Cô gái mặc áo sơ mi ngắn tay, quần hơi loe một chút, tàn dư của thập niên hippie. Cả áo và quần cô toàn màu trắng, làm nổi bật mái tóc đen. Dưới ánh sáng yếu ớt ở góc quán rượu, mặt mũi và tay chân cô gái Á châu như bị dìm vào bóng tối.
Tôi đã thấy hình ảnh đó trước đây.
Thay vì bóng tối quán rượu, da thịt của cô gái đêm đó bị dìm trong làn nước đen. Đương nhiên, bộ đồ màu trắng nổi bật dưới ánh trăng yếu ớt. Cũng có thể là một màu cà phê sữa. Những người bản xứ ở cái vùng sông nước hẻo lánh ấy không thể có những bộ đồ bà ba tuyền màu trắng được.
Thời gian đã làm ký ức tôi hỗn loạn.
Tôi đã làm công việc mới được bảy năm. Vùng sa mạc Mojave khô cằn cứ ngỡ như vùng đất hứa cho những kẻ như tôi. Rặng Sierra Nevada phía tây, dãy San Bernardino phía nam, Thung lũng Chết hướng tây bắc, lưu vực sông Colorado phía đông. Sau những biên cương tự nhiên đó, là những đại sa mạc khác. Không ai đến và sống ở đây. Ở sa mạc Mojave, California, nước là một đảng đối lập, một kẻ thù không đội trời chung, một thành tố bên kia bức màn sắt, một đối tượng, một kẻ không có đất sống.
Nếu nước có màu xanh, thì Mojave có màu vàng. Sa mạc vàng úa hoang vu và thi thoảng mới có chút gió cát. Gió nhẹ thổi trên những mái đầu tuyền vàng như màu vàng chết của sa mạc Thung lũng Chết.
Thế mà, hôm đó tôi đã gặp cô gái Á châu có mái tóc đen.
Cô ngồi trong góc tối của một quán rượu mở sớm vùng sa mạc Mojave.
Tôi nhớ đến nước, chính xác hơn là nước đen, nước của bóng tối. Đối nghịch với màu vàng và sự khô hạn của sa mạc. Cô gái là hiện thân của một quá khứ sũng nước. Mùi rữa của lá mục, mùi ẩm ướt của gỗ, mùi tử khí của chốn ao tù rừng ngập mặn nơi sông đổ ra cửa biển. Mùi bùn.
Tất nhiên, trên hết vẫn là mùi nhang muỗi.
Giữa đêm khuya, chìm đắm trong tuyển tập mùi của thế giới hoang vu: rừng - nước - bóng tối, mùi nhang muỗi trôi theo gió như một bài thơ ngắn gọn và rùng rợn nhất. Mùi đó có nghĩa có người ở gần đây. Tôi đang chìm trong nước, chìm ngang ngực, chìm chính giữa một con kênh. Đó là một con kênh nhỏ ở phía đông một cù lao. Nơi đây đúng ra không còn dân sinh sống. Cấp trên đã hoạch rõ đây là vùng free-fire zone. (vùng bắn tự do)
Nhóm biệt kích có bảy người. Chúng tôi tác chiến trên mọi địa hình: biển - trời - đất. Sáu biệt kích người nhái và một phiên dịch.
Cả toán đã đột nhập vào cù lao bằng tàu STAB. Giờ hành quân có khi sau nửa đêm, đôi lúc gần sáng.
Sau khi thả toán, tàu rời đi và làm tiếp ba cú tấp vào bờ ở nơi khác để đánh lạc hướng kẻ địch. Tiếng máy tàu rầm rì đâu đó, lẫn vào rừng và nước, nhì nhằng, giận dỗi. Giữa đêm tối, chỉ có âm thanh là người chịu đối thoại với chúng tôi. Cho dù kẻ đó thuộc phe nào.
Khi tàu tấp vào gần bờ và bắt đầu luồn qua con kênh nhỏ, toán trưởng Harry xem lại radar. Con kênh hiện ra đúng như tính toán. Bất thần có tiếng súng đơn độc vang lên giữa rừng tối ở bờ trái. Đó là súng báo động của kẻ địch. Không có gì sau đó. Tàu vẫn tiếp tục và dừng lại ở điểm thả.
Khi rời tàu, toán lập tức bung rộng tạo thành một vành đai phòng thủ. Mỗi người đều nằm im và có một vùng bắn cụ thể. Chúng tôi chìm trong bùn và nước chờ đợt tập kích của địch. Các giác quan căng lên sẵn sàng. Nỗi sợ là một ảo tưởng, súng trong tay là một thực tế.
