Đó là vào lúc chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, vào một trong những buổi chiều vẫn còn những cuộc hỗn chiến khi đó. Tôi chẳng biết vì sao con vật nhỏ nhoi sợ sệt kia, hẳn là từ một chiếc tàu nào đó bị đánh đắm, đã hoảng loạn nhảy sang được chiếc tàu của chúng tôi, và tới ẩn ngay trong phòng tôi, dưới giường ngủ của tôi. Một con mèo còn non, thân thể chưa trưởng thành, gầy gò, thảm hại, khốn khổ, nhưng xem chừng tông tích vốn hẳn là được nuôi nấng chu đáo như cha mẹ của nó và chủ nó, nghĩa là từng sống bằng cơm và các đầu cá nấu lộn với nhau. Tôi chợt thấy thương hại con vật và ra lệnh cho cần vụ nấu cho nó một chút gì có chất bột và chút gì đó cho nó uống.
Với một vẻ khiêm nhường và hàm ơn, con mèo nhận những thứ tôi mời mọc – lúc này đây tôi vẫn còn nhớ cảnh nó chậm chạp tiến tới gần bữa ăn bất ngờ đó, nó nhích một chân rồi một chân khác, trong lúc đôi mắt trong trẻo không ngớt nhìn vào mắt tôi, như thể để tin chắc rắng nó không nhầm, rằng đó chính là dành cho nó thực…
Sáng hôm sau, tôi tính chuyện đuổi nó đi. Sau khi cho nó ăn một bữa tiệc chia tay, tôi lấy hai tay đập thật mạnh vào nhau, chân thì dậm thật dữ dội, theo tục lệ vào những dịp đó thì phải làm như thế, và tôi nó với nó bằng một giọng cứng rắn:
- Đi thôi, xin mời đi thôi, bà Miu!
Thế nhưng nào nó có đi cho. Hiển nhiên là nó không hề sợ tôi chút nào, nó đã hiểu bằng trực giác rằng mọi thứ ồn ào kia chỉ là chuyện cố tình làm quá lên thôi. Với một vẻ như thể muốn nói cùng tôi: “ Tôi biết thừa đi rồi, ông chẳng làm gì hại tôi đâu ”, nó cứ thế nằm lỳ trong góc buồng, người dán sát xuống sàn tàu, trong tư thế một kẻ đang van nài, mắt mở to nhìn tôi, đôi mắt nhìn như mắt người mà tôi chỉ thấy có ở nó thôi.
Làm thế nào bây giờ? Tôi hẳn không thể để cho một con mèo sống chung phòng trên con tàu. Nhất là một con vật yếu ớt và tinh quái thế kia. Chà, nghĩ chuyện đường dài, thật phiền hà quá đáng…
Thế là tôi nổi nóng lên, tóm lấy nó, dĩ nhiên là nhẹ nhàng, và có cả lời an ủi nó nữa: “ Tôi không thể chịu được nữa rồi, bà ạ! ” và tôi kiên quyết lôi nó ra ngoài, đem nó lại tận đầu tàu đằng kia, ném nó vào giữa đám thuỷ binh nói chung thường là những người hiếu khách đối với những con mèo bất kể mèo như thế nào.
Nó nằm ẹp xuống sàn tàu, đầu ngoảnh lại tôi như thể muốn van xin, và bỗng dưng thoắt cái, nó chạy về phòng tôi trước cả tôi nữa. Khi tôi về tới phòng mình, tôi đã thấy nó chui vào một xó rồi, và đôi mắt nó đầy vẻ than van, khiến tôi không sao còn đủ dũng khí đuổi nó đi lần nữa. Cậu chuyện tôi có con mèo bắt đầu như vậy.
Tôi còn nhớ rõ cái ngày đầu tiên khi mối quan hệ giữa hai chúng tôi trở nên thực sự thân thương.
Lúc đó tàu chúng tôi đang ở ngoài khơi xa, phía bắc biển Hoàng Hải, vào những ngày tháng chín buồn bã…Tôi đang ngồi ở bàn và đang viết….
