Khi Walter Coolidge Swift thức dậy trong căn phòng của anh tại Adams House anh có thể nhận ra ngay, qua vẻ âm u của buổi sáng, rằng tuyết đang rơi, hoặc sắp rơi. Trở mình trên giường, anh thấy trên bờ tường đầy bồ hóng của sân trong những bông tuyết to đang trượt xuống, ngoài cửa sổ, rải rác, yên bình và thong thả, và lập tức một cảm giác thoải mái, hưởng thụ trùm lên anh. Anh mỉm cười, đan hai bàn tay sau gáy, lim dim và hồi tưởng lại những chuyện đã qua. Thật kỳ cục, nó luôn xảy ra theo kiểu đó, dĩ nhiên không phải chuyện tuyết rơi, mà là cái kiểu chính tâm trạng này dấy lên trong anh mỗi lần anh từ New Hamsphire đến chơi ở Adams House, một năm hai lần. Vào buổi sáng, mỗi lần thức dậy anh đều bắt đầu nghĩ ngay về những ngày xa xưa đẹp đẽ khi còn sống ở Boston – về những quán rượu anh thích – quán Frank Locke, Holland House, quán Jacot, Nip, Bell-in-Hand – về những nhà hát, những màn trình diễn thóat y, những trận quyền Anh, những trận bóng chày – và sau đó cuối cùng, lúc nào cũng vậy, anh sẽ nghĩ, và hầu hết, về Eunice. Tại sao điều này không bao giờ xảy ra với anh lúc ở nhà? Anh cho rằng chắc do lúc nào anh cũng bận rộn – bận rộn ở văn phòng, bận rộn với vợ anh, Daisy, và bọn trẻ, bận rộn ở Câu lạc bộ. Không có chút thời gian nào cho hồi ức tình cảm. Với lại, anh thực sự đã an cư lạc nghiệp khi họ chuyển đến Nashua – tất cả cuộc sống vui nhộn đó đã dừng lại bất ngờ như thể bị cắt gọn bởi một nhát dao. Không có các nhà hát để bàn bạc, không có quán rượu nào cả, và cũng không có bạn bè thân tình, anh nhận ra mình không còn động cơ để sống phóng đãng, và trong chớp mắt toàn bộ lối sống của anh đã thay đổi.
Thật tự nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa – thật tự nhiên; nhưng khi anh đến Boston, để suy nghĩ một cách hài lòng về đời sống khác đó, cách nay tám năm, và tất cả những lạc thú của nó thì cũng tự nhiên như thế. Đám người quen cũ đã đi. Khó mà còn lại một ai đó anh từng quen biết, hay rất muốn gặp: thậm chí những tờ báo cũng thay đổi. Và tòa soạn tờ Record xưa, ngôi nhà bừa bãi xiêu vẹo đó, nơi anh đã tiêu biết bao nhiêu giờ rảnh, và giúp Mike lúc nửa đêm viết nốt những bài phê bình ca kịch nóng hổi của anh ta – nó cũng đã biến mất, cùng với tất cả đàn ông và đàn bà mà anh từng biết ở đó. Cô gái da đen trực thang máy với mái tóc đỏ – Bill Farley, phóng viên thể thao, người đã phát vào mông cô gái nhà Follies trong hành lang Lenox, người sau đó đã chết vì lao phổi – Virgin Queen, với bộ ngực khổng lồ, người biên tập trang gia đình – bọn họ giờ ở đâu? Đâu rồi Mary bé nhỏ cứng cỏi, người đã hàng đêm vẫn đi lôi anh chồng Hal ra khỏi rãnh nước bên cạnh quán Frank Locke, và làm thêm công việc của anh ta ngoài công việc của riêng mình? Những người dễ thương, những người dễ thương ấy, và có lẽ đã chết hết cả … và trên hết, Eunice đâu rồi?
Anh vẫn cảm thấy kỳ cục rằng anh đã nỗ lực quá ít trong việc giữ liên lạc với cô ấy. Dĩ nhiên anh đã yêu Daisy, và sau đó anh đã chuyển đi – nhưng thậm chí như thế, nó đã chứng tỏ thói kém lo xa, và sự hiểu biết ít ỏi về bản chất con người hoặc bản chất của chính anh. Lẽ ra anh phải biết rằng sau cùng sẽ có lúc anh muốn gặp lại cô ấy – cho dù anh lúc đó hẳn không biết rằng mình đã yêu cô khá đậm rồi. Đó có lẽ là điều kỳ lạ nhất: rằng anh có thể đã sống với cô trong ba năm mà không nhận ra chiều sâu và nét đẹp của cảm xúc mà họ dành cho nhau. Theo cách nào đó, chuyện của họ có vẻ đơn thuần là vui nhộn, và tốt đẹp nữa; chất của nó là một chất vô tư; những buổi tối đến rồi đi như bao trò giải trí đơn thuần. Anh thấy dường như lúc nào họ cũng cười đùa – phải, ngay từ lúc bắt đầu, từ phút đầu tiên gặp mặt, trong xe điện ngầm Park Street, khi vội vàng vói lên dây đai, bàn tay anh đã tình cờ chộp và nắm gọn tay cô. Điều đó khiến cô bật cười – anh đã nghe cô cười trước khi nghe cô nói. Cô không rút tay khỏi dây đai mà cô đã nắm trước anh – mà cô chỉ quay lại và bật cười, ngước nhìn anh với vẻ thú vị vì ngạc nhiên. Và rồi, trước khi anh kịp lấy lại bình tĩnh, cô đã nói, “Chúa ơi…! Anh làm tôi giật cả mình.” Bây giờ anh vẫn nhớ được một cách sống động, cô đã đỏ mặt như thế nào, và với sự can đảm to lớn cỡ nào anh mới để yên được bàn tay mình ở đó.
