Tôi sinh ra từ một làng quê nghèo. Làng Gia Ðức quê tôi, ở Thủy Nguyên, Hải Phòng, như một cù lao nhỏ, chung quanh bao bọc bởi sông nước, triền đê… mọc đầy sú vẹt. Ði lại cách trở, từ nhà, muốn đi đến trường cấp hai phải đi qua đò ngang xóm Giá, đò Minh Ðức và mỏ đá Tràng Kênh với lối đi ngoằn ngoèo trong núi.
Chỉ có đường đất, nếu không phải là những viên đá sắc cạnh ghép lại lởm chởm, thì sẽ là những vũng nước sâu lầy lội do ô-tô chở đá thường xuyên chạy qua. Có nhiều đoạn nước ngập không qua được phải đi vòng vèo quanh chân núi. Mùa nắng thì rát mặt, mồ hôi đổ ra như tắm, người đầy bụi bặm. Mùa mưa thì gió lớn, nước rúc vào trong áo, ướt đẫm.
Mỗi khi từ nhà ra bến đò đầu tiên là bến đò xóm Giá, tôi khi đó mới 10 tuổi, phải thức dậy từ mờ sáng, đi một mình trên con đường vắng dài băng qua khu đầm Mới, nơi không có dân cư, đi qua chân núi Cống Ỏn sáng sớm vắng không một bóng người, đi tắt qua một bãi tha ma chập chờn ánh sáng lân tinh vật vờ bay lên từ những ngôi mộ mới bốc hốt, sang cát! Núi Cống Ỏn có ông Viện bị ngã núi. Còn miếu thờ chung quanh cây cối rậm rạp. Nằm trên mặt bờ đê ven sông trên đường ra bến đò xóm Giá là nơi ông Rạ tự tử, người ta quen gọi là miếu Ông Rạ!
Ðến bây giờ tôi vẫn nhớ như ngày hôm qua!
Gian khổ và khó khăn, các anh chị trong thôn bỏ học dần. Số các anh lớn tuổi lên đường tòng quân, sau Lệnh tổng động viên năm 1971, chỉ còn mỗi mình tôi đi học. Có khi nước mắt trộn lẫn với nước mưa, gió lạnh táp vào mặt, bị cơn gió lớn xô ngã trượt lăn dài trên bờ đê. Vừa sợ, vừa khóc nhưng tôi vẫn lồm cồm bò dậy, gắng gượng vượt qua mưa gió để tới lớp đúng giờ. Tôi nhớ có lần đói quá, bị hạ đường huyết không đi được nữa phải lết vào nhà dân ven đường xin cục cơm nguội ăn vội cho đỡ đói, uống một ca nước mưa mới có sức để đi về nhà!
Ðói khát, đi bộ nhiều nên tôi không lớn nổi, người bị suy dinh dưỡng đến còi cọc. Nhìn bạn bè cùng trang lứa khỏe mạnh, phổng phao, làm tôi buồn lòng. Bạn bè đặt cho tôi đủ thứ biệt hiệu như Long đen, Long rin, Long lùn... Xếp hàng thì luôn được bạn bè cho đứng hàng đầu vì nhỏ thó, lại gầy còm. Bù lại, tôi học rất sáng dạ. Bài vở tôi thuộc nhanh, toán giỏi văn khá, bạn bè thương, họ động viên, đùm bọc tôi suốt ba năm học đó! Năm 1971, việc học của tôi có một biến cố nhỏ. Do tôi đi học trước tuổi, ba tuổi đã biết đọc, biết viết, bốn tuổi biết làm toán nên khi vào lớp một nhà trường cho nhảy lớp. Nay tuổi nhỏ, sức khỏe yếu nên nhà trường yêu cầu cha mẹ cho tôi nghỉ học một năm, chờ đến đúng tuổi. Tôi về quê nghỉ học năm đó, đến năm 1973 mới đi học lại, vào lớp 7. Ðây cũng là cơ duyên mà tôi có may mắn được học cấp ba ở ngôi trường đã trở thành mái nhà ấm áp cho tâm hồn tôi suốt cả những năm tháng sau này, Trường THPT Phạm Ngũ Lão.
Ba năm học ở THPT Phạm Ngũ Lão không dài so với một đời người, nhưng với tôi, đó là ba năm quan trọng bồi đắp nên nhân cách và tri thức, để chuẩn bị hành trang cho mình bước ra cuộc đời mênh mông, đầy sóng gió! Chính ở nơi đó, sự ân cần dạy dỗ của các thầy cô giáo, sự thương yêu bao bọc của bạn bè, đã đồng hành, tiếp sức cho tôi trưởng thành!
Từ quãng đường đê quạnh vắng đến lạnh người ấy, tôi đã vượt biết bao quãng đường đời đầy chông gai, thử thách, nhưng trong lòng tôi, luôn nuôi giữ được ngọn lửa ấm áp và niềm tin vào tình yêu thương với mỗi con người, với cuộc đời rộng mở.
Kết Thúc (END) |
|
|