Đã gần hai tuần nay, bà Miu ngủ dưới gầm giường tôi. Nó sống ở đó, ẩn dật, kín đáo, buồn rầu, ít ló ra ngoài, hầu như luôn luôn trốn mặt, và hình như nhớ nhưng quê hương, bản quán mà chắc hẳn nó chẳng có dịp trở lại.
Đột nhiên, trong bóng tối nhập nhoạng, tôi thấy nó vươn dài mình ra, và dường như còn muốn suy nghĩ thêm chút nữa, rồi nó đi lại tới tôi, vẫn còn ngập ngừng, đi lại dừng, đi lại dừng. Đôi khi trong lúc đang đi, theo một kiểu cách hệt như của người Trung Hoa, nó giơ một chân lên và chưa chịu đặt chân xuống đất, lát sau mới hạ xuống rồi bước tiếp. Và trong lúc đi, mắt nó nhìn tôi chăm chăm, dò hỏi:
Nó muốn gì vậy nhỉ? Hiển nhiên là nó không đói. Cần vụ của tôi ngày ngày cho nó ăn hai bữa no căng. Vậy nó muốn gì ở tôi?
Khi nó đã tới sát, rất sát chân tôi, nó liền ngồi xuống thu đuôi lại, và cất lên một tiếng “ meo ”, vô cùng hiền dịu.
Và nó tiếp tục nhìn tôi chăm chú, nhưng là một cách nhìn sâu vào trong ánh mắt tôi, điều đó cho thấy trong cái đầu bé bỏng của nó cả một thế giới nhận thức: trước hết nó cần biết rằng, tôi cũng như mọi sinh vật bậc cao khác, tôi không phải là một đồ vật, mà là một sinh vật suy tư, một kẻ có khả năng có tình thương và hiểu nổi một ánh mắt câm lặng. Hơn nữa, điều cần thiết là nó phải nhìn thấy ở đôi mắt tôi đích thực một đôi mắt, tức là những tấm gương nơi đó tâm hồn nhỏ nhoi của nó đang tìm kiếm một cách lo lắng, e ngại một ánh phản chiếu của tâm hồn tôi…Thật vậy, loài vật, khi ta nghĩ tới chúng, ta thấy chúng gần gũi với ta trong những quan niệm như vậy, chúng cũng có nhiều khả năng có những quan niệm như thế lắm chứ.
Còn tôi, lần đầu tiên tôi nhìn ngắm kỹ vị khách bé bỏng của mình, đã hai tuần lễ rồi cùng ở trong phòng với tôi. Lông nó màu xám đậm như lông thỏ rừng, lại lốm đốm như lông con hổ, còn mõm và gáy thì trắng. Nó xấu xí thật đấy, nhưng đó là do ốm yếu, và nói chung thì không thể gọi nó là xấu xí, gọi nó bằng hai tiếng “ ngồ ngộ ” đúng hơn. Con mèo này khác nhiều giống mèo Pháp của ta: chân nó thấp, người dài như con cầy hương, và cái đuôi dài quá khổ: tai dựng đứng và mặt kín đáo; duy đôi mắt thì đầy rẫy một vẻ duyên, mắt xếch về phía thái dương như mắt người vùng Viễn Đông, tròng mắt màu vàng tươi chứ không xanh lơ, luôn luôn linh hoạt, có sức biểu cảm lạ kỳ.
Tôi vừa nhìn nó, vừa hạ tay xuống đầu nó và xoa lên lớp lông nó, lần đầu tiên tôi ve vuốt nó như vậy.
Nó đã cảm thấy cái gì? Hẳn đó phải là một cảm giác hơn là một khoái cảm thể xác: nó có cảm giác được che chở, nó nhận thấy một thiện cảm trong cảnh hắt hủi, đau khổ. Chính vì thế mà nó rời bỏ nơi ẩn náu tối tăm và ra ngoài. Cái mà nó quyết định cầu xin của tôi, không phải là miếng ăn. Cái nó cầu xin, trong tâm hồn mèo bé bỏng kia, là một chút tình bầu bạn, một chút nghĩa kết thân trong cuộc đời này.
