Lưu ý: Câu chuyện này tôi viết theo cảm hứng từ truyện cổ tích Mỵ Châu- Trọng Thủy nên có nhiều yếu tố còn mơ hồ hoặc không theo lịch sử lắm vì vậy đừng đánh đồng nó là truyện dã sử hoặc truyện cổ tích cải biên.
1.
Năm ấy, Triệu Đà từ phương bắc kéo quân sang xâm lược nước Âu Lạc nhiều lần nhưng đều thất bại. Cũng bởi Thục Vương có nỏ thần trợ giúp, bắn một phát ra vạn mũi tên. Quân Đà chết như ngả dạ, chiến thắng luôn thuộc về nhân dân Âu Lạc. Lúc ấy, Triệu Đà thua chạy, lùi về núi Vũ Ninh rồi sai sứ đi giảng hòa. Vua Thục vui mừng, liền chia đất cho Đà từ sông Bình Giang trở về Bắc, còn từ Bình Giang trở về Nam thì do mình cai trị.
2.
Năm đó, lần đầu tiên nàng gặp hắn là khi hắn bị đưa sang làm con tin vào một ngày giữa xuân. Khi ấy nàng đang ngồi dưới mái lương đình bên hồ sen, tay chân nhịp nhàng dập khung cửi một cách thuần thục. Hắn đi ngang qua thấy cô gái đẹp tựa thiên tiên đang ngồi dệt vải thì dừng lại, đứng núp sau cành đào, nhìn nàng ngẩn ngơ. Trên gương mặt anh tuấn của hắn xuất hiện nụ cười hiền hòa bị che lấp bởi những cánh đào, đôi mắt hắn sáng tựa sao rơi in bóng hình nàng ở đó. Nàng chợt nhìn lên, bắt gặp hắn đang nhìn nàng chăm chăm thì cảm thấy thẹn thùng vội quay mặt đi. Hắn ái ngại liền quay lưng đi tiếp, nàng len lén nhìn theo hắn lặng lẽ khuất xa dần.
Đêm xuống, nàng nằm trong phòng trằn trọc mãi không sao ngủ được. Nàng nghĩ về hắn, về kẻ nhìn trộm nàng ban chiều. Nàng không biết tại sao, nhưng ở hắn có điều gì đó khiến nàng tò mò. Nhớ lại ánh mắt hắn lúc nhìn nàng, miệng hắn tuy cười nhưng trong đôi mắt ấy nàng nhận ra thấp thoáng nét buồn mơ hồ. Hắn rốt cục là ai? Tự nhiên nàng cảm thấy muốn được gặp lại hắn.
Nàng ngồi dậy khoác thêm chiếc áo lông ngỗng rồi mở cửa bước ra ngoài đi dạo. Trăng mười lăm sáng vằng vặc dẫn lối nàng, đôi chân cứ giảo bước vô định. Gió xuân miên man mang theo hơi sương se lạnh, nàng khẽ rùng mình định trở về phòng. Chợt tiếng tiêu vi vu vang vọng trong đêm đâu đó níu giữ chân nàng, nàng dừng lại hồi lâu lắng nghe. Tiếng tiêu ấy rõ ràng là vui mà sao nàng cảm thấy man mác trong lòng một nỗi niềm khó tả.
Giai điệu của tiếng tiêu dẫn nàng đến vườn đào. Nơi đó, có bóng người ngồi trên mỏm đá, vạt áo hắn bay nhẹ trong gió, dưới ánh trăng khuôn mặt hắn hiện ra từng đường nét như họa tranh. Từng ngón tay hắn di chuyển dọc theo thân tiêu điêu luyện tạo nên những âm thanh hoàn hảo. Đôi mắt hắn vẫn mang một nét u ám đang nhìn vào khoảng không vô định. Có lẽ vì thế mà hắn không biết có người đến hoặc biết nhưng giả vờ nên vẫn say sưa thổi hết bài này lại đến bài khác. Nàng lặng yên đứng phía sau nhìn hắn. Lần này, người ngẩn ngơ lại là nàng.