… Và sau đó họ đã đi – đó là đâu nhỉ? – tới một nhà hàng Hoa kiều bẩn thỉu, để uống trà. Và sau đó dùng bữa với nhau, ở Avery. Cô đã giải thích việc đó xảy ra thế nào – cô sẽ không bao giờ làm một chuyện như thế nếu như cô không lỡ uống tới ba ly cốc tai lúc bữa trưa. Không bao giờ. Và dĩ nhiên, họ không nên gặp lại nhau – cô có thể đi bộ với anh dọc khu Esplanade, anh có thể tiễn cô tới tận cửa nhà cô ở đường Newbury, nơi cô sống trong một cư xá cho các y tá, và tới đó là chấm hết. Kết thúc! Nhưng nó đã là khởi đầu cho ba năm hạnh phúc nhất đời anh, và có lẽ của đời cô nữa. Họ đi tà tà và tranh luận dọc khu Esplanade, đó là một đêm tháng Sáu ngát hương – hết ngồi trên băng ghế đá này rồi đến băng ghế khác, vì anh đã thuyết phục cô hãy khoan lại một tí, và mãi đến nửa đêm họ mới về đến cửa nhà cô. Chuyện vớ vẩn ở đâu mà họ nói được hàng lô hàng lốc như thế! Và bây giờ anh không nhớ lại được một lời nào trong buổi tối đó – không một chữ nào cả. Không có gì ngoài giọng nói của cô, tiếng cười của cô.
Nhưng buổi chiều kế đó – a, đó là một vấn đề khác. Trong căn phòng nhỏ xíu có cửa sở vòm trông buồn cười tại cư xá y tá đó, ngồi cạnh nhau trên chiếc ghế xô pha bọc vải thô cứng ngắc, trong khi bên ngoài cửa sổ mở toang người làm vườn đang tỉa dây thường xuân. Tay làm vườn đó là người bạn tốt nhất của họ. Sự hiện diện liên tục của anh ta tại các cửa sổ đó – di chuyển từ cửa sổ này đến cửa sổ kia, chậm chạp điều chỉnh cái thang của anh ta sang vị trí mới, trịnh trọng trèo, trịnh trọng tỉa, và dĩ nhiên thỉnh thoảng lại nhìn vào phòng – việc này đã hoạt động như một bộ phận kiềm chế tuyệt vời đối với cả hai. Ngay vào lúc họ rất muốn nói chuyện, để thăm dò tư tưởng lẫn nhau, họ buộc phải trở nên rụt rè, và nói chuyện gióng một, và nhìn chằm chằm. Và Chúa ơi, họ đã nhìn chằm chằm làm sao! Họ nhìn chằm chằm và mỉm cười, và mỉm cười và nhìn chằm chằm và chờ đợi – và việc chờ đợi đã làm cho nó trở thành điều không thể tránh được nữa. Tay làm vườn sẽ xong việc sớm hay không? Sớm cỡ nào? Khi nào anh ta không nhìn vào, họ nhăn mặt rủa thầm anh ta; nhưng anh ta hẳn còn ở đó cả giờ đồng hồ nữa. Trời sắp hoàng hôn – ánh sáng thấp, dịu và rực rỡ, và anh nhớ cái kiểu nó cho anh thấy lần đầu tiên vẻ đẹp của mái tóc cô, màu hạt dẻ đậm có ánh đồng. Nhưng khi người làm vườn đã thực sự đi, và tiếng kéo tỉa đã lặng, và cuối cùng đã đến lúc họ có thể nói chuyện – và thật là kỳ, họ chẳng còn muốn nói gì nữa – họ chỉ muốn hôn. Và thế là họ đã hôn. Và lập tức Boston bừng lên một đường cầu vòng, và thế giới đã thay đổi.
Nhưng bây giờ, khi anh cố gợi lại những thời điểm cụ thể – những ngày – những giờ – những tuần – thật kinh ngạc là việc nắm bắt bất kỳ chi tiết, bất cứ ngôn từ, hoặc cử chỉ, hoặc sự kiện nào lại khó khăn vậy. Họ đã ăn tối với nhau quá thường, trong giai đọan đầu đó, cũng ở những khách sạn đó, đến nỗi tất cả những bữa tối ngon lành đó bây giờ có vẻ giống y hệt nhau, với cùng những ban nhạc, cùng thứ rượu Benedictine và cà phê (cô đã khẳng định rằng Benedictine làm người ta nồng nhiệt, và đã thú nhận thứ này làm cô cười rúc rích) cùng những cô gái lòe lọet đang hát “M-i-s-s-i-s-s-i-p-p-i.” Những lần họ gặp nhau trong hành lang có vẻ luôn luôn là giống nhau, vào cùng một giờ, cạnh đúng cây cọ đó hoặc cái ống nhổ bằng đồng thau đó. Dần dần cuộc phiêu lưu mới này đã thay đổi từ tình trạng chưa biết thành đã biết, đã trở thành một nghi thức ngọt ngào, một sự phức tạp phong phú và mới mẻ của các thói quen. Anh ngày càng ít chơi tối với Mike và Bill, đã rời bỏ thói quen đi xem những trận bóng chày và những trận đấu quyền Anh, và thay vào đó đã để cho cuộc sống của anh hoàn toàn chìm vào mối quan tâm của anh dành cho Eunice. Ba tháng đầu tiên đã có một nét hấp dẫn đặc biệt – trước khi họ bắt đầu sống với nhau, và khi đó vẫn có một yếu tố bí ẩn. Ví dụ như cái cư xá y tá kỳ cục đó – bà già nhỏ bé tội nghiệp quản lý cư xá, bà Burgess, quê ở New Bedford – và các y tá, cô McKittrick, cô Lamb, và cô Orr bạn chung phòng của Eunice – đột nhiên anh cảm thấy nó có vẻ là một cuộc phiêu lưu kỳ quặc làm sao, bị đẩy vào một môi trường quá xa lạ với anh, nhưng tự nó lại quá hoàn thiện! Và từ từ, khi hết tối này qua tối khác họ dùng bữa với nhau và sau đó trở về căn phòng khách nhỏ xíu có cửa sổ vòm, luôn luôn với câu chào phải phép cho bà Burgess, chính anh đã có được cuộc sống ngăn nắp và lặng lẽ bình yên như cuộc sống của một nữ tu, nhưng không phải lúc nào cũng đạo đức như thế. Eunice thích chuyện ngồi lê đôi mách về các y tá bạn bè cô. Luôn có một đợt chuyện tai tiếng nho nhỏ nào đó sắp xảy ra, và anh mỉm cười khi nhớ lại vẻ tinh nghịch thích thú khi