Khi ấy, một cẳng chân thanh mảnh khẽ đặt lên người tôi một cách rụt rè – ôi chao, với biết bao tinh tế, với biết bao thận trọng xét suy! – và sau khi đã kiên nhẫn dò hỏi và cầu xin tôi bằng cái nhìn kia, bà Miu, sau khi nghĩ rằng đã đến lúc “đốt cháy giai đoạn ” liền nhảy tót lên lòng tôi.
Lúc đó là cuối một mùa đông gian khổ, đã vào đầu tháng ba ấm áp, và bà Miu đánh bạn ở bên đất Trung Hoa, cùng tôi về Pháp và vào nhà tôi ở.
Nhà tôi cũng có một con mèo khác, con Trắng. Vào mùa này, con Trắng vẫn còn mang bộ lông trắng đường bệ, và chưa từng khi nào tôi nhận thấy Trắng to, đẹp đến thế.
Cảnh tương phản thật vô cùng rõ với con Miu Trung Hoa gầy gò, với bộ lông thỏ rừng và rụng lông từng mảnh như bị bọ ăn. Thế thì tôi cảm thấy bối rối vô cùng khi người nhà tôi ra bến đón nó về, đã ngạo nghễ nhấc nắp chiếc giỏ đựng nó, và khi mỗi người trong gia đình tôi tụ tập chờ đó, bà bạn Trung Hoa của tôi hãi hùng bước ra.
Ấn tượng chung của mọi người thật tệ hại, và chỉ cần nhắc câu nói sau của dì tôi là đủ: “ Tội nghiệp cháu tôi! Con mèo sao mà chết cười! ”
Chết cười thật, bây giờ tôi biết làm cách nào và lấy lý do gì đem giới thiệu bà Miu Trung Hoa của tôi với chị mèo Trắng đây? Chưa biết cách làm sao, tôi bèn đem Miu Trung Hoa cho lên tầng thượng cách nẻo, sao cho hai con mèo không gặp nhau một thời gian, và tìm cách…
Khi hai con gặp nhau lần đầu, thật là một chuyện khủng khiếp kinh hoàng.
Chuyện đó xảy ra bất ưng, vài ngày sau khi tôi về, và xảy ra tại nhà bếp ( một địa điểm có sức hấp dẫn tuyệt vời mà những con mèo sống chung một mái nhà không thể nào không tới cho được ). Người nhà cấp tốc tìm tôi và tôi lao ngay tới. Lúc đó đang nghe thấy những tiếng kêu thất thanh; như một cuộn len làm bằng hai bộ lông và những móng vuốt, hai thân hình cuộn chặt lấy nhau, làm lăn đổ tanh bành bát đĩa, cốc chén, quăng lên quật xuống, trong lúc những sợi lông trắng và lông thỏ rừng xám, bay tung khắp xung quanh. Tôi phải can thiệp một cách thật kiên quyết, tách rời hai bên ra bằng cách té vào hai con một bình to nước lã. Tôi băn khoăn vô cùng…
Người run rẩy, đầy vết xước, tim đập như muốn vỡ tung ra, bà Miu Trung Hoa nép sát người tôi, và dần dần yên tĩnh lại, thần kinh bớt căng thẳng vì đã cảm thấy được cảnh an toàn êm dịu. Sau đó, nó chuyển sang ngay đơ và nhão ra như một thân xác không hồn. Ở loài mèo, đó là biểu lộ một tình trạng tin cậy vô cùng lớn với người đang che chở nó.
Mèo trắng ngồi một góc, vẻ nghĩ ngợi và buồn, mở to mắt nhìn hai chúng tôi, trong cái đầu bé bỏng của nó diễn ra một sự suy lý. Nó vốn là một con mèo, suốt năm này qua năm khác, từng xua đuổi trên mái nhà mọi con mèo lạ, ngay cả khi đó là những con mèo hàng xóm, giờ đây thấy trong tay tôi một con mèo thân thiết vì tôi cho nó nằm sát cổ tôi và nó đang buông thả mình trong sự ôm ấp của tôi. Và như vậy có nghĩa là không nên làm điều gì có hại cho nó và phải chấp nhận sự hiện diện của nó trong nhà này thôi.