Ba mươi phút trôi qua trong sự yên lặng diệu kỳ. Chúng tôi đã nằm im và chờ đợi như những con thú hóa thạch. Không có gì xảy ra. Kẻ địch không đến. Có nghĩa là toán đã xâm nhập trơn tru.
Nhiệm vụ hôm nay là thám sát một khu làng nhỏ giữa cù lao, cách nơi thả toán khoảng năm trăm thước. Tin tình báo cho hay một cuộc họp có lãnh đạo cao cấp của kẻ địch sẽ diễn ra trong một căn lều giữa làng.
Toán bắt đầu di chuyển. Bob làm point man dẫn đầu. Tiếp đến là tay phiên dịch người bản xứ. Toán trưởng Harry theo sau. Kế đến là hai đồng đội rồi đến Lão Thọt, tên thân mật của một gã cổ đỏ từ Nebraska. Lão Thọt mang một cây M-16 gắn ống phóng lựu XM-148, loại vũ khí mới chỉ có đám biệt kích được sử dụng. Tôi đi chót đoạn hậu với một súng máy hạng nhẹ được gọi là Stoner 63. Dưới bụng khẩu Stoner là hộp đạn tròn chứa 150 viên 5 ly 56.
Bob dẫn toán di chuyển zig-zag giữa rừng, bám theo một đường mòn. Càng tiến sâu, càng nhiều bẫy được phát hiện. Bob là chuyên gia soi bẫy. Làm sao hắn có thể thể phát hiện ra chúng trong bóng tối thì chúng tôi vẫn chưa thể hiểu được.
Lão Thọt đang cẩn thận bước qua một sợi dây giăng ngang đường mòn. Sợi dây mảnh như tơ nhện và càng vô hình hơn trong bóng tối. Một đầu dây gắn vào kíp nổ mìn Claymore ngụy trang rất khéo trong bụi cây bên tay phải. Mặt trước quả Claymore chắc chắn đang hướng vào phía chúng tôi. Nếu nó có mắt, tôi sẽ thấy ánh mắt của nó và chúng tôi sẽ nhìn thẳng vào nhau trong ba phút. Bảy trăm bi thép dưới bộ mặt lạnh như tiền sẽ bắn vào tôi trong một khoảng sát thương có góc sáu mươi độ, nếu ánh mắt tôi trở nên yếu thế. Rất tiếc, Bob đã phát hiện ra nó và quả Claymore sẽ không có cơ hội thâm nhập vào tôi hàng trăm chỗ trên cơ thể. Đó là Thần Chết bị lừa và ánh mắt của những kẻ tưởng mình vừa thoát chết chính là cú xuống hàng cuối cùng của một trang sách gần chót. Nhưng tôi chỉ nhận ra điều này rất lâu về sau.
Đúng lúc đó, lệnh từ đầu hàng truyền xuống bằng ký hiệu tay. Tất cả bỏ đường mòn, di chuyển thẳng xuống kênh. Đây là cách ít rủi ro hơn khi đường mòn bị đặt bẫy quá nhiều.
Giữa làn nước đen, toán biệt kích di chuyển chậm nhưng chắc hơn. Nước mấp mé lằn tim trong ngực. Lớp bùn dưới chân như một bãi lầy.
Chúng tôi đã di chuyển hàng trăm thước sâu vào cù lao. Hàng trăm thước đối phó với rễ cây dưới nước và các loại côn trùng. Thỉnh thoảng, Bob dừng lại và tất cả chìm vào sự yên lặng trong vòng mười đến mười lăm phút. Sau đó toán di chuyển tiếp.
Mùi nhang muỗi thoang thoảng trong gió.
*
Cô gái nhìn lên, tóc cô đen chìm vào bóng tối quán rượu.
Tại sao chứ? Tôi đã thấy hình ảnh mái tóc khuất trong bóng tối như thế hàng ngàn lần.
Tại sao lại ở đây?
Chốn hoang mạc Mojave là mật khu cuối cùng, là giới tuyến về vùng không-có-gì, là con hẻm cụt, là tận cùng của băng đạn 150 viên. Bên dưới chỉ còn bóng đêm.
Cô gái không có lỗi gì cả.
Tôi đang ngồi đó trong quán rượu vắng. Hai vai tôi rung lên, hai chân như mất đi các khớp nối, không thể điều khiển được.
