Bí Danh:
Mật Mã:
Đăng Ký / Register
Tên Truyện   Tác Giả   Truyện hay Tác Giả
VietSingle - Tìm Bạn Chat - Trò Chuyện Hát Karaoke Xem Phim Video Nghe Nhạc Music Nấu Ăn Truyện & Thơ Từ Điển
Mục Lục
Nghe Truyện Ngắn Audio
Nghe Truyện Dài Audio
Nghe Truyện Ma Audio
Truyện Cổ Tích Video
Học Sinh Cười
Truyện Cổ Tích
Truyện Cười
Truyện Dài
Truyện Học Trò
Truyện Kiếm Hiệp
Truyện Ma (Kinh Dị)
Truyện Ngắn
Truyện Quỳnh Dao
Tất Cả Thi Sĩ
 
Truyện Ngắn » Người Trong Cổ Tích Tác Giả: Nguyễn Đức Thọ    
    Khu vườn nhà ông lão Viên rậm rạp cây cối , rộng mênh mông , nằm biệt lập như một quốc gia bình yên dưới chân núi Cấm. Giữa một vùng chập chùng lởm chởm toàn đá , màu xanh huyền bí của khu vườn gợi cho người ta chút tò mò về sự lẻ loi cô độc của chủ nhân. Trẻ mục đồng luôn tìm cách xâm nhập vào bên trong nhưng đành bất lực vì bầy chó đông hơn một tiểu đội, con nào cũng dữ tựa chó sói rừng. Nhiều lần tôi nằm trên mỏm đá cheo leo vách núi nhìn xuống vườn ổi chín vàng , lòng thầm ghen với chim chào mào đỏ đít.Bầy chim tha hồ rỉa ăn , mời gọi nhau chíu chít. Khi đã no nê , chúng cất tiếng hót lanh lảnh âm vang vách đá. Khu vườn cổ tích ở ngay trước mặt , tôi thèm nhỏ dãi vẫn không tài nào đặt chân vào bên trong.
    Người già kể , khu vườn xưa kia vốn là trang trại của một ông quan Nghè, chán cảnh quan trường , lui về ẩn dật. Đây là thành qủa của sự cần cù , truyền đời này sang đời khác. Hẳn quan Nghè cũng là người giàu trí tưởng tượng. Đào đá xếp tường thành , lấy đất trồng cây lưu niên. ở mỗi mỏm nhô ra , đá hộc được chồng thành hình nhân, trông xa cứ giống những người lính đang canh gác. Khối tên trộm đã giật mình hốt hoảng trong đêm tối vì các hình nhân bằng đá ấy. Lão Viên là cháu đích tôn , được thừa kế trang trại. Thời trai trẻ lão từng xuất dương mong thỏa chí nam nhi tang bồng hồ thỉ nhưng đại sự bất thành. Lão bị thực dân Pháp bắt bỏ tù Côn Đảo. Nước nhà độc lập lão trở về núi Cấm phụng dưỡng mẹ gìa và hiện tại lão chỉ còn lại một mình. Cuộc đời lão ẩn chứa nhiều giai thoại hư thực không rõ ràng , lắm khi nghe mọi người kể lại cứ thấy trái ngược nhau. Người nói lão là nhà cách mạng lỗi thời , người bảo lão thuộc thành phần phản động bị công an ghi sổ đen để theo dõi...
    Lão Viên xuống làng ra chợ Lèn mỗi tháng hai phiên, sau lưng mang chiếc gùi trĩu nặng trái cây chín. Con người lão toát lên sự thanh bạch tuy gương mặt có vẻ hơi lạnh lùng vô cảm. Miệng lão ngậm chiếc ống điếu vừa cong vừa dài , thả khói mù mịt, trông rất ngộ mà cũng rất khó gần. Mùa nào vườn nhà cũng có trái chín, trẻ con hay bám theo sau chiếc gùi , nơi đó tỏa ra làn hương thật quyến rũ. Bữa nào ế chợ , lão ghé qua làng chia qùa cho các người già.Con nít chìa tay xin , lão đưa mắt nhìn rất nghiêm và lắc đầu. Tôi nghĩ , lão làm thế là đúng , cứ biếu người già nếu răng yếu các cụ không ăn được sẽ chia phần một cách công bằng cho con cháu. Tôi rất ghét lũ trẻ giành ăn với nhau , trông giống bầy gà bầy vịt tranh nhau con mồi giun.