cô mào đầu câu chuyện về nó. Cô sẽ đặt khăn tay lên miệng cô và giữ nó ở đó như thể để kiềm nén tiếng cười nhỏ không thể nén được, và sau đó đỏ mặt. Và câu chuyện sẽ tuôn ra. Ví dụ đó là cuộc xâm nhập ban đêm của bọn con trai “Trường kỹ thuật” ở bên cạnh – tòa nhà kế bên là ký túc xá riêng dành cho những sinh viên kỹ thuật. Hai tòa nhà hoàn toàn giống nhau, và ở phía sau mỗi tòa nhà, tại tầng ba, có chìa ra một tấm mái bằng phẳng trên đó vào những tối mùa hè mà ngồi đó và hút thuốc thì thật thú vị: chỉ cần bước ra ngoài từ cửa sổ phòng cô McKittrick. Hai mái nhà được tách ra chỉ bằng một bức tường gạch thấp , và một tối nọ khi cô McKittrick và cô Lamb ngồi ở đó trên những chiếc nệm, trong những bộ kimono của họ, bất ngờ hai khuôn mặt trẻ lấc cấc ló lên đầu tường. Điều này đã dẫn đến một lọat những bữa tiệc rượu gin lúc thì ở bên này tường lúc ở bên kia mà không biết tại sao bà Burgess không bao giờ phát hiện ra. Thực ra là hai tên đó đã một lần bước vào phòng ngủ, và cô McKittrick chỉ kịp xua hኍ đi trước khi Bác sĩ đến…
Bác sĩ là hôn phu của cô McKittrick – hoặc cô ta đã nói thế. Cô ta đã bắt đầu bằng việc là người “đặc biệt” của ông ta – ông ta luôn gọi cô trong những ca đặc biệt. Sau đó họ làm một chuyến du lịch bằng mô tô với nhau, và một chuyến nữa, và các y tá hiểu rõ chuyện gì sắp xảy ra, và đã ghen tỵ với cô ta. Ông ta tặng cô ta một chiếc áo choàng da hải cẩu, và một Pierce-Arrow. Chuyện cứ như thế được hai năm và sau đó cô ta biết ra rằng ông ta sắp cưới một người khác, và đã bị suy nhược thần kinh. Cô ta đã đe dọa ông ta bằng một vụ kiện không giữ lời hứa, nhưng đã bị thuyết phục đừng tiến hành chuyện đó; thay vào đó cô ta nhận từ ông ta những trái phiếu tự do trị giá 10,000 đô la, một hành động mà Eunice phản đối gay gắt. Cô, cũng như những người khác, luôn ngưỡng mộ vị Bác sĩ này, người được coi như là một trong những nhà phẫu thuật giỏi nhất Boston. Và bọn họ thẩy đều nghĩ ông ta rất hào hiệp.
Rồi đến Orr, cô bạn cùng phòng độc thân kỳ lạ của Eunice, người đã đọc Keats và Shelley, nhưng đã đều đặn phát triển một nỗi đam mê những cuốn sách “tục tĩu” – có những lúc, trong ba hay bốn ngày liền, cô ta chẳng làm gì ngoài uống rượu gin, và đọc suốt đêm. Một hai lần Eunice đã làm thay ca cho cô ta. Về phía Eunice, thoạt tiên anh không thể hiểu cô coi trọng nghề nghiệp của cô như thế nào. Cô có một thu nhập nho nhỏ của riêng cô, có vẻ, và cô nhận các ca bệnh ở mức chỉ để khỏi thấy chán, và sau đó, nếu có thể, chỉ nhận những ca vào ban ngày, dù thỉnh thoảng có những ngoại lệ. Có một hai lần cô đóng vai trò người bạn-y tá cho một lão già giàu có sáu mươi lăm tuổi, người đã đưa cô đến Hot Springs một hai tháng trong mùa đông. Cô khẳng định mình đã biết ông ta trong một thời gian dài. Có lẽ đúng vậy – vì chắc chắn Eunice là người phụ nữ trung thực nhất anh từng gặp; nhưng vào lúc này điều đó khiến anh hơi ghen, và có chút nghi ngờ. Có thể nào không…? Không, điều đó là không thể. Cô đã thích lão già đó, thích cả chị lão nữa, lão đã trả lương cho cô hậu hĩ, và dĩ nhiên điều đó cho cô một dịp thay đổi không khí.
Trong bối cảnh này, vốn chứa đựng quá nhiều điều xa lạ và kích thích đối với trí tưởng tượng, mà quan hệ thân mật của họ phát triển. Họ đã đồng ý rằng họ sẽ không sa vào tình yêu, không cưới hỏi, mà cũng không làm bất cứ điều gì ngu ngốc như thế – họ sẽ chỉ có một thời gian thoải mái, và trở nên rất yêu thích nhau. Dù sao thì Eunice không muốn cưới, và chính anh lại quá nghèo đến độ không thể cưới, và lúc đó không có những viễn cảnh sáng sủa. Chẳng lẽ anh đã đánh giá thấp triển vọng của mình? – Phải, có lẽ vậy. Tại sao? Nó là một phần sự hiểu lầm của anh về toàn bộ tình huống, một thất bại trong việc đo lường những tình cảm của anh dành cho Eunice ở giá trị thực của chúng. Họ đã có một mối tình say đắm và nhẹ nhàng, nếu Eunice cho phép nó trở nên như thế, và để cho nó đi theo chiều hướng đó. Nhưng liệu Eunice có cho phép vậy không? Anh nhớ lại cả một tháng đầy ngờ vực, và thực sự gần như tuyệt vọng, về chuyện đó, khi mùa thu đầu tiên đến – một giai đọan khi anh bắt đầu uống rượu khá nhiều, cảm thấy rằng sự căng thẳng đã trở nên quá lớn. Trong một tuần anh đã tránh mặt Eunice, thậm chí không gọi điện cho cô. Rồi bất ngờ, khi anh đột ngột đến thăm cô vào một tối nọ, sau khi ăn ở câu lạc bộ, cô đã khiến anh kinh ngạc bằng cách mời anh lên phòng cô. Trước đây cô chưa từng nói với anh là cô được phép làm điều này, hiển nhiên sự kiện mà cô không cho anh biết về sự cho phép chính thức này đơn giản là một phần trong sự phòng thủ của cô. Và sau đó, dĩ nhiên – ôi, Chúa ơi. Sung sướng biết bao, cuồng nhiệt biết bao!
