất làm nát bấy thành phố Oxford này, thì anh cũng sẽ chồi lên hoàn toàn bình thản trên những đổ nát, với quyển sách cầm trong tay. Yên tâm đi, tôi sẽ không ngồi lại lâu đâu. Ba hơi thuốc lá thôi, rồi tôi sẽ chuồn đi.
- Có tin tức gì không? - Smith vừa hỏi vừa lấy ngón tay trỏ nhấn một chút thuốc lá trong cái píp.
- Không có gì quan trọng. À, có đấy! Anh có biết tin Long Norton bị tấn công không?
- Không. Bị tấn công à?
- Phải. Ngay ở góc đường High Street, cách hàng rào song sắt của trường cao đẳng một trăm mét.
- Nhưng bởi ai?...
- À, xem đó! Nếu anh nói bởi cái gì và không nói bởi ai, thì anh đã tỏ sự tôn kính hơn đối với ngữ pháp đó. Norton đoan quyết rằng anh ấy không bị tấn công bởi một con người; nhìn những vết xây xước ở cổ họng anh ấy, thú thực là tôi cũng gần tin lời anh ấy nói.
- Tóm lại, hãy nói rõ ràng đi! Trò ma quỉ à? Abeciombie Smith phà khói ra với vẻ khinh khỉnh của nhà khoa học.
- Không, đúng vậy. Tôi nghĩ rằng một lái buôn.
Kết Thúc (END) |
|
|