    Bỗng dưng , buổi sáng của một ngày đẹp trời, nhà lão Viên có khách từ xa đến. Cả làng đổ ra ngó chiếc xe mu rùa màu đen chạy chầm chậm trên con đường lồi lỏm ổ gà. Bánh xe đằn ngang những bãi phân trâu làm văng tung tóe ra phía sau.Lũ trẻ hò reo chạy theo , có đứa bị cứt trâu văng dính vào mặt. Đường lên núi Cấm là một lối mòn nhỏ ngoằn ngoèo nên chiếc xe phải dừng trước ngõ nhà tôi. Ba người đàn ông bước xuống cùng một cô bé thật lạ lùng. Nó mặc bộ váy trắng tinh, chân đi giày da , tay cầm cây đàn ghi-ta. Họ nhờ tôi dẫn đường và theo sau rồng rắn một bầy trẻ nhỏ vừa trố mắt tò mò vừa trêu chọc nhau chí chóe. Thực sự tôi cũng cảm thấy choáng người khi nhìn vào đôi mắt đen to tròn của cô bé.Rõ ràng là người Việt nhưng khi trò chuyện với nó những người đàn ông lại nói bằng thứ tiếng mà tôi không hiểu.Tôi nhớ đến nàng Bạch tuyết và bảy chú lùn. Đúng thế , giữa cô bé và lũ trẻ làng tôi là một khoảng cách xa vời lắm. ý nghĩ ấy khiến tôi tự nhìn lại mình, thôi rồi , tôi cũng chỉ là một thằng trai ngố, ống chân ống tay đang thò ra dài ngoằng trong bộ quần áo cộc cũn cỡn.
    Mới đến đầu ngõ , bầy chó nhà ông lão Viên đã xồ ra làm tất cả mọi người dồn cục lại. Mặt cô bé tái xanh , chân tay run lẩy bẩy. Tôi hét to:
    - Ông cụ Viên ơi , có khách...
    Phải khá lâu mới thấy chủ nhà bước ra xua bầy chó.
    - Thưa cụ , chúng tôi đem cháu Thư con anh Cả về cho cụ đây.
    Người sang trọng nhất trong ba người đàn ông lên tiếng. Lão Viên rạng rỡ mặt mày , vội bước tới miệng lắp bắp trông thật tội nghiệp.
    - Trời ơi... cháu tôi. Lão dang tay ôm cô bé vào lòng. Cháu của ông đây thật sao.
    - Tên cháu là Thư ông ạ. Bố cháu nhớ ông nội lắm, cho cháu về ở với ông luôn. Đó là câu tiếng Việt đầu tiên tôi nghe được từ cái miệng có đôi môi đỏ thắm của cô bé. Giọng nói của nàng Bạch Tuyết nhà lão Viên trong veo, nghe líu lo như tiếng con chim sáo đang kỳ tập hót...
    Từ nay , lão Viên hết cảnh sống thui thủi một mình và khu vườn càng thêm hấp dẫn...Đêm hôm ấy, tôi nằm mơ thấy mình đi lạc dưới chân núi Cấm. Tôi ngửa mặt lên , ôi chao , một trời ổi chín. Từng đàn chim chào mào sà xuống. Lão Viên mặc bộ đồ lụa tơ tằm óng mượt, râu tóc bạc phơ như ông Tiên, tươi cười vẫy tay mời tôi vào nhà. Cô bé Thư lung linh như bóng nắng ôm đàn ngồi hát dưới gốc khế già ,hoa khế rụng cả lên tóc. Ô hay , sao tiếng hát của Thư lại giống tiếng bầy chim trên vách đá vọng ra đến thế. Tiếng chim... từ đó , mỗi khi lùa trâu lên núi , tiếng chim cứ làm cho tôi bần thần cả người.