Và tất cả, cũng trong một căn phòng không thể khóa lại được! Chìa khóa đã mất. Luôn luôn có nguy cơ, nguy cơ xa xôi, rằng một trong các y tá khác có thể bất ngờ bước vào, hay bà Burgess – ai đó mà cô không thể báo cho họ biết trước. Thực tế thì chuyện này đã xảy ra một lần. Cô McKittrick, bữa đó đi chơi suốt ngày, và về phòng muộn, đã xông vào trong khi họ đang ở trên trường kỷ với nhau. Chuyện đó hết sức buồn cười – anh giật mình ngồi thẳng dậy và cố giấu đôi chân không giày dưới gầm trường kỷ. Lập tức họ cố tạo ra vẻ hết sức đứng đắn và vô tội, nhưng không thành công lắm. Họ có thể thấy điều đó qua vẻ giễu cợt trong đôi mắt của cô McKittrick, và nụ cười lịch sự nhưng thích thú khi cô ta lẹ làng lẩn vào trong. Và thật kỳ cục, Eunice có vẻ như vui thích lắm trước sự kiện đó. Có lẽ cô đã cảm thấy – phải, có lẽ sau cùng cô đã cảm thấy được một sự bình đẳng với những người khác. Không phải với cô Orr, người chưa từng có một tình nhân, do quá bẽn lẽn, mà với những người khác. Vâng, đó hẳn là vậy. Hẳn là vậy. Bây giờ cô biết rằng cô McKitrick sẽ kể với người khác, và tất cả bọn họ sẽ nhìn cô với một ánh mắt mới. Bây giờ cô đã gia nhập giới nữ tu một cách sốt sắng.
Mùa đông đầu tiên đó là mùa đông đẹp nhất. Bây giờ khi anh nhìn lại, nó có vẻ là một chuỗi cười dài điên lọan. Vì lý do nào đó, anh đã có thể chọc cười Eunice như chưa từng chọc cười bất kỳ ai. Tại sao vậy? Những điều đơn giản nhất kể cho cô nghe – cái thói hay quên đủ thứ của anh, sự ngu ngốc về mặt xã hội của anh, sự ngại ngùng trước điện thoại của anh, sự vụng về trong việc làm tình của anh, với cô và với những người trước cô (về những người này mà anh có thể hoàn toàn thẳng thắn với cô) –có vẻ như cô đã tìm thấy điều thú vị vô tận qua tất cả những điều này. Chắc chắn, một phần bởi vì ngay từ đầu anh đã có thể nói chuyện với cô quá dễ dàng, quá thoải mái. Cô đã đưa anh vào một thế giới mới, một thế giới ít câu nệ hơn thế giới của riêng anh, tự do hơn, tươi sáng hơn, và trung thực hơn. Lần đầu anh đã có thể rũ bỏ tất cả kiểu rụt rè ngớ ngẩn của dân Thanh giáo mà anh đã sinh ra trong đó và trải nghiệm được một niềm vui thành thật trong sự trung thực hoàn toàn. Lần đầu tiên khoái cảm và thậm chí sự dâm đãng chiếm được một vị trí trong thế giới này; và là một vị trí danh giá; và với khám phá của anh về điều này đã dẫn đến một ý thức lạ thường về sức mạnh và sự hợp nhất ngày càng tăng. Anh thấy cực kỳ hạnh phúc. Anh như cao thêm được ba tấc. Giữa đám bạn bè, anh cảm thấy một sự trung thực và trong sáng mà nó lập tức tạo cho anh một lợi thế to lớn; họ cũng đã cảm thấy điều đó mà hoàn toàn không biết tại sao… Nhưng tại sao anh có thể nói chuyện một cách tự do thoải mái như vậy với Eunice? Tự do hơn nhiều so với việc nói chuyện Daisy chẳng hạn?
Một phần có lẽ bởi vì anh cảm thấy mình vượt trội hơn cô về trí tuệ và xã hội; dù Chúa biết anh ít coi trọng cả hai thứ này. Dù sao đi nữa, nó có thể là như thế. Anh có thể thư giãn, với cô, chứ không với ai khác. Cô cũng luôn luôn thấy vui khi gặp anh, hớn hở được chọc cười; cô không bao giờ trách móc anh nếu như anh vắng mặt lâu hơn thường lệ, không chất vấn sao anh không đến sớm hơn, hoặc anh đã ở đâu; không bao giờ viết thư cho anh, hay gọi điện cho anh; cô chỉ chờ anh xuất hiện lại; và khi cuối cùng anh gọi Back Bay 21307 là lập tức đáp lại vui vẻ như mọi lần. “Hello?” “Hello!” “Đó có phải là bà Charles hai không?” “Ồ, không, chắc anh lộn số rồi. Đây không có ai anh quen biết cả.” “Ồ, vậy sao!” “Ồ, giọng anh nghe quen quá…” và sau đó là tiếng cười khẽ, bị bịt trong chiếc khăn tay nhỏ, và mười lăm phút sau cô sẽ đón anh ngay cửa, và họ sẽ trèo lên những bậc thang trải thảm đã mòn rách đến căn phòng ở tầng ba. Và ở đó chiếc bàn gỗ sồi màu nhạt, bức tranh sơn dầu vẽ cảnh hoàng hôn trên sông, tủ quần áo trong đó chai rượu gin nằm giữa những chiếc hộp đựng mũ trên kệ, chiếc giường thấp có trải chiếc khăn in họa tiết hình cánh hoa và một tấm lịch trang trí trên tường ngay đó, và chiếc giường của cô Orr phía đối diện, được đẩy sát tấm màn cạnh lò sưởi, và con khỉ đồ chơi treo tòn teng dưới giá đỡ bình gas và những chiếc ghế bọc nệm xấu xí – những thứ này vẫn là một phần thực sự đáng ngạc nhiên trong cuộc đời anh. Anh đã từng hạnh phúc, trong căn phòng đó – hạnh phúc hơn bao giờ hết. Giá mà anh đã biết đủ để hiểu được điều đó! Nhưng làm sao anh có thể đoán được rằng chuyện ngồi đó với Eunice, lắng nghe cô McKittrick và cô Orr nói chuyện và cười đùa nghịch ngợm ở phòng kế