“Cô cũng không ngủ được à?”
Hắn chợt hỏi khi đã hết bài thứ ba khiến nàng giật mình. Nàng đỏ mặt, hơi cúi đầu, đáp một tiếng nhỏ tưởng chừng không thể nghe thấy.
“Ừm!” -rồi nàng hỏi lại hắn. -”Còn anh?”
“Ta cũng vậy. Ở một nơi xa lạ, ta thường không ngủ được.” -hắn mỉm cười. -”Có lẽ do lạ giường.” -rồi lại hỏi. -”Còn cô thì sao?”
“Ta…” -nàng ngập ngừng vài giây, chả lẽ lại nói vì hắn nhưng rồi nghĩ ra một lý do khác. -”Tại không buồn ngủ.”
Nàng không nhìn hắn nhưng nàng biết hắn đang cười, chắc bởi cái lý do của nàng quá đỗi ngớ ngẩn nên mới khiến hắn vậy hoặc hắn cười vì nhận ra nàng đang e thẹn với hắn. Hắn chợt đề nghị:
“Nếu không chê cô có thể ngồi trò chuyện với ta một lúc được không?”
“À…ừm!” -nàng khẽ gật đầu, tiến đến chỗ hắn.
Hắn đưa tay ra muốn đỡ nàng, nàng e ngại bắt lấy tay hắn để hắn kéo nàng lên. Nàng ngồi cạnh hắn chẳng nói được gì, chỉ ngước mắt nhìn lên khoảng trời lấp lánh đầy sao tưởng chừng có thể với tới nhưng thật ra lại quá xa vời. Đôi môi cánh đào của nàng chợt hé nụ cười, nụ cười trong sáng cùng gương mặt ngây thơ của cô gái mười bảy tuổi ấy đã in sâu vào tâm hắn khiến hắn phải băn khoăn suốt một thời gian dài sau đó.
Đêm ấy, hắn cùng nàng ngồi trò chuyện đến tận quá nửa đêm. Đêm ấy nàng nhận ra thì ra hắn không như nàng nghĩ, hắn là người hóm hỉnh, hay cười và biết làm nàng vui.
Sau lần ấy, nàng gặp hắn thường xuyên hơn. Nàng thường dẫn hắn đi tham quan Loa thành, kể cho hắn nghe câu chuyện về Loa thành. Nàng muốn gặp hắn mỗi ngày, thấy nhớ hắn mỗi khi không gặp được. Có lần tỳ nữ A Châu của nàng bảo nàng đã thích hắn, nàng không nói gì cũng chẳng phủ nhận chỉ quay lưng đi giấu đôi má ửng hồng đang ngượng chín. Có lẽ nàng thích hắn thật hoặc có lẽ còn hơn cả thích.
3.
Một buổi sáng khi nàng đang ngồi trong phòng thêu đôi uyên ương trên chiếc khăn tay nàng định tặng hắn, A Châu bỗng từ ngoài chạy vào báo vua cha cần gặp nàng. Nàng dừng mũi thêu còn dang dở, chỉnh lại trang phục rồi cùng tỳ nữ đến điện.
Khi nàng đến thì thấy trong điện có cha nàng, có hắn và cả cha hắn đang ngồi trò chuyện. Nàng khép nép tiến vào thỉnh an cha. Thục Vương nhìn con gái, đôi mắt có nét cười, đầu khẽ gật nhẹ. Ngài vuốt râu, điềm đạm hỏi ý nàng:
“Con trai Triệu Vương là Trọng Thủy muốn hỏi cưới con. Ý con thế nào? Con là đứa con gái duy nhất của ta, hạnh phúc của con cũng là hạnh phúc của ta. Chuyện hôn nhân là việc quan trọng nên ta để con tự quyết định.”