Cô gái đứng dậy, tiến lại phía tôi. Tóc cô lắc nhẹ trong ánh đèn vùng sáng của quán.
Gương mặt cô hiện ra, các đường nét thành hình như một lớp mạt cưa bị lực từ trường điều khiển. Đó là một gương mặt Á châu. Tôi vẫn nhớ gương mặt cô gái đêm đó. Mái tóc trôi lững lờ trong làn nước đen.
- Tôi muốn hỏi ông về cù lao X, ngày Y năm 1968.
- Tôi…
Cô gái Á châu tiếp tục nói. Tiếng Anh của cô hoàn toàn không còn âm hưởng của người nhập cư. Một thế hệ thứ hai hoàn hảo. Đương nhiên tôi nhận ra giọng nói này.
- Tôi là phóng viên báo Z. Chúng tôi đang theo đuổi một vụ việc trong quá khứ.
- Cô là người đã gọi điện cho tôi hơn hai mươi lần trong ba tháng qua?
- Đúng vậy thưa ông.
Thật ra đó là lý do tôi đến đây. Cô ta đã để lại lời nhắn sẽ đến quán rượu này hôm nay để gặp tôi. Chưa bao giờ tôi nhấc máy trả lời. Hộp lưu lời nhắn trên điện thoại đã giúp tôi quen thuộc với giọng nói của cô. Mà thực ra tôi đã quen thuộc với nó từ lâu. Âm hưởng của cô phóng viên Á châu chính là tiếng nói của rừng, là âm thanh của sự yên lặng trong bóng tối, là tiếng súng báo động của kẻ địch. Những thứ chưa bao giờ để cho tôi được yên.
Tôi xuống giọng, bỏ cuộc:
- Thôi được, tôi sẽ trả lời cô. Tất nhiên chỉ những gì tôi biết.
- Chắc ông cũng rõ những gì ông nói có thể sẽ được dùng để chống lại Harry? Ông ta là ứng cử viên đang tranh cử để đại diện Đảng Dân Chủ.
- Tôi chỉ nói những gì tôi nhớ.
*
Bóng tối là không yểm, nước đen là công sự. Tôi giữ nguyên vị trí và toàn bộ toán biệt kích đã ngồi yên được gần nửa tiếng. Nước ngang lằn tim trong ngực.
Trước đó, khi mùi nhang muỗi thuận gió bay đến, Bob dừng lại. Phía trước là một khoảng tối rộng lớn. Con kênh bung rộng ra và cây lá hai bên bờ thưa hơn. Thấp thoáng phía xa là hai đến ba túp lều không đèn.
Tay point man quay người lại, bàn tay phải úp xuống, kéo từ trái sang phải ngang mặt. Mật hiệu: nguy hiểm phía trước!
Tôi ở vị trí đoạn hậu và căng mắt sẵn sàng đón địch từ phía sau. Trong bóng tối, biệt kích không nhìn thẳng vào mục tiêu mà nhìn chệch sang hai bên. Chỉ như vậy mới không bị ảo giác của bóng tối đánh lừa.
Cuối cùng, một chiếc xuồng nhẹ cập vào bờ từ hướng kia của con kênh. Ba bóng người từ xuồng lên bờ rồi vào một căn nhà lụp xụp như túp lều. Bob làm dấu họ có súng.
Toán trưởng Harry truyền lệnh tập kích. Bắt sống. Nếu không được thì tiêu diệt.
Point man và phiên dịch áp sát túp lều như những con mèo. Harry theo sau, ra hiệu toán vào vị trí quanh mục tiêu.
Tôi leo lên bờ, áo ngụy trang sũng nước, quần jeans Levi dán băng keo quân dụng kín lai để phòng đỉa đầm lầy. Khẩu Stoner kiểm soát chính hậu của toán đề phòng quân tiếp viện.
Bob tiến đến cửa lều, chuẩn bị ném lựu đạn choáng. Harry ngay phía sau. Ánh đèn dầu bắt đầu le lói trong lều.
Bất ngờ, một người đi ra từ trong, gần như đụng vào Bob. Khẩu AK-47 đeo sau vai. Cả hai như khựng lại trong hai phần trăm giây.
Người này bằng một động tác nhanh như điện xoay người lại, khẩu AK đã nằm gọn trong tay. Tuy nhiên, Bob đã nổ súng trước. Một loạt đạn từ khẩu CAR-15 găm thẳng vào thân trên. Anh ta té ngược ra phía sau.