bên, sau cùng sẽ đáng nhớ như một điều bền vững và đáng yêu cực kỳ? Giá mà bây giờ anh có thể tìm lại được những giọng nói đó, hoặc, những buổi nói chuyện đó với Eunice! Ba năm như thế, và tất cả những gì anh có thể nhớ lại là hình ảnh căn phòng, những chiếc ghế, tấm lịch, và quang cảnh nhìn từ cửa sổ về phía nhà thờ về đêm với ánh đèn hắt trên tuyết, con đường đi dạo từ câu lạc bộ qua bùn tuyết lúc tám giờ, việc chia tay vào đúng mười giờ mười lăm, khi tất cả khách khứa đều bị kiên quyết mời ra về. Đôi khi, lúc thời tiết tốt, Eunice sẽ đi bộ cùng anh tới tận mé sông, và họ ngồi trên Eslanade, nhìn những chuyến xe lửa sáng đèn chạy qua cầu giống như đàn đom đóm lốm đốm. Vào những lúc khác, khi họ đi ăn tiệm, và có lẽ khi cô Orr ốm, họ không thể trở về phòng cô, nên họ kề cà trong bữa tối cho đến khuya, và có lẽ hơi say, và sau đó lang thang dọc đại lộ Commonwealth tới các công viên. Và một lần, khi cả hai quá say – nhưng quả là một cảnh tượng! Quả là một cảnh tượng! Họ đã rón rén đi theo ngõ hẻm hẹp phía sau đường Newbury và vào cái sân nhỏ đàng sau nhà, và ở đó dưới tán cây vu anh đã để mình trôi vào một cơn mê đắm mà trước đây hoặc cho đến bây giờ anh chưa từng biết tới. Trăng tròn trên đầu họ, có ánh đèn trong phòng cô McKittrick , bất cứ lúc nào cũng có thế có ai đó nhìn ra và thấy hoặc nghe tiếng họ. Và sau đó trên đại lộ Commonwealth, nơi các khán đài uyệt binh vừa được dựng lên cho cuộc duyệt binh Liberty Parade – anh đã rên lên vì sướng khi anh nghĩ về nó. Đó là cơn mê cuồng trọn vẹn. Không một người nào ở đó – đã quá nửa đêm. Ánh đèn xanh xao xuyên qua những tán lá cây du, khán đài duyệt binh vắng hoe che họ ở hai bên… Và sau đó tiếng thì thầm chúc ngủ ngon ngay trước cửa, và anh đi bộ đến Waldorf để mua bánh bột ngô nướng và kem và cà phê, và đến Fenway để về nhà và đi ngủ…
Anh lại rút mình khỏi quá khứ để trở về căn phòng của mình ở Adams House, anh nhìn những bông tuyết to rơi nặng nề và chầm chậm dọc trên bức tường đầy bồ hóng ngoài cửa sổ. Hẳn phải hơn tám giờ. Nhưng quá khứ lại quá ngọt ngào, quá mạnh mẽ đối với anh, và anh lại lao vào dòng hồi tưởng của mình. Quá khứ là một điều huyễn hoặc làm sao, và theo cách nào đó, đau đớn biết bao! Ở đây một người có thể nằm dài trong một buổi sáng mùa đông, trong Adams House, và hồi tưởng một Mùa xuân cách nay đã lâu; nhìn ra một cửa sổ khách sạn, và đồng thời nghĩ về một người tình có lẽ đã … chết. Nhưng lẽ nào cô đã chết? Không. Cách nay chỉ mới hai năm từ khi anh khám phá ra, một cách hết sức tình cờ, nơi cô sống, và biết cô đã lấy chồng – chỉ mới hai năm từ khi anh viết cho cô lá thư hết sức thận trọng, ký tên Ethel Swift, xin cô gặp anh; cô đã trả lời, trên một tấm bưu thiếp, với một chữ duy nhất , “Không!” Phải, cô hoàn toàn đúng, hoàn toàn đúng. Biết đâu cô có một ông chồng cả ghen? Biết đâu chồng cô đã, chẳng hạn, nghi ngờ về quá khứ của cô? Và chắc chắn ông ta đã nghi ngờ; cách nay nhiều năm Eunice đã nói về ông ta, thậm chí cô đã, thỉnh thoảng, đi bơi thuyền với ông ta ở Gloucester. Tompkins – Thorwald Tompkins. Cái tên kỳ cục. Tại sao là Thorwald? Dòng máu Na Uy đâu đó, có lẽ. Và dĩ nhiên Tompkins đã biết về anh, như anh đã biết về Tompkins. Anh nhớ lại lần đó, khi gọi điện cho cô từ trạm điện thoại của thư viện công cộng, anh đã, do sự tình cờ kỳ quặc, được nối với tổng đài điện thoại phố Newbury trong khi Eunice đang nói chuyện với Tompkins. Nó đã khiến anh hơi giật mình, khi nghe cô bật cười trước những lời nói đùa của một người đàn ông khác, tự nhiên và cười đùa với ông ta, cư xử với ông ta như thể một người bạn thân! Và để nghe Tompkins đáng thương nài nỉ, nài nỉ cô gặp ông ta tối đó để khiêu vũ, và Eunice né tránh một cách khéo léo, vì cô rất mong anh ghé thăm – điều đó làm anh an tâm và ngăn anh không ghen một cách dữ dội. Mười phút sau Eunice đã cười thế nào khi anh kể vanh vách toàn bộ cuộc điện đàm đó cho cô nghe, đúng nguyên văn! Cô đã nghĩ anh là một tên phù thủy, một thầy đồng gọi hồn, một thứ ma quỷ. Anh đã trêu chọc cô suốt buổi tối đó về chuyện đó. Và rõ ràng là cô rất vui khi gặp anh, chứ không phải Tompkins…