Nàng hơi bất ngờ, việc này đến nhanh quá khiến nàng còn chưa kịp suy nghĩ gì. Nàng nhìn cha rồi lại nhìn hắn đang chờ đợi câu trả lời. Dạo trước khi A Châu hỏi chẳng phải nàng đã không phủ nhận sao? Nghĩa là nàng thích hắn thật, mà cũng có thể nàng đã yêu hắn rồi. Nàng tin hắn, tin rằng hắn cũng yêu nàng, tin rằng nàng và hắn sẽ sống hạnh phúc. Nàng tin chắc chắn thế.
…
Ngày cưới diễn ra ba ngày ba đêm trong niềm vui cả nước. Nàng và hắn cùng vui trong niềm hạnh phúc, cùng mỉm cười đáp lại lời chúc tụng của muôn dân trăm họ. Hai nước cũng vì thế càng thêm thắm thiết.
Từ nay, nàng không còn là thiếu nữ hồn nhiên như trước nữa, nàng đã là một phụ nữ, có gia đình, có người chồng nàng yêu và cũng yêu nàng. Nàng tự cảm thấy cuộc sống bây giờ đã khác trước nhiều, nàng tự biết mình phải trưởng thành hơn. Hắn biết nàng không muốn rời xa cha, rời xa quê hương nên đã quyết định ở rể. Nàng cảm kích hắn lắm, càng vui hơn khi hắn là người hiểu ý nàng.
4.
Một đêm kia, hắn hứng thú cùng nàng ra ngoài vườn ngồi uống rượu, ngắm trăng, ngâm thơ. Cuộc vui đến gần nửa đêm khi nàng đã ngà ngà, hắn mới dò hỏi:
“Ta có một điều luôn thắc mắc không biết có nên hỏi nàng không?”
“Đã là vợ chồng của nhau, có điều gì chàng cứ hỏi, nếu thiếp biết nhất định sẽ trả lời cho chàng.”
Nghe nàng nói thế hắn yên tâm hơn, không ngần ngại liền hỏi:
“Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được vậy?”
“Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thế còn có kẻ nào đánh nổi được?” -nàng cười, trả lời hắn một cách thành thật.
Hắn làm bộ ngạc nhiên như mới nghe đến thứ binh khí thần kỳ đó lần đầu, hắn vờ không tin lại gặng hỏi:
“Thật là có loại nỏ thần kỳ đến vậy sao? Nàng không gạt ta chứ?”
“Thiếp nói thật mà. Chiếc nỏ ấy được tướng Cao Lỗ chế tạo từ móng Rùa Thần nên mới có uy lực thần kỳ thế.” -nàng nhìn mặt hắn còn vẻ nghi ngờ, nàng hỏi lại giọng điệu hơi giận dỗi. -”Chàng vẫn không tin thiếp sao?”
“Ta tin nàng, có điều nỏ thần mà nàng nói ta vẫn chưa tin lắm. Nếu được tận mắt thấy thì ta mới tin hoàn toàn.” -hắn ôm nàng vào lòng dỗ dành, thì thầm.
“Được! Vậy chàng đợi ở đây, để thiếp đi lấy cho chàng.”
Nàng ngồi dậy, tiến về phía nơi cha nàng nghỉ ngơi. Lát sau đi ra trên tay cầm một chiếc nỏ lớn mạ vàng lấp lánh, nàng không ngần ngại mà đưa cho hắn xem. Hắn đỡ lấy chiếc nỏ, đôi mắt sáng rực khi tận mắt chứng kiến vật báu. Nàng thấy hắn không nói lời nào thì lên tiếng:
“Chàng thấy chưa, thiếp đâu có gạt chàng.”
“Ta tin. Ta tin hoàn toàn rồi. Quả là thần kỳ.” -hắn ngắm nghía thật kỹ, khắc họa chi tiết khuôn khổ của chiếc lẫy nỏ thần trong đầu. Lại gặng hỏi nàng. -”Không biết thứ này dùng thế nào?”