    Cuộc sống của ông lão Viên thay đổi từ ngày có Thư. Lão có thể ngồi một mình giữa vườn cây, trò chuyện với những hình nhân chồng bằng đá hộc và đi săn chồn với bầy chó trung thành. Nhưng đứa cháu nội, cô bé Thư cần phải xuống làng đi học , cần phải có bạn bè. Lão dắt Thư đến chào khắp mọi nhà. Đến lúc này mọi người mới biết những năm bôn ba ở nước ngoài, ông lão Viên cũng có vợ con.Vợ ông đã mất từ lâu, người con trai , bố của Thư đang bận bịu làm ăn , hay vì một lý do nào đó không tiện nói ra , đành phải gửi con về cố hương. Thư có tiêu chuẩn học nội trú ngoài Hà Nội nhưng chiến tranh sắp lan ra miền Bắc , nơi sơ tán tốt nhất là về ở với ông.
    Điều khá bất ngờ , ông lão Viên chọn tôi làm người bạn đầu tiên cho cháu mình:
    - Này thằng cu Tộ , ông đã thưa chuyện với mẹ mày , từ nay mày đưa em đi học với nhé. Đứa nào trêu chọc phải bênh em nghe chưa?
    Tôi nhớ mình gật đầu nhận lời nhưng cứ thấy ngượng nghịu vô cùng.Thư chìa tay ra cho tôi:
    - Tên anh ngộ thật đấy. Anh chơi với em nhá. Anh bày em học , em sẽ dạy anh chơi đàn, chịu không?
    Tôi rụt rè nắm lấy bàn tay nhỏ của Thư. Chắc là tôi đỏ mặt nhiều nên mẹ tôi vội đỡ lời ông lão:
    - Thật quý hóa. Thằng cháu nhà con cũng có phận nhờ ông dạy bảo thêm , mau nên người.
    Tôi biết mẹ nói thật lòng. Vì tôi sinh ra nhưng chưa biết mặt cha. Cha tôi đã vĩnh viễn nằm lại nơi chân đồi A1 Điện Biên Phủ.Khi tôi biết đi lẩm chẩm , mẹ bế về gửi cho bà ngoại , rồi lần mò lên tận Tây Bắc xa xôi tìm mộ cha. Những người cùng đơn vị đưa mẹ đi khắp nghĩa trang cho thỏa lòng chứ làm gì có mộ , sau đó , mẹ đành thắp hương trước một cửa hầm vỡ toang hoác rồi trở về cắn răng ở vậy nuôi con. Khốn khổ thay , thấy đàn ông trong làng vác cày ra đồng mặc ngoài chiếc áo bông trấn thủ chần ô qủa trám là mẹ lại tủi thân khóc lặng lẽ. Lâu dần thành bệnh trầm cảm , mẹ héo mòn trong nỗi thương nhớ cha. Hình như mỗi khi nông vụ nhàn rỗi là mẹ lại buồn , đổ trấu vào cối đứng xay thâu đêm...Cũng có những người đàn ông đánh tiếng rắp ranh muốn làm cha dượng của tôi.Người bám dai như đỉa đói là ông Dình chủ nhiệm Hợp tác xã.Ông ta góa vơ, hai người con trai lớn đã đi bộ đội, thỉnh thoảng gửi quà về nên ông có dư quần áo bộ đội mặc quanh năm. Nhìn ông , ai cũng tưởng là sỹ quan hưu trí. Ông làm chủ nhiệm lâu đến mức quên cả cách cầm cày , cầm bừa. Suốt ngày hết họp lại hội ý , hội báo , vẻ mặt rất quan trọng nhưng tay lại luôn thò vào cổ áo gãi sồn sột , làn da mốc kỳ đà vì lười tắm tróc vảy bay lung tung. Ông hay ghé nhà tôi , tỏ ra quan tâm con liệt sỹ, kỳ thực để tán tỉnh mẹ. Mỗi lần ông đặt bàn tay hộ pháp lên bờ vai còn tròn lẳn , mẹ tôi bỗng co người lại, nhìn tôi sợ hãi. Ông Dình cười ha hả. Tôi rất căm ghét người đàn ông này , không dám rời mẹ lấy nửa bước. Có bữa ông Dình phát cáu quát tôi:
    - Ơ... cái thằng Tộ. Mày giữ mẹ mày như là chó giữ xương. Tao có ăn mất mẹ mày đâu , hử?