Từ túp lều một loạt đạn túa ra. Có vẻ như Bob đã trúng đạn. Harry và một số người còn lại nổ súng. Tôi vẫn dán mắt vào hướng sau lưng, đón đầu đối phương tiếp viện.
Ai đó đã dập tắt tiếng súng từ túp lều bằng một quả lựu đạn miểng. Có những tiếng la thét hoảng sợ từ các túp lều khác. Harry, tay phiên dịch, và hai đồng đội khác đang lùa hết những người trong các lều ra tập trung ở bãi đất giữa làng.
Bob trúng đạn vào bụng, đang nằm ở một góc rên rỉ, nhưng chưa bị rơi vào sốc. Y sĩ của toán đang chăm sóc hắn.
Đám người lố nhố ngồi sụp giữa bãi đất. Tay phiên dịch đang quát hỏi gì đó. Harry và những biệt kích khác đứng rải rác chung quanh.
Bất ngờ một tiếng súng vang lên. Nó như phát ra từ phía tây, sau rặng cây, hoặc phía bắc, từ phía con kênh. Cả toán nằm xuống.
Nhiều hình người thình lình chạy túa ra từ một ngách nào đó trong bóng tối, phía sau túp lều xa nhất. Một biệt kích khai hỏa. Toàn toán biệt kích đều khai hỏa. Có tiếng la đau đớn. Những hình người ngã xuống hoặc biến mất trong màn đêm.
Tôi vẫn quan sát hướng phía sau. Khẩu Stoner chưa bắn phát nào.
Toàn bộ ngôi làng giờ đây chỉ còn ánh sáng leo lét bởi ngọn đèn cầy duy nhất ở túp lều bên trái. Sau khi tắt tiếng súng, sự yên lặng trở lại nặng nề và ngạt thở hơn. Chỉ còn tiếng rên sợ hãi của những dân làng ngồi giữa bãi. Các thành viên toán bao vây chung quanh, đang thay băng đạn.
Tay phiên dịch tiếp tục quát tháo. Có vẻ như Harry đang muốn tra hỏi họ về những chiến binh vừa bị giết.
Một tiếng súng lẻ loi lại vang lên từ hướng cũ, lần này nghe xa hơn. Đó là tiếng AK-47.
Những biệt kích nằm sát xuống. Nhân cơ hội, một dân làng vùng bỏ chạy. Nhiều người khác chạy theo tứ tán.
Một ai đó nổ súng, và súng đồng loạt nổ. Có tiếng thét của phụ nữ. Tôi quay lại trong một thoáng và thấy nhiều người ngã xuống nằm giữa bãi đất. Họ nằm im.
*
Cô nhà báo Á châu ngồi xoay ngang về phía tôi. Cô chờ một lát rồi hỏi:
-Thưa ông, cám ơn ông đã kể lại câu chuyện đêm hôm đó. Hơn nữa, ông đã rất bình tĩnh.
- Tôi đã chuẩn bị cho ngày hôm nay.
Cô gái nhìn vào sổ ghi ghép, nhíu mày:
- Số người chết chính thức trong báo cáo là hai mươi lăm. Mười bốn phụ nữ và trẻ em. Số còn lại không được xác định, nhưng được hiểu là kẻ địch. Đây là báo cáo của địa phương quân khi họ khảo sát hiện trường sáng hôm sau. Ông có bình luận gì về con số này không?
- Tôi không có câu trả lời.
- Theo báo cáo miệng của toán trưởng Harry cho sĩ quan chỉ huy, con số ít hơn. Ông có được biết về con số này?
- Hoàn toàn không.
- Ông chắc chắn những người bị dồn vào bãi đất giữa làng đều là phụ nữ và trẻ em?
(suy nghĩ) - Tôi nhớ phần lớn họ là phụ nữ và trẻ em. Đã gần ba mươi năm rồi, tôi không thể chắc chắn.
- Tất cả họ đều bị bắn chết như thế?
- Lúc đó rất hỗn loạn. Tôi không chắc ngoài súng cá nhân còn có lựu đạn nổ không.
- Theo lời kể, ông đã không tham gia?
- Đúng, tôi ở vị trí đoạn hậu và kiểm soát hướng sau lưng khi sự việc xảy ra.
Tôi thở dài, im lặng vài giây:
- Thật ra, tất cả diễn ra rất nhanh. Chỉ trong vài giây thôi.
Cô gái vẫn ghi chép. Nhưng nét mặt giãn ra một chút. Tôi cố gắng tìm dấu vết quen thuộc trên nếp nhăn nơi khóe mắt cô. Không có mùi bùn. Ánh mắt cô tuy đang chìm trong suy nghĩ nhưng sống động như đang nhảy múa. Những viên đạn đã nhảy múa trong màn đêm của vài giây hôm đó như thế. Cứ năm viên là một viên đạn đánh dấu màu đỏ, màu xanh. Những đuôi sáng đủ màu mà chúng để lại trong đêm đen hỗn loạn như một vũ điệu khùng điên.
- Thưa ông, thật điên rồ khi phụ nữ và trẻ em vô tội bị giết như thế. Nhưng điên rồ hơn, không hề có ai chịu trách nhiệm cho việc này. Tôi đã đọc báo cáo hậu tác chiến của trung đội biệt kích. Họ không nhắc gì đến phụ nữ và trẻ em.
Cô nói tiếp, gương mặt vẫn chưa lộ cảm xúc gì rõ rệt:
- Hẳn ông đã biết toán trưởng Harry, lúc đó là Trung úy, đã có những bước thăng tiến đột phá trong sự nghiệp sau khi rời quân ngũ. Hiện nay ông ta là ứng cử viên tranh vị trí đại diện cho Đảng Dân Chủ cho cuộc bầu cử tổng thống sắp đến. Ông ta nổi tiếng vì là thượng nghị sĩ duy nhất từng được trao Huy chương Danh dự, huy chương cao nhất và là đầu tiên của binh chủng biệt kích người nhái. Hồ sơ ông ta không có một vết nhơ.
Cô gấp cuốn sổ lại.
- Tôi đã hẹn gặp ông ta vào cuối năm ngoái. Ông ta không chối bỏ những gì xảy ra, nhưng cũng không thừa nhận hoàn toàn. Tôi cũng đã tìm cách nói chuyện qua điện thoại với hai đồng đội khác của ông và ông ta. Một người xin giấu tên, còn người kia là Lão Thọt. Câu chuyện của họ có nhiều điểm khác nhau, và cũng khác với chuyện của ông hôm nay.
(im lặng)
- Trước khi tiếp tục, tôi muốn hỏi liệu ông có biết quy tắc chạm trán của mật vụ thám sát hôm đó? Có quy định nào rõ ràng về dân thường không?
-Tôi có thể nói thế này. Thứ nhất, đó là vùng mà viên tỉnh trưởng đã hoạch định là free-fire zone. Trước đó, địa phương quân đã bắt buộc cư dân di tản khỏi nơi đó nhiều lần. Vào ban đêm, bất cứ ai xuất hiện ở đó đều bị xem là kẻ địch. Thứ hai, nguyên tắc của biệt kích người nhái là bảo đảm an toàn cho đồng đội và đó là nhiệm vụ trên hết. Và cuối cùng, không có quy tắc gì về dân thường.
- Cám ơn ông. Một đồng đội của ông còn cho biết, nếu an toàn của toán bị đe dọa do bị phát hiện, thì toán biệt kích được phép tiêu diệt luôn những kẻ phát hiện. Có lẽ đây là suy nghĩ của toán trưởng Harry và những người nổ súng hôm đó. Ông có nghĩ thế không?
- Có thể.
Cô gái tiếp tục nhìn xa xăm về phía sau lưng tôi. Gương mặt cô gần như quay ngang, không biểu lộ một cảm xúc gì rõ rệt khi cô nói tiếp.
- Đồng đội giấu tên cũng xác nhận chính ông đã tham gia và khá tích cực khi nổ súng vào nhóm dân thường ở giữa bãi.
(im lặng)
-Tuy vậy, Lão Thọt lại cho biết Harry đã ra lệnh giết nhóm phụ nữ và trẻ em bằng dao. Harry, tay phiên dịch, và ông, là ba người trực tiếp ra tay. Lão Thọt cho rằng toán trưởng Harry sợ tiếng súng sẽ làm bại lộ chuyến xâm nhập.
(im lặng)
Cô gái tiếp tục nói, giọng lạnh lùng, nhưng tiếng thở gấp hơn. Người ta có thể thấy đây là điểm quyết định sự nghiệp của cô. Một khúc quanh, một ngã rẽ, một vũ môn. Như thể cô đang kìm nén tất cả cảm xúc để chúng không thể làm lu mờ sức phán đoán và sự tinh nhạy của một nhà báo sắc sảo đã đợi giây phút hóa rồng này quá lâu.