“Nào! Để thiếp chỉ cho.”
Nàng lại gần tỉ mỉ chỉ cho hắn cách dùng, hắn là người thông minh chỉ nghe một lần là biết nhưng vẫn giả vờ không hiểu lắm để tránh nàng sinh nghi. Cuối cùng, nàng giảng mãi mà chàng chưa hiểu nên đành thôi, đem nỏ thần cất lại chỗ cũ.
Sáng hôm sau, khi nàng thức dậy đã thấy hắn dậy từ lâu rồi còn đang sắp xếp đồ cho vào tay nải. Nàng lấy làm lạ nên hỏi:
“Chàng tính đi đâu từ sáng sớm vậy?”
“À! Cha ta bị bệnh, ta phải về thăm ông ấy vài ngày nàng ở lại nhớ giữ gìn sức khỏe. Ta sẽ sớm về thôi.” -hắn nói giọng điệu hơi buồn.
“Hay để thiếp đi cùng chàng.” -nàng đề nghị.
“Thôi khỏi. Đường đi xa xôi, hiểm trở một mình ta đi là được rồi. Nàng đừng lo gì.”
Nàng không nói gì thêm chỉ đứng lên giúp hắn sắp xếp lại đống quần áo và vài thứ cần thiết đi đường cho vào tay nải. Lúc tiễn hắn ra ngoài thành, tay còn nắm tay không nỡ rời xa. Đến khi bóng ngựa và hắn khuất xa dần nàng mới trở vào, trong lòng mang một nỗi lo lắng không yên.
5.
Ngày hắn trở về cũng là ngày nàng phát hiện ra mình đang mang trong người giọt máu của hắn. Thục Vương vui mừng khôn xiết liền mở tiệc rượu chiêu đãi, ba cha con ngồi với nhau nói nhiều chuyện vui sau này. Khi ấy, nàng nhận thấy hắn hình như có điều gì đó không vui, nụ cười của hắn cũng nhạt nhòa. Nàng nghĩ có lẽ phải đi suốt ngày đường nên chàng thấm mệt.
Đến đêm, cả ba người đều say gục xuống bàn, nhưng chỉ Thục Vương và nàng là say thật còn hắn chỉ vờ say. Chờ khi hai cha con nàng ngủ sâu hắn mới ngồi dậy lẻn vào phòng vua để tìm chiếc nỏ. Nỏ thần đã trên tay nhưng hắn vẫn chần chừ, trong lòng còn đắn đo. Không hiểu sao lúc này, hắn cảm thấy có lỗi với nàng. Giữa nàng và cha, hắn chỉ được chọn một.
Suốt thời gian qua, điều hắn muốn chẳng phải là thế này ư? Vậy sao đến giờ phút quan trọng hắn lại yếu lòng. Phải chăng hắn đã thực sự yêu nàng? Bản thân là một gian tế thì điều tối kỵ nhất chính là động lòng kẻ thù, đã nhiều lần hắn tự dặn lòng rằng nàng chỉ là một quân cờ, không hơn không kém. Rốt cục sau bao đấu tranh nội tâm, hắn đã quyết định. Trong quyết định ấy không hề có nàng.
Từ sau hôm đó nàng luôn thấy hắn tâm trạng hắn rầu rĩ, nhiều lần nàng có hỏi nhưng hắn không đáp, chỉ nhìn nàng hồi lâu rồi lẳng lặng bỏ ra ngoài để lại cho nàng một mối băn khoăn, lo lắng.
Một ngày kia, nàng tự tay xuống bếp hầm canh tầm bổ cho hắn suốt mấy canh giờ. Lúc bưng bát canh vào phòng, nàng lại thấy hắn đi qua đi lại, nét mặt lộ vẻ lo lắng bồn chồn. Nàng đặt bát canh xuống bàn, nhẹ nhàng hỏi:
“Chàng có chuyện gì không hay xảy ra phải không?”