Cuộc sống của cô với Tompkins ra sao? Anh tự hỏi không biết cô có hạnh phúc không?… Nhưng trước chuyện đó, rất lâu trước chuyện đó, Daisy đã xen vào giữa. A! Vâng. Daisy. Một cách bất ngờ, cuộc phiêu lưu mới mẻ này, điều kỳ diệu mới mẻ này, niềm vui sướng mới mẻ này, và trên một bình diện xã hội khác – tất cả quá vô lý, quá giả dối! Chỉ bởi vì cô xuất thân từ một gia đình thế giá, và có chân trong Hội cắt may từ thiện các thứ, và đã học đại học, và ngây thơ một cách hoàn toàn và mù quáng – và hỡi ôi – Chúa lòng lành. Và dần dần anh ngày càng ít đến gặp Eunice hơn. Từ mỗi đêm xuống còn cách đêm, từ cách một đêm xuống còn hai lần một tuần, một lần một tuần, hai tuần một lần – thật đáng xấu hổ, và anh đã cảm thấy xấu hổ kinh khủng. Anh đã nghĩ đó là điều tốt nhất nên làm. Có gì khác để làm đâu? Liệu anh có thể nói với cô là anh đã yêu một cô gái khác không? Rằng anh muốn cưới vợ. Hầu như không thể. Đó là điều rất khó chịu, và anh bắt đầu cảm thấy mình không trung thực. Nhưng sau đó anh nhớ lại tất cả những gì họ đã nói ngay từ lúc bắt đầu, thỏa thuận của họ là biến chuyện hai đứa thành một chuyện tình nhẹ nhàng và không ràng buộc, họ cùng bảo đảm rằng cho dù có làm bất cứ điều gì khác họ cũng không bao giờ ngốc nghếch rơi vào tình yêu và đã cảm thấy dễ chịu hơn với tình trạng đó. Eunice là một cô gái tốt. Cô sẽ không quan tâm, khi cuối cùng anh nói với cô – dĩ nhiên là cô sẽ không. Cô chưa bao giờ thích anh tiêu tiền cho cô – không nhận quà cáp – không đưa ra những đòi hỏi – thậm chí, có lần, cô nói rằng, nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra, và họ có con, đơn giản là cô sẽ biến mất. Biến mất. Anh sẽ không bao giờ nghe được tin cô. Cô nói, cô biết anh đang vật lộn với cái gì, và cô không muốn tạo thêm bất cứ gánh nặng nào cho anh. Nếu một việc như thế xảy ra, cô sẽ tự mình nhận hết lấy trách nhiệm. Cô sẽ lặng lẽ bỏ đi, sinh con ở một nơi xa xôi hẻo lánh, lo cho nó được nhận làm con nuôi một cách hợp thức – hoặc thậm chí cô nhận nuôi – và không bao giờ liên lạc lại với anh theo bất kỳ cách nào…
Và cuối cùng khi anh nói thật với cô – cô quả là một tay biết điều! Cô chỉ đưa khăn tay lên miệng, bật cười, và nói rằng nhiều tháng nay cô đã đoán ra chuyện đó. Anh nhớ rằng cô đã hơi say hơn thường lệ – và cô đã hỏi anh rất nhiều về Daisy. Tự nhiên thôi. Và anh đã nói với cô mọi thứ anh có để nói, với một cảm giác nhẹ nhõm tuyệt vời biết bao! Việc thú thật khiến anh dễ chịu. Cô ta cao? thấp? tóc vàng? tóc nâu? trẻ hơn cô? thông minh? … Anh đã mô tả chi tiết cuộc gặp gỡ đầu tiên của anh với Daisy, tại một bữa tiệc trà; Eunice mê mẩn. Cô muốn biết tất cả về bữa tiệc trà đó – ai tổ chức, ở đâu, bao nhiêu người dự, dọn ăn món gì. Có khiêu vũ không? Vâng, có khiêu vũ. Thực ra đó là một kiểu hội chợ từ thiện, với một quầy bói tóan, và có một bà giả làm dân gypsy bói cho anh. Bà ta nói anh sẽ có mười đứa con và chết lúc ba mươi lăm tuổi, trong tình trạng phá sản hoàn toàn. Cả mười đứa con của anh đều là con gái. “Một hậu cung của riêng anh,” Eunice nói.
Và sau đó cô đã khiến anh kinh ngạc, khi họ sắp rời bàn, bằng cách nói rằng anh khỏi đưa cô về. Chuyện đã kết thúc. Thỉnh thoảng cô sẽ đi ăn tối với anh, nếu anh thích, nhưng mọi thứ còn lại đã chấm dứt. Sau đó, thêm một lần nữa, họ đi bộ dọc theo Esplanade, nói chuyện, tranh luận, ngồi trên các băng đá, đứng dậy đi dạo tiếp; nhưng lần này, khi họ đến đường Newbury, cửa đã đóng chặt. Cô hớn hở, tươi cười, thậm chí bỡn cợt về chuyện đó, nhưng cô rất kiên quyết. Chỉ có một thóang, khi anh cố đẩy cô đi trước anh vào tiền sảnh qua cánh cửa mở sẵn, thì cô lóe lên một tia giận dữ trong một phần tích tắc; vừa thấy là đã biến mất. Họ đứng đó, đăm đăm nhìn nhau, bàn tay anh nắm cổ tay áo lụa của cô, mỉm cười, và sau đó anh bỏ đi. Eunice yêu dấu – cô đã đúng làm sao. Quá đúng, và chính anh hoàn toàn tin chắc điều đó, đến độ suốt mấy tháng anh không hề tìm gặp cô; hoàn toàn không gặp cho đến khi anh cưới vợ, và trở về sau tuần trăng mật ở Bermuda, và chuyển tới một căn hộ ở Cambridge. Vài tháng trôi qua, một ngày nọ, khi anh cùng Daisy đi dọc theo đường Tremont, anh thấy Eunice đàng xa. Anh cảm thấy bấn loạn kỳ cục trong lòng, một cái gì đó không đúng, một sự mất thăng bằng – nó là cái gì? Và lập tức anh bắt đầu lên kế họach gặp lại cô, ngay khi Daisy phải về quê nghỉ hè.
Và chuyện này xảy ra vào ngày trước khi lệnh cấm rượu có hiệu lực. Ngay sau khi tiễn Daisy lên xe lửa đi Burlington, anh đã gọi cho Eunice. “Hello?” “Hello!” “Đấy có phải bà Charles hai không?” “Không, chắc anh lộn số. Đây không có ai anh quen biết cả.” “Ồ, vâng, đúng vậy!” “Ồ, tôi thừa nhận là giọng anh nghe quen quá…” Và sau đó là tiếng cười khẽ, hoàn toàn không thay đổi, qua đó anh có thể mường tượng ra chiếc khăn tay, và một thỏa thuận dùng bữa tối ở Avery – với điều kiện rằng cô sẽ trở về nhà ngay sau khi ăn tối xong.