    Tới kỳ gieo mạ , chim mòng két từ đâu kéo về đông rợp trời.Cả làng lo đuổi chim , lấy rơm bện thành những hình nhân cho mang áo tơi , đội nón , tay cầm sào đem dựng khắp cánh đồng. Ông Dình cố tình chơi ác dựng một hình nhân khoác áo trấn thủ đội mũ nan ngay sau nhà tôi. Vừa nhìn thấy là mẹ tôi trở bệnh. Hình nhân đứng trơ trơ như một người từ cõi hư vô hiện về.Lũ chim không sợ , sà xuống phá tanh bành ruộng mạ. Có con ăn no còn đậu lên vai lên mũ ỉa ra những đám phân trắng lốm đốm. Mẹ nhìn hình nhân ấy , đôi mắt thất thần, đứng chết lặng hằng giờ. Thương mẹ , căm ông Dình , đang đêm tôi lén nhổ hình nhân đem cắm vào lổ nhà xí công cộõng gần trụ sở Ban chủ nhiệm. Suốt mấy ngày , các vị cán bộ họp hành rồi đánh đụng rượu với thịt chó linh đình , không có vị nào dám mở cửa đi đại tiện. Lúc nào cũng có người đang ngồi thu lu bên trong. Ông Dình yếu bụng dạ lại tham ăn , mót qúa mặt nhăn nhó , ôm bụng chạy như bị ma đuổi chui vào bụi rậm. Tôi lấy làm hả hê lắm.
    ... Thư thường ở lại nhà tôi. Mẹ cưng em như con gái mình đẻ ra. Từ câu chuyện của em tôi mới biết có nhiều người Việt tha hương sống ở khắp nơi trên thế giới. Tôi chưa hề ra khỏi làng, hết buổi học lùa trâu lên núi nằm mơ mộng biết bao điều , mong lớn lên để đi đây đi đó. Tôi đã thành người thân nhà ông lão Viên , bầy chó quen hơi quấn quýt quanh chân mừng rỡ. Tôi không hề đụng tay vào một trái chín nào nếu ông lão không mời ăn. Thư dạy tôi đàn ghi -ta.Những ngón tay vụng về chạm vào các sợi dây, âm thanh bập bùng vang lên, người tôi bâng khuâng rất lạ. Thư bảo tôi có khiếu âm nhạc , cố lên để đàn cho em hát. Thư là cô bé mau nước mắt , thường trốn xuống nhà tôi khóc vùi.Mẹ vỗ về dỗ dành còn tôi thì gắt ỏm tỏi.
    - Cháu nhớ bố mẹ lắm. Nhưng ở nhà ông , cháu không dám khóc. Cháu hay hát thật to mới hết buồn. Lạ qúa bác nhỉ , khi hát người ta quên hết nỗi buồn.
    - Đời đàn bà con gái thường là buồn cháu ạ. Mẹ tôi bảo em vậy. Thời nào cũng có sẵn nỗi buồn dành cho phận đàn bà con gái.
    Thư rủ mẹ cùng hát cho vui. Lùa trâu về tôi đứng ngoài bụi tre rình nghe. Thì ra mẹ hát rất hay, chỉ tội mắt mẹ không vui như mắt Thư. Khi hát mắt mẹ nhìn xa xăm lên ngọn núi Cấm lấp ló sau ngọn tre.
    " Lòng em như là chim , hót ca vang lừng
    Lòng em như dòng suối nước trong giữa rừng... "
    Buổi tối sau khi học bài , tôi dẫn Thư lên chân núi trả cho ông lão Viên. Lối mòn vắt qua bãi tha ma , mấp mô gò mả. Thư sợ bám chặt cánh tay tôi. Em thì thào trong hơi thở gấp:
    - Anh Tộ này , có ma không?
    Tôi chẳng phải loại gan góc , không hiểu sao đi bên em thấy mình hùng dũng như tráng sỹ đang liều mình bảo vệ công chúa.
    - Có nhiều loại ma lắm , ma trơi, ma lạc , ma thọt , ma cụt đầu... Mình không sợ thì ma không dám nhát đâu.