Hắn không trả lời luôn như đang suy nghĩ điều gì đó. Lát sau, chợt lên tiếng.
“Phụ vương ta vừa báo tin, giặc ở phía Bắc làm loạn. Ta phải về giúp người dẹp loạn.” -hắn ngưng lời, nhìn nàng vài giây rồi thở dài. -”Miền Bắc xa xôi không biết bao giờ mới gặp lại.”
Nàng lặng thinh không nói được lời nào. Trong đôi mắt phượng đen láy ấy chất chứa một nỗi buồn xa xăm. Phần vì sắp phải xa chàng, phần lại lo lắng về sự an nguy của chàng. Đường xá trắc trở, đi lại khó khăn. Chàng sắp phải ra chiến trường, e rằng lành ít giữ nhiều. Nàng thấy không yên tâm. Thấy nàng không nói gì, hắn nói tiếp:
“Bây giờ đôi ta xa nhau. Nếu chẳng may xảy ra binh biến, ta biết tìm nàng ở đâu?”
Có thể điều hắn nói còn xa vời, nhưng cũng không hẳn không có lý. Bây giờ loạn lạc liên miên, ngày hôm nay đâu biết trước được ngày mai sẽ ra sao? Nàng nghe chàng hỏi vậy thì suy nghĩ vài giây mới đáp:
“Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì sẽ rắc lông ngỗng dọc đường hướng đó, chàng cứ theo dấu mà tìm.”
Hắn chỉ gật đầu, không nói gì thêm.
Lần nữa, nàng lại tiễn hắn ra tận cổng thành. Hắn ôm nàng, cái ôm xiết chặt như đã lâu rồi hắn chưa được ôm ai như thế. Mắt hắn nhắm hờ, mũi hít hà mùi oải hương vương trên tóc nàng, cái mùi hương dễ chịu ấy hắn thích nhất ở nàng. Nàng vỗ nhẹ vào lưng hắn như một đứa trẻ, giọng nhỏ nhẹ bên tai hắn:
“Chuyến đi lần này lành ít dữ nhiều, chàng nhớ phải cẩn thận. Thiếp sẽ ở nhà đợi chàng trở về.”
Hắn gật đầu, sống mũi thấy cay cay.
“Mỵ Châu! Nàng có tin ta không?” -hắn chợt hỏi khiến nàng có chút ngỡ ngàng.
“Thiếp tin.” -nàng đáp bằng cả con tim mình. Nàng tin hắn, luôn luôn thế, bây giờ và cả sau này.
Câu trả lời của nàng ám ảnh hắn suốt dọc đường, giống như một vết cứa sâu vào tim hắn. Đau nhói.
Hắn buông tay, quay vội đi cốt để nàng không nhìn thấy đôi mắt hoe đỏ của hắn. Hắn cũng không muốn nhìn thấy đôi mắt ngấn lệ của nàng, đôi mắt ấy sẽ khiến hắn càng thêm dằn vặt, càng thêm ray rứt. Hắn thúc ngựa chạy một mạch xa dần. Gió vô tình tạt vào khóe mắt hắn cay cay.
Mỵ Châu! Đừng tin ta.
6.
Binh biến xảy đến như lời hắn. Triệu Đà bất ngờ trở mặt cất quân sang đánh Âu Lạc, Thục Vương không lo phòng bị mà vẫn bình thản ngồi đánh cờ, còn cười nói:
“Triệu Đà không sợ nỏ thần ư?”
Nào ngờ đến khi quân Đà tiến sát chân thành, nhà vua đem nỏ thần ra bắn lại không có tác dụng. Khi ấy muốn phản kháng lại thì đã quá muộn, nhà vua đành bỏ lại thành, bỏ lại cơ nghiệp khó khăn lắm mới gây dựng nên trong suốt bao nhiêu năm qua.