Tôi vừa kinh ngạc vừa khâm phục vô cùng, khi thấy hai con, một lúc sau, đã sóng hàng cùng nhau, tuy vẫn coi thường nhau, nhưng lịch sự vô cùng, yên lành vô cùng, và thế là xong mọi chuyện, suốt đời chúng hai con mèo đó không còn giận dữ gì nhau nữa.
Cuộc đời một con mèo có thể kéo dài, tới mười hai hoặc mười lăm năm nếu như không có tai họa gì xảy ra.
Bà Miu Trung Hoa bị đầu tiên, ở bà, ta thấy biểu hiện những rối loạn tâm trí, bệnh buồn bã - hẳn là nỗi buồn nhớ xứ sở xa xôi. Không ăn uống gì, bà chui đi nằm ẩn một nơi trong những thời gian dài trên những nóc tường cao, nằm hằng ngày dài không nhúc nhích, ai gọi cũng chẳng thưa và chỉ đáp lại những tiếng gọi âu yếm bằng con mắt nhìn dịu dàng và những tiếng “ meo, meo ” thảm thương.
Bà mèo Trắng cũng thế, ngay từ những ngày đầu xuân, đã tỏ ra yếu mệt, và cho tới tháng tư, cả hai con mèo của tôi đều thực sự ốm nặng.
Các bác sĩ thú y được mời tới đã cho những thang thuốc và những biện pháp chữa trị không sao thực hiện nổi. Người này thì sáng cho thuốc, chiều đắp chườm lên bụng. Người kia thì bắt dùng phép trị liệu bằng nước: phải hút sạch lông và mỗi ngày hai lần đem mèo đi tắm nước lạnh xối xả. Người giúp việc nhà tôi thi hành mọi điều và tuyên bố mọi chuyện đều vô ích. Và bắt đầu thử dùng những phương thuốc đặc biệt nhưng cũng chẳng ăn thua.
Cả mùa xuân đang tới, cả ánh nắng chói chan cũng chẳng có tác dụng gì với chúng hết.
Một sớm kia, tôi từ Paris trở về nhà, người giúp việc của tôi khi đỡ vali cho tôi, đã thông báo một cách buồn bã:
- Thưa ông, Miu Trung Hoa đã chết rồi!
Đã ba ngày rồi, Miu kia vốn tính chín chắn vô cùng, đã biến mất. Không còn nghi ngờ gì nữa, nó đã cảm thấy ngày cuối cùng tới rồi, và nó quyết định ra đi, trong lòng bị thúc đẩy vì cái tình cảm tuyệt vời chất phác thường khiến cho những con vật kia lẩn trốn kín một nơi mà chết. Người nhà tôi nói:
- Thưa ông, suốt cả tuần, nó nằm trên cây nhài đỏ, không chịu xuống ăn nữa. Khi chúng tôi gọi, nó vẫn đáp lại, những tiếng yếu ớt quá chừng.
Đến cái phút giây khủng khiếp, Miu Trung Hoa của tôi đã đi đâu nhỉ? Hẳn là đã đi tới một nhà xa lạ nào đó, những người chẳng những không cho nó chết yên lành mà còn xua đuổi nó, làm đau đớn dằn vặt nó và sau đó vứt nó vào chuồng phân. Thực lòng, tôi chỉ muốn nó chết tại chính ngôi nhà của tôi. Lòng tôi se buồn khi nhớ lại đôi mắt nhìn hệt như người của nó, đôi mắt van lơn biết bao, đôi mắt khi nào cũng tràn đầy một tình cảm và một nhu cầu che chở và yêu thương của nó không sao nói ra nổi thành lời; đôi mắt luôn luôn tìm gặp đôi mắt tôi, lúc nào cũng với cái vẻ hỏi han lo âu kia những không sao phát biểu ra nổi…Nào ai biết trong những tâm hồn nhỏ nhoi kia đã diễn ra những lo âu bí ẩn gì, vào những giây phút hấp hối, nhưng tâm hồn con vật có những tình cảm phức tạp kia đã diễn ra những chuyện gì?…
Kết Thúc (END) |
|
|