    Càng đến gần khu vườn , tôi thường cảm thấy hãi hơn là ngang qua bãi tha ma. Những hình nhân bằng đá trên tường thành hiện lên trên nền trời mờ ảo thành những bóng đen di động mỗi khi có làn gió buốt rượi thổi qua vách núi. Nghe nói ngày xưa nghĩa quân Cần Vương chọn nơi đây làm tiền đồn. Đứng trên những mỏm đá có thể nhìn thấu cánh đồng làng ra tận đường quốc lộ.
    Bữa nào về đến ngõ cũng thấy ông lão Viên chờ sẵn. Dường như ông đứng trên tường thành từ chập tối. Tôi thường giật mình hồi hộp khi nghe ông lão lên tiếng:
    - Hai đứa về muộn thế?
    - Thưa ông , bữa nay nhiều bài tập ạ.
    Thư trả lời giọng hơi run run. Em lén véo vào tay tôi đau điếng rồi bước vào khu vườn tối như mực. Tôi trở về làng đi như trong cõi mộng du.Người rạo rực bao ý nghĩ không đầu không cuối... Thư càng lớn càng xinh đẹp, còn tôi có lẽ không còn là đứa trẻ nữa. Tôi thích đưa em về nhà thật muộn. Ngang qua nghĩa địa , tôi hay cố tình kể chuyện ma cho thật rùng rợn để Thư sợ nép sát vào người mình. Từ thân thể em tỏa ra làn hương ấm dìu dịu làm mặt tôi nóng bừng. Hai đứa đi trong gió heo may mà sao không thấy lạnh... Chao ơi , tuổi thiếu thời trong trẻo , ngọt ngào...
    Chiến tranh ập tới làng tôi tựa cơn lốc dữ. Khu vườn nhà ông lão Viên , một chấm xanh dưới vùng núi toàn màu đá xám trở thành mục tiêu của máy bay Mỹ. Chúng nghi đây là nơi đóng quân trên đường giao liên , bất ngờ ném bom lúc nửa đêm. Sau chuỗi tiếng nổ lộng óc tôi chạy ào lên núi. Vừa chạy vừa hét lên như điên dại:
    - Thư ơi.... Ôõng ơi.... có ai việc gì không...?
    Khu vườn khét lẹt mùi khói bom. Cây cối tan hoang , bầy chó kêu oăng oẳng. Thư chui dưới hầm lên , lem luốc như con mèo dính đầy tro bếp. Em ôm choàng lấy tôi , tôi đưa tay vuốt khắp người em.
    - Em có bị thương không?
    Thư lắc đầu không nói được thành tiếng. Tôi hét gọi:
    - Ông ơi... ông ở đâu...?
    - Cái gì mà ồn ào thế.
    Ông lão đã đứng ngay sau lưng chúng tôi. Ông bình thản phủi áo quần như chưa hề mới vừa thoát chết khỏi trận bom.
    - Hừm , cái quân Mỹ này thật càn rỡ. Thôi nào , thằng Tộ đưa em về dưới làng ngủ với mẹ mày. Để ông ở đây dọn dẹp.
    Tôi thực sự lạ lùng về ông lão. Ông không hề có chút nào tỏ ra sợ hãi , vừa nhặt nhạnh đồ đạc vừa chửi lẩm bẩm một mình. Cây đàn của Thư vỡ nát, em cầm lên khóc tấm tức....
    Chiến tranh cũng đã làm đảo lộn tất cả mọi sự đời. Hằng ngày mẹ ngắm nhìn hai đứa chúng tôi quấn quýt bên nhau bằng đôi mắt chứa chan hy vọng. Tôi thấy mình lớn hẳn và người cứ nôn nao không ngồi yên nghe giảng bài trong lớp được nữa. Thời đó trai làng chỉ có mỗi ước mơ duy nhất là đi bộ đội. Thằng nào không đi lính không phải là người. Thằng nào sợ chết đào ngũ thì bị coi là con quái vật.