Lúc ấy, nàng đang ngồi trong phòng tưới chậu hoa chàng tặng thì thình lình A Châu hốt hoảng chạy vào, vừa thở vừa nói đứt quãng:
“Công chúa! Người…người phải…đi thôi, quân địch sắp… phá thành rồi. Mau lên không còn thời gian nữa.”
Nàng chợt hiểu ra vấn đề, tay chân luống cuống chỉ kịp vơ lấy chiếc áo lông ngỗng rồi cùng cô tỳ nữ đi nhanh ra cửa phía nam. Ở đó, cha nàng đã trên ngựa chờ sẵn.
…
Con ngựa bị thúc mạnh, chạy thẳng tiến về phía Nam. Nhớ lại lời chàng lúc trước, mỗi đoạn đường nàng lại thả một chiếc lông ngỗng, mỗi giây mỗi khắc nàng lại ngoảnh đầu lại. Hy vọng có chàng ở đó, chàng sẽ đến cứu nàng và cha. Nàng tin, chàng đang đến. Chắc chắn thế.
Đường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm thì đến Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con nàng dừng lại định nghỉ ngơi một lát thì đã nghe phía sau tiếng vó ngựa của địch mỗi lúc một gần, Thục Vương lại thúc ngựa chạy tiếp một đoạn ra đến bờ biển. Bóng chiều đổ xuống, mặt trời đã thu gần hết ánh sáng về phía cuối đường chân trời. Đến đường cùng, nhà vua xuống ngựa, quỳ xuống bãi cát nóng bỏng cầu xin Rùa Thần phù hộ.
Thục Vương vừa khấn xong, bầu trời bỗng xám xịt, gió lốc nổi lên vù vù thổi tung cát bụi mù mịt. Từ ngoài mặt biển, sóng đánh dữ dội, sấm sét đùng đùng. Dưới đáy biển vang lên một thanh âm mang theo hơi của sự tức giận:
“Giặc ở phía sau nhà vua ấy.”
Nói xong được một lát thì mọi thứ dần trở lại bình thường. Bầu trời trong xanh, mặt nước lăn tăn từng đợt sóng xô vào bờ êm đềm. Thục Vương nghoảnh lại nhìn lông ngỗng rắc dọc đường thì ngộ ra, tim ngài khi ấy đau như cắt. Không thể ngờ rằng, đứa con gái mình yêu thương nhất lại phản bội lại mình. Nghiệp chướng! Đúng là nghiệp chướng.
Giây phút này nàng mới hiểu, thì ra tình yêu của nàng, lòng tin của nàng ngay từ đầu đã bị người ta lợi dụng. Thì ra thứ tình cảm mà hắn dành cho nàng bấy lâu này đều là giả dối, hắn chưa từng yêu nàng thật lòng. Nàng hận hắn. Hận rồi lại tự trách bản thân ngu ngốc, trách vì mình mà nhân dân Âu Lạc phải lâm vào cảnh nước mất nhà tan. Rồi đây họ sẽ ra sao?
Nàng nhìn cha lần cuối, đôi mắt đã đẫm lệ khẽ khép lại. Miệng khấn rằng: “Trung tín trọn tiết, bị người đánh lừa, xin hóa thành ngọc châu để rửa thù nhục này.”
Lửa hận rực cháy trong đáy mắt, ngài tức giận rút gươm chém nàng. Nhát chém đó cũng tự nhiên hằn vào tim người cha ấy một vết cắt đau đến tột cùng. Nhà vua buông gươm, bước từng bước nặng nề tiến ra mặt biển. Sóng biển nhô cao nuốt chửng thân hình ngài chìm sâu dưới đáy.
…
Hắn cùng đám quân lính lần theo dấu lông ngỗng thì đến bờ biển. Hắn lặng người đi, tim hắn khi ấy như đã chết cùng nàng. Thân xác nàng nằm đó, lặng lẽ và cô độc. Hắn lại gần, quỳ xuống ôm chặt lấy nàng. Từng giọt lệ lăn dài trên má rơi xuống hòa vào nước biển mặn chát.