Nhưng trong bữa ấy, thật không may hoặc thật may mắn, Eunice đã không tính đến chuyện đó là đêm trước lệnh cấm rượu. Về chuyện đó, anh cũng vậy. Chỉ khi anh dừng lại ở Raleigh để uống một ly cốc tai Lone Tree, trên đường đến Avery, thì anh mới nhận ra đó sẽ là một đêm cuồng loạn. Hầu như không thể bước vào quán rượu được. Mọi người đều đã say, say dữ dội. Người ta thổi tù và thiếc đầy đường như thể ngày hội. Nó không phải là dịp để Eunice lang thang đây đó một mình, và anh hối tiếc rằng anh đã không dàn xếp để ghé đón cô ở Newbury. Tuy nhiên bây giờ thì chẳng thể làm gì được nữa, và anh đi nhanh đến Avery, và Eunice đã đến mà không gặp chuyện gì, nhưng đầy kích động. Điều này có phần là một điều hay – mặt khác nó đã hướng sự chú ý khỏi những gì có thể là một cuộc gặp gỡ nhiều lúng túng. Và quả thật, cơn sốt của công chúng đã lan sang họ, và họ đã uống gấp đôi thường lệ, và cả hai phấn chấn một cách hết sức buông thả. Họ rất vui được gặp lại nhau; chân thành và vui sướng. Và Eunice thật tuyệt vời – tuyệt vời một cách đơn giản. Cô muốn biết, không hề có một chút xíu do dự, tuần trăng mật có thành công hay không. Nó có thành công hay không? Phải, nó là một thành công vừa phải, một thành công vừa phải. Nhưng những chuyến hành trình đến Bermuda! – anh chỉ có thể nhớ cách mà anh đã nói về chuyện đó, lắc đầu. Và Eunice lập tức cười dữ dội, và mọi thứ đã tiếp diễn như thể chưa từng có sự gián đọan nào. Họ uống sâm banh chúc sức khỏe nhau, và rồi thêm sâm banh nữa, trong khi ban nhạc cứ chơi, hát “Cho lần cuối cùng!” “Cho lần cuối cùng!” và nhìn nhau – với một cảm giác yêu thương sâu sắc như xưa. Kỳ lạ! Tại sao lúc đó anh không thấy điều đó? Dù sao thì anh cũng đã không thấy. Nhưng những gì anh thấy, vào lúc đó, là Eunice đang trong trạng thái có thể bị thuyết phục dễ dàng. Nếu anh đẩy cô vào một chiếc taxi và đưa cô đến Cambridge, tới căn hộ của riêng anh, mà không nói với cô anh đang tính đi đâu…
Và sau khi uống cà phê và rượu Benedictines, anh đã làm chuyện này. Cả hai hơi loạng choạng khi họ đi ngang sàn nhảy, chen qua những dòng người đến trễ cũng đã loạng choạng, và ngọt ngào biết bao khi một lần nữa cảm nhận hơi ấm dịu dàng của Eunice, bây giờ quá lạ lẫm và xa xôi, sau thời gian xa cách dài lâu này đã trở nên quá xa lạ, nay lại tựa sát vào cánh tay và cạnh sườn anh. Cô cũng cảm nhận được điều này, và khi họ ngồi trong taxi, và taxi quay đầu, gầm lên với tốc độ ngày càng tăng, về phía quảng trường Scollay và Cambridge, họ lại rơi vào vòng tay nhau một lần nữa, như thể đó là điều tự nhiên nhất trên đời, mà quả thật thế. Khi họ băng qua cây cầu có mái vòm, nơi họ thường ngắm đêm từ một băng đá trên Esplanade, một mối hoài nghi thoáng qua đầu anh – liệu có đúng không khi đưa Eunice đến căn hộ của vợ anh? Điều đó đúng không? Nhưng câu hỏi này trôi qua như một đám mây, và trong phút chốc họ đã ở đó. Họ leo lên thang, mở cửa, bật đèn – lấy rượu gin và nước đá và ly ra – và sau đó, dĩ nhiên, anh đã dẫn Eunice đi khắp căn hộ.
Điều đó thật quá khác thường – rất khác thường. Một niềm vui khốn khổ, u ám, kỳ quặc làm sao, cầm ly trên tay cô đi xem ngôi nhà của kẻ thay thế cô! Khắp mọi nơi. Quần áo, chăn màn, đồ sứ, thảm, đồ đạc trong nhà, những tấm ảnh Daisy đặt trên bàn phấn – cây chổi anh đã dùng để giết chuột trong bồn tắm, bếp lò mà bên dưới lửa bùng lên – cô phải xem tất cả. Cô có vẻ như không thể xem đủ. Còn có gì khác không? Chẳng có gì nữa. Rốt cuộc chẳng có gì nữa à? Và sau đó, một lát sau, lại cơn mê cuồng trong căn phòng tối này, cơn mê cuồng thần thánh này – niềm hạnh phúc đơn giản sâu lắng ở chỗ lại được ở cùng nhau, sau tất cả những tháng dài ấy, và bất chấp bóng đen của Daisy – hoặc có lẽ thậm chí bởi vì nó thì đúng hơn. Liệu trong đời anh sẽ có bao giờ có được giây phút này nữa không?
Có lẽ không. Nhưng tuy nhiên, có điều gì đó sai trái ở đây. Bất chấp cái cạnh sắc cứa vào niềm vui của họ do sự kiện rằng họ đang sử dụng căn hộ của Daisy và rằng Eunice một cách bí mật và xấu xa, đang chiếm đoạt chỗ của Daisy, một niềm vui mà cả hai ý thức rất rõ vào lúc đó và cũng bất chấp cảm giác về cuộc chè chén không thể không chia sẻ với sự điên cuồng của công chúng – vì đường phố đầy đàn ông và đàn bà đang hát um sùm – vậy mà, khi họ nằm với nhau, cái bóng đen kỳ cục đó đã chen vào giữa họ. Rốt cuộc, đó đơn giản có phải là Daisy không? Hay đơn giản là thời gian đã bằng cách nào đó chia tách họ? Vì bất ngờ anh đã bắt đầu, sau khi những mê đắm ban đầu đã qua, cảm thấy tách biệt, xa xôi, cô đơn với chính mình; cử chỉ của anh, thậm chí giọng nói của anh, dần dần càng lúc càng trở nên ngượng ngập hơn; cơn hứng muốn làm tình với cô có vẻ như đã đến một kết thúc. Anh đã nằm đó và nhìn chăm chăm lên trần nhà tối tăm, ý thức một cách vụng về và hầu như xấu hổ về bàn tay anh đang nằm trên vai cô – sợ vuốt ve cô, vì sợ rằng sự vuốt ve đó có vẻ gượng ép và giả dối, và cũng sợ lấy tay đi, vì sợ rằng Eunice nhận ra sự thay đổi đó. Nhưng cô đã nhận ra nó, giờ thì anh biết – nhanh như anh đã nhận ra; cô cũng trở nên quá căng thẳng và xa lạ. Một sự im lặng bao trùm, trong lúc đó họ lắng nghe âm thanh những bước chân đang chạy bên ngoài, những tiếng hét say xỉn, tiếng ai đó té phịch xuống, một giọng cười the thé. Và sau đó bằng sự thỏa thuận ngầm họ bắt đầu nói chuyện – không phải về chính họ, cũng không phải về sự thay đổi kỳ cục này, mà lẽ ra đó là chuyện khôn ngoan và dũng cảm nên làm nhất, mà họ nói về bất cứ chuyện vặt nào, bất cứ chủ đề nhăng cuội nào đó mà họ có thể chộp được, như thể nóng lòng che đậy bất hạnh của họ. Anh nhớ lại, ngay điểm này, bất ngờ anh chợt nhận ra rằng anh muốn cô ra về. Anh muốn ở một mình. Giá như cô ra về thật nhanh, và có lẽ giá như cô có thể biểu lộ, một cách nhẹ nhàng và yếu ớt thôi, nhưng đầy can đảm, rằng cô bị tổn thương, thì lúc đó còn có thể cứu vãn được một điều gì đó. Anh sẽ xúc động, lương tâm anh sẽ bị lay chuyển, và qua dòng mạch ấy tình cảm của anh dành cho cô sẽ được hồi sinh. Hơn nữa, anh đã muốn cô ra về, thậm chí về một mình – vì việc phải đi cùng cô suốt con đường đến Boston, vào giờ này, trong một đêm như thế này, với viễn cảnh một chuyến trở về lê thê và khủng khiếp, anh cảm thấy chắc chắn, sẽ là sự hủy hoại cuối cùng cho tình trạng cân bằng khéo léo này. Ngược lại, nếu cô đề nghị ra về một mình, thì một lần nữa tình cảm của anh có thể được hồi sinh, và có lẽ anh sẽ thực sự muốn đi cùng cô…
Nhưng cô không đề nghị như thế; chắc chắn cô đã hơi sợ hãi; và cô đã nhìn ra tình huống này – ít nhiều trong bất cứ trường hợp nào – và đơn giản là không biết đối phó với nó ra sao. Vì vậy họ đã nằm với nhau, im lặng tăng dần, càng lúc càng ý thức về sự xáo động đen ngòm của nỗi nghi ngờ và vô cảm đang nổi lên giữa họ, cho đến khi cuối cùng anh nói với cô rằng đã quá khuya. Dịï thường, kết thúc dị thường cho những gì hứa hẹn sẽ là một đêm tràn ngập niềm vui! Thực sự chẳng có lý do gì khiến cô không nên ở lại với anh đến sáng. Nhưng anh rất muốn được ở một mình. Vì vậy họ đã nhỏm dậy và bật đèn lên; và Eunice chải lại tóc tai; sử dụng gương của Daisy; và anh đã nói, hơi hối lỗi, rằng vì anh mệt kinh khủng anh hy vọng cô sẽ không phiền nếu anh chỉ đưa cô đến quảng trường, và ở đó đón cho cô một chiếc xe bus ở đại lộ Massachussetts … Chúa ơi! Điều đó thật khiếm nhã. Và ngay ở đó, một đêm như thế trong vô vàn đêm. Quảng trường Harvard là một cảnh hỗn lọan. Và chiếc xe cuối cùng, chuyến xe chạy khuya, khi nó xuất hiện, đã đầy chặt cặn bã của loài người , tất cả đều say, tất cả đều hát. Và trong đám đông kinh khủng ấy anh đã để cho Eunice đi một mình. Người đàn bà duy nhất trong chuyến xe…
Anh rên rỉ khi nghĩ về nó; anh không bao giờ có thể nghĩ về nó mà không nhắm mắt. Đáng kinh ngạc rằng một nhu cầu nội tâm đơn thuần lại ép buộc được anh phải làm một việc như thế! Và hoàn toàn không đáng ca ngợi. Nhưng dù vậy, vẫn có ở đó một trong những điều quái gở của tâm lý. Anh đã phải làm chuyện đó, giống y như sau này anh phải chờ gần hai năm mới lại cảm thấy một thôi thúc đích thực muốn gặp lại cô. Đó không phải bởi tình cảm của anh dành cho cô đã thay đổi – hoàn toàn không. Dù có bất cứ chuyện gì suốt những năm tháng ấy tình cảm anh dành cho cô vẫn sâu đậm một cách chắn chắn và kiên định, và có lẽ bây giờ còn sâu đậm hơn bất cứ lúc nào. Không, nó là sự day dứt tinh tế nào đó của lương tâm, bóng đen nào đó của Daisy, nỗi chán chường mơ hồ nào đó đối với thói hai mặt, mà nó đã gây ra toàn bộ thảm cảnh này, và đưa tới một kết thúc cho một mối quan hệ giữa người với người đáng yêu nhất mà anh từng biết. Và sau cùng khi anh cố tìm lại cô lần nữa – nhưng lại có nỗi hoài nghi rằng thảm cảnh như thế sẽ tái diễn – thì được cô McKittrick cho biết rằng Eunice đã lấy chồng. Cô McKittrick không hề muốn giấu anh điều gì, nhưng liệu có thể tin những điều cô ấy nói không? Anh không chắc mình hiểu được những ý nghĩa mà cô ấy muốn truyền đạt cho anh, rõ ràng là thế. Cô nói rằng Eunice rất hạnh phúc, và đã thực sự yên ổn trong cuộc hôn nhân với một người đàn ông mà cô thực sự quan tâm. Cô McKittrick vẫn còn là y tá trực, thường xuyên gặp Eunice, và nói rõ rằng Eunice không hề muốn gặp lại anh, nên anh rời cư xá Newbury lần cuối cùng. Anh đã cuốc bộ suốt con đường tới Warldorf, để ăn một chén bánh bột ngô và uống một cốc cà phê, ít nhiều như để hoàn tất một nghi thức, và khi anh ngồi đó và nhìn đờ đẫn xuống sàn đá hoa ghép hình xấu xí anh bắt đầu nhận ra nỗi bất hạnh của mình, nỗi bất hạnh chưa từng rời bỏ anh và có lẽ sẽ chẳng bao giờ rời bỏ. Anh phải gặp lại cô – anh phải gặp lại cô. Anh phải, bằng cách nào đó, giải thích cho cô toàn bộ sự vụ kinh khủng này! Nhưng điều đó không thể được… Và mãi về sau, khi anh viết thư cho cô, cô chỉ trả lời, “Không!”
Thôi, đã tới giờ phải ra khỏi giường, tới giờ ăn sáng, và vẫn còn tuyết rơi, rồi tới giờ làm việc. Và trong ngày hôm nay – được, anh sẽ đi bộ qua phố Newbury; và nhìn lên ba ô cửa sổ xưa đã từng thuộc về Eunice.
Kết Thúc (END) |
|
|