    Tôi xa mẹ , chia tay Thư trong một đêm trăng sáng vằng vặc. Ngoài phía đường quốc lộ tiếng đoàn xe chuyển quân vào Nam vọng ì ầm. Cả làng rạo rực không ai ngủ. Thư xin phép ông tiễn tôi ra ngõ , dáng đi khép nép , gương mặt ngời ngợi ánh trăng. Em nhẹ nhàng rút hai bàn tay nhỏ ra khỏi đôi tay vụng về đang run rẩy của tôi.
    - Anh đi... Tiếng Thư nhẹ như gió thoảng.
    - Em đợi chứ? Tôi hỏi khó nhọc , cổ khô khát một nỗi niềm xao xuyến rất lạ.
    Thư chỉ gật đầu , mắt nhìn tôi ngây dại rồi lao tới hôn tôi vội vàng như ánh chớp. Tôi ngơ ngẩn vì sung sướng. Còn em cười , hàm răng tươi rói: " Ôi , anh ngốc qúa.Mắt ông lòa rồi , ông chẳng thấy đâu. Nào... anh hôn em đi ". Tôi cứ đứng nhìn em , lòng bối rối mơ hồ nghĩ tới những ngày xa em đã bắt đầu. Mười bảy tuổi , tôi lên đường ra trận. Hành trang quý gía nhất mang theo là hương vị một nụ hôn của người yêu bé bỏng đang đợi chờ nơi chân núi quê nhà...
    Cùng lứa ra trận với tôi chỉ còn lại vài người trở về làng , rất nhiều người đã nằm xuống trên các chiến trường. Tôi về được là do may mắn , do số phận thôi. Chiến tranh mà...
    Tôi ôm mẹ mà vẫn ngỡ trong mơ. Mẹ cũng vậy , bao đêm thao thức mong tin và khóc thầm vì lo nên mắt đã mờ dần. Ông lão Viên đã mất. Khu vườn tan hoang , trâu bò vào phá nát. Vòng tường thành sụt lở lố nhố hình nhân bằng đá hộc đứng trơ trọi. Thư đã đi xa... Em được đón ra Hà Nội học trường nội trú. Người làng nói , bố mẹ Thư là cơ sở mật khoác áo tư sản hoạt động ở nước ngoài nên việc đưa Thư về nước là đề phòng bất trắc. Mẹ lấy trong bọc ra mấy lá thư đã cũ , thở dài nói với tôi mà như nói một mình:
    - Không biết nó còn đợi con không. Con gái có lứa có thì...
    Đọc thư , tôi biết em rất thương mẹ , luôn nhớ đến tôi. Lòng xốn xang vô kể , tôi xin phép mẹ đi tìm Thư. Mẹ lo lắng có ý cản:
    - Con sắp hết phép. Làm sao kịp về đơn vị?
    - Gặp Thư xong là con vào Nam luôn. Hòa bình rồi mẹ đừng lo cho con nữa , chiến tranh không chết , bây giờ mẹ đừng buồn nữa.
    Dường như mẹ tôi đứng ngồi không yên:
    - ở làng con gái ê hề ra đấy. Con đi tìm nơi bóng chim tăm cá biết có gặp không. Hay mẹ nhắm cho một đám ở làng chắc ăn con ạ.
    Tôi cười thật to cố át lời mẹ.
    Trường Thư học đã giải thể sau khi miền Nam được giải phóng. Hầu hết học sinh lại được ưu tiên gửi ra nước ngoài học đại học. Trên đường trở lại đơn vị nỗi thất vọng trong lòng tôi càng lớn dần. Hết chiến tranh rồi , không lẽ anh và em không còn có cơ hội gặp nhau.
    Chuyện tình yêu bỗng hóa ngày xưa... Mười năm sau , tôi vẫn là anh chàng độc thân cằn cỗi giữa cuộc đời ô trọc. Mẹ đã mất , tôi chẳng tha thiết với những lần về phép thăm quê nhưng đêm đêm khu vườn có những hình nhân bằng đá hộc vẫn hiện lên trong mơ. Tôi thấy mình và Thư đang chơi trò ú tim , gương mặt em lấp ló mờ tỏ sau tường thành.Tôi thấy mẹ và cha vẫy gọi. Cha khoác ngoài chiếc áo trấn thủ chần ô qủa trám đang băng qua thửa ruộng mạ sau nhà , chim mòng két bay lên , cánh vỗ chấp chới...