Mỵ Châu! Ta xin lỗi. Thật sự xin lỗi.
Hắn như kẻ mất hồn, lẳng lặng bế nàng lên đưa về Loa thành chôn cất. Nàng từng nói nàng yêu quê hương mình, dù có chết cũng chỉ muốn chết ở đây. Một mình hắn đào huyệt, một mình hắn chôn nàng. Chỉ có mình hắn, hắn không muốn kẻ khác đụng vào nàng. Bàn tay hắn bị lớp đất sỏi cào xước rướm máu. Đau rát. Người hầu khuyên hắn bôi thuốc nhưng hắn không chịu. Hắn vẫn đào, vẫn làm như đang tự trừng phạt bản thân.
7.
Đêm ấy, dưới ánh trăng sáng vằng vặc, tay hắn cầm vò rượu chốc chốc lại ngửa cổ lên uống ừng ực, dáng hắn xiêu vẹo lần đến chiếc giếng ngọc, ngồi vắt vẻo trên thành giếng ngẩng đầu ngắm vầng trăng tròn lơ lửng trên cao. Gương mặt hắn biểu cảm nét khổ tâm, đôi mắt buồn đỏ máu, nhiều ngày nay hắn không chợp mắt. Hắn luôn ở bên nàng, hắn sợ nàng sẽ cảm thấy cô đơn. Nhìn hắn bây giờ khác nào một bóng ma.
Đôi mắt hắn vô hồn nhìn qua lớp sương mây mờ ảo, hình ảnh người thiếu nữ xinh đẹp hôm nao lại hiện ra, nàng nhìn hắn, cái nhìn như muốn hỏi tại sao. Hắn nhìn nàng tự hỏi: Nàng có trách ta không? Rồi lại cười như điên dại, hắn cười mà như khóc, nước mắt giàn giụa lăn dài trên má nhỏ từng giọt xuống giếng. Giọng hắn nghẹn ngào:
“Mỵ Châu! Lẽ ra nàng không nên gặp ta, không nên yêu ta, càng không nên tin ta. Nàng thật ngốc, thật ngốc…”
Bây giờ, hối hận, day dứt thì có nghĩa gì? Vì hắn, nàng trở thành tội đồ gây mất nước. Vì hắn, nàng sẽ bị người đời chê trách. Suy cho cùng, tất cả cũng chỉ vì một chữ “tình”. Nàng yêu hắn, tin hắn. Còn hắn đã nhiều lần tự hỏi rằng có bao giờ hắn yêu nàng thật lòng? Những khi ấy hắn không biết, đến khi đã có câu trả lời thì lại quá muộn màng. Chính hắn bây giờ cũng chẳng vui vẻ gì. Nàng đã không còn, hắn sống còn ý nghĩa gì.
Mỵ Châu! Nếu có kiếp sau, xin đừng gặp lại, đừng yêu ta càng đừng bao giờ tin ta. Vì…ta không xứng đáng.
Vầng trăng dưới đáy giếng bỗng tan ra, mặt nước sóng sánh đập vào thành giếng. Thân thể hắn chìm dần xuống đáy sâu, mong rằng ở nơi đó sẽ gặp lại nàng để nói lời xin lỗi dù hắn biết nàng sẽ chẳng bao giờ tha thứ.
…
Năm Quý Tỵ (208 TCN) (Thục An Dương Vương năm thứ 50; Tần Nhị thế năm thứ 2). Nhà Thục mất. Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc. Từ nay nước ta bắt đầu rơi vào thời kỳ gần một ngàn năm bị người phương Bắc đô hộ.
Ngày nay, ở làng cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương, còn cái giếng gọi là giếng Trọng Thuỷ. Tục truyền khi Mỵ Châu đã bị cha giết chết rồi, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc châu. Lấy được ngọc trai ấy đem về rửa bằng nước giếng trong thành Cổ Loa thì ngọc trong sáng vô cùng.
Kết Thúc (END) |
|
|