Cô gái tiếp tục nói. Nét mặt của cô nhợt nhạt, như đang chực chờ được phát sáng trong bóng tối của quán rượu vùng Mojave. Sự phát sáng đó là một khoảnh khắc khai minh trong đêm đen của miền đồng bằng tam giác nơi sông đổ vào biển.
Hôm đó, cô gái cũng phát sáng như thế. Có thể đó là bộ đồ màu sáng mà cô mặc, hoặc làn da trắng bợt xanh xao nhưng nổi bật giữa màu đen của nước và đại ngàn xung quanh. Mái tóc cô chắc hẳn cũng đen. Không thể lầm lẫn nét thoát tục trên gương mặt cô gái, cho dù cô đang chìm trong làn nước đen.
Đó là một cái xác trôi ngang dưới con kênh. Tay hoặc chân của cô khẽ chạm vào quần jeans của tôi. Trên bờ, nhiều xác phụ nữ và trẻ em khác đang nằm im.
Có điều gì đó trên gương mặt cô làm tôi rúng động. Mắt cô nửa nhắm nửa mở, nhưng hoàn toàn không lộ vẻ kinh hoàng như nhiều cái xác khác. Cô như đang cười, và muốn nói gì đó. À, đây chỉ là một cú thả trôi. Cô đã muốn vượt thoát, muốn băng qua phía bên kia của vườn địa đàng từ lâu. Làn nước đen chính là đôi cánh. Cô đã mặc sẵn trên người bộ đồ màu sáng của thiên thần như sẵn sàng cho giây phút này từ thuở sơ khai ba đào. Cô nằm ngửa, cơ thể lơ lửng ở nơi đó. Không còn những giáo điều, không còn hủ tục, không còn bổn phận, không còn tình ái quốc. Không còn gì tự do và khai phóng hơn.
Tôi chợt nhớ đến nước. Chắc chắn không có nước ở Mojave. Một người nhái thì không sợ nước. Đó là vì chúng tôi đã vượt qua khóa huấn luyện phá hủy dưới nước, thử thách khắc nghiệt nhất mà một người đàn ông phải vượt qua. Tuần lễ Địa Ngục bắt chúng tôi chạy, bơi, và chèo xuồng liên tục. Không có giờ ngủ. Chúng tôi lúc nào cũng sũng nước trong ba ngày.
Mỗi buổi chiều, người nhái phải bơi qua vịnh San Diego về hướng Mexico và quay lại. Luồng nước từ phía Nam chảy lên rất mạnh. Chúng tôi cố sức bơi, nhưng đáy biển bên dưới vẫn đứng yên trong một tiếng rưỡi đồng hồ.
Giờ đây, tôi chỉ muốn mọi thứ cố định và bất biến như đáy biển Thái Bình Dương hôm đó. Ở đó không có đúng - sai, không có quy tắc nổ súng, không có người chết - kẻ sống, càng không có báo cáo hậu tác chiến. Dòng nước biển lạnh tê tái hôm đó dễ đoán hơn họng súng gấp một ngàn lần.
Tôi khẽ run lên, như ba mươi năm trước từng run lập cập dưới vịnh San Diego.
Cô nhà báo vẫn đang nói. Mắt cô vô hồn. Giọng nói của cô càng lúc càng vô thanh hơn.
Tôi quyết định sẽ thấy lại gương mặt cô gái đêm đó, ngưng thở. Tôi muốn thấy nó trôi lững lờ trong nước đen. Đó là một gương mặt đầy tính người và sự sống. Đó mới chính là cuộc sống.
Có mùi gì đó hệt như mùi nhang muỗi.
Tôi nhẹ nhàng sờ khẩu súng ngắn và nòng hãm thanh nhét sau lưng quần. Biệt kích người nhái hay gọi loại hãm thanh này là Suỵt Cún, chuyên dùng để khử chó của kẻ địch trong những chuyến thám báo.
Cô nhà báo vẫn nói và mắt nhìn xa xăm về hướng sau lưng tôi. Sẽ như thế nào khi thấy lại hình ảnh đó? Nửa gương mặt ngập trong nước đen. Tôi nhìn lên đồng hồ của quán, như đang kiểm soát hướng sau lưng của toán biệt kích.
Phía sau lưng quán rượu có một hồ bơi nhỏ của khách sạn. Hoàn hảo. Lúc trời tối, nước hồ sẽ đen.
Kết Thúc (END) |
|
|