    ở cơ quan nơi tôi làm việc , cánh đàn ông thường bảo tôi là người ngoài hành tinh , cánh phụ nữ thường xúm vào trêu chọc khuyên mau lấy vợ kẻo ngày càng hấp nặng. Tôi chỉ cười , hơi đâu mà bịt miệng thiên hạ. Tôi tự bằng lòng làm một anh công chức mẫn cán dù cuộc đời thật là tẻ nhạt.
    Thế mà ông Trời vẫn run rủi cho tôi gặp lại Thư. Chẳng biết là nên vui hay buồn , cứ thấy kinh khủng vì nếu nhìn mặt em chắc tôi không còn là tôi nữa. Thư gửi cho tôi tấm danh thiếp ghi mấy dòng ở phía sau: " Chúng em từ nước ngoài về , hiện định cư tại thành phố.Rất mong được đón mừng anh đến chơi" Tôi chẳng nhớ mình đến nhà em bằng cách nào. Hai vợ chồng tiếp tôi trân trọng như một người thân thiết. Chồng Thư là một người đàn ông từng trải và thành đạt. Anh lịch thiệp xin lỗi bận công việc để chúng tôi ngồi trò chuyện riêng bên nhau. Bao nhiêu năm xa cách đáng lẽ có rất nhiều điều để nói nhưng cả hai cũng chẳng biết nói với nhau điều gì. Tôi cố trấn tĩnh xin phép ra về , gương mặt Thư nhợt nhạt vì xúc động.
    - Anh Tộ à , đến bây giờ em vẫn không hiểu nổi , tại sao mẹ lại báo tin cho em là anh đã hy sinh. Thư nói trong nước mắt.
    Tôi ngạc nhiên bàng hoàng:
    - Mẹ tôi? Mẹ tôi báo tin là tôi đã hy sinh?
    - Vâng... Thư bồi hồi mở chiếc hộp cẩn xà cừ , bên trong đựng một bộ quân phục vải Tô Châu còn mới , màu xanh biếc. Tôi nhận ra món qùa mình gửi về nhờ mẹ biếu ông lão Viên nhưng không kịp vì ông đã mất. Mẹ gửi kèm cho em lá thư này. Lá thư định mệnh làm thay đổi cuộc đời em. Xin được trao lại cho anh...
    Rời quân ngũ đã lâu , bộ quân phục thời trai trẻ tôi vẫn giữ gìn như báu vật. Còn bức thư của mẹ tôi đốt đi rồi. Vì mỗi lần đọc tôi sợ mình bật khóc.
    " Thư ơi , cháu hãy yên lòng lo cho hạnh phúc của mình. Người ra trận xưa nay không về cũng là chuyện thường tình. Bác đã từng một đời dang dở. Chắc cháu hiểu lòng bác... "
    Mẹ ơi , Thư đã có cuộc sống như ý nguyện của mẹ. Con trân trọng tình thương bao la của mẹ. Mẹ đã đau đớn biết nhường nào khi viết những dòng chữ ấy. Chiến tranh mà...
    Thư ơi... Mong em hiểu cho lòng mẹ. Mẹ không muốn số phận dành cho em giống mẹ. Chiến tranh mà...
    

Kết Thúc (END)
Nguyễn Đức Thọ
» Người Ở Miệt Vườn
» Người Của Ngày Xưa
» Hồi Ức Làng Che
» Mùa Trái Cây
» Cây Sầu Riêng Tứ Thời
» Bóng Dáng Người Yêu Nhau
» Người Của Người
» Dấu Chân Tiên
» Nhị Độ Mai
» Người Cùng Làng
» Đền Thờ Nước Mắt
» Nỗi Buồn Giao Chi
» Người Trong Cổ Tích
» Ốc Mượn Hồn
» Thung Lũng Xưa
Những Truyện Ngắn Khác
» Chữ Người Tử Tù
» Quán Chú Mùi
» Đau Gì Như Thể ....
» Làm Mẹ
» Bố Chồng
» Chén Trà Trong Sương Sớm
» Đời Như Ý
» Trên Đỉnh Non Tản
» Người Dưng Làm Má