Tiếng hát mênh mang một vùng sông nước. Lãng khách và cô lái đò.
- Anh đã bao giờ qua bến Bạch Đằng?
- Đã vài lần.
- Bạch Đằng thế nào?
- Sông sâu, rộng, không biết ghềnh thác ở chỗ nào.
- Khi xưa máu chảy đỏ lòng sông, quân Nguyên Mông ấy.
- Thuyền ra giữa sông, bồng bềnh sóng nước bỗng nhớ Trương Hán Siêu.
- Anh là nhà văn à?
- Không phải, thầy giáo trường huyện.
Thuyền đưa tôi qua sông Bạch Đằng, cô gái ngồi mũi thuyền lung linh, trắng suốt, con thuyền bập bềnh rẽ qua những chỗ nước sâu. Làn sương khói mờ ảo như từ mặt nước bay lên. Nước sông Đằng vàng đục, mênh mông. Trước mắt tôi là cô gái thôn Đoài bán hàng nước bên bến Bạch Đằng, chính cô gái ấy, hơn bảy trăm năm trước… Người đang ngồi mũi thuyền.
- Anh có thấy cây cổ thụ đằng kia?
- Cây Quyếch tiền nhân ở xứ này.
- Cô gái thôn Đoài bán hàng nước dưới gốc Quyếch cổ thụ…
- Bây giờ là phật tượng uy nghi trong miếu Vua Bà.
- Cô gái trẻ lắm, mới mười bảy tuổi, khi giặc đi qua…
- Áo trắng như bây giờ?
- Không phải, áo nâu sòng. Hàng bán nước vối và thuốc lào.
- Khí chiến đằng đằng?
- Không đành sát sinh nhưng làm sao được. Giặc mà.
Thuyền trôi một quãng nước, cô gái thôn Đoài bán hàng nước. Da cô trắng, tóc buộc dài, răng cườm đen bắt nắng, khách quen dùng dằng, khách lạ băn khoăn nhìn lại. Dưới gốc Quyếch cổ thụ, bến Bạch Đằng, vó ngựa rùng rùng. Một người quắc thước, xưng là Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội.
- Ta định ỷ thế sông giết giặc. Muốn hỏi thăm một việc.
- Dạ, không dám trái ý.
- Quân của Ô Mã Nhi sẽ qua đây, ta muốn mượn kế của tiền nhân khi xưa, đóng cọc trên sông giăng bẫy. Muốn hỏi thăm con nước lên xuống, luồng lạch vùng này.
- Thưa, tháng tám trâu bò ra, tháng ba trâu bò về.
- Đâu là nơi hiểm yếu?
- Khúc giang sâu và rộng, có ghềnh Cốc, ghềnh Chanh chính là chỗ cổ họng có thể giết được quân thù. Bãi đất có Vạn Muối, Yên Giang làm nơi trú ẩn được.
Thuyền đưa khách đi dọc theo khúc sông, những quả lậu to tròn căng mọng, xõa trĩu xuống cả bờ sông, mầu xanh san sát. Người ngồi mũi thuyền mặt bỗng đăm chiêu, hàng lông mày nhíu lại. Mặt nước mênh mang, đáy sông sâu, biết đâu là chỗ chôn cọc ngầm, biết đâu là ghềnh đá. Tôi khỏa tay theo dòng nước ngầu.
- Người ấy là Hưng Đạo Vương?
- Nhìn thấy uy nghi là biết.
- Ngựa chiến oai phong?
- Vương cẩn trọng, hỏi kỹ lưỡng. Ngài xem địa thế hồi lâu, còn nếm thử nước sông.
- Hàng nước hôm ấy đông hay vãn, biết đâu là quân do thám?
- Khí thế của bậc quân vương có khác, nhầm sao được. Vương uống một bát nước to, khen rằng nụ vối hãm rất đậm.
Tôi bảo cô gái ngừng chèo, để thuyền trôi tự do. Người con gái tựa mạn thuyền, đôi mắt nhỏ, mày thanh, nhìn về cửa biển Nam Triệu, những ống khói đang thả khói lên trời. Lớp sóng ngầm không còn tung mạnh mẽ, nước sông ngầu đỏ như nghìn năm không tẩy nổi huyết độc.
Vương hỏi tiếp:
- Loại cỏ dễ làm mồi lửa?
- Cỏ gianh, dóc nứa cao ngập đầu mọc ở phía tả sông Đằng.
- Ta muốn đốn những trụ gỗ làm cọc.
- Những rừng lim, táu ẩn sâu trong bến Rừng.
- Đây là vùng sông nước, ta muốn tìm nơi tạ lễ thủy thần phù hộ.
- Ngôi miếu nhỏ ở phía hữu sông Đằng, nhìn ra bờ sông.
Thuyền trôi thêm một quãng nữa, khách bao quát cả dòng sông, những ghềnh đá ngầm đã đục thông. Thuyền máy, thuyền nan chạy rì rầm, từng vuông lưới trắng đương hong cho khô, vệt phù sa đỏ loang dòng nước. Mùi bồ kết nướng, mùi hương nhu tỏa ra từ mũi thuyền. Tóc xuôi theo sông.
- Con gái ngày xưa gội đầu bằng thứ ấy?
- Hương bồ kết thơm đậm và mượt tóc.
- Cô gái thôn Đoài ấy, đã có ý trung nhân…
- Có vài ba đám hỏi nhưng chưa ưng ai.
- Còn đợi?
- Một người không biết trước được, người ấy một ngày nào đó sẽ qua bến Bạch Đằng.
Thuyền đứng lại, cắm sào. Chỗ này là tâm điểm của dòng Bạch Đằng. Dòng sông như giấu một cái hút sâu không ai thấy được, nước ào ào cuộn xoáy, nhìn ra bốn phía đều thấy mênh mang, vàng đậm. Những ngôi làng trù phú, cau dừa vun vút phía đảo Hà Nam, phố xá nhộn nhịp, nhấp nhô bên phía bờ bắc Quảng Yên. Khoảng nào là chỗ rộng nhất của dòng sông? Nơi đâu là chỗ sâu nhất của dòng Bạch Đằng? Một hung khách ghé qua quán nước cô gái thôn Đoài.
- Hắn là ai?
- Phạm Nhan.
- Tên yêu ma dẫn đường cho ngoại bang, loài đỉa hút máu người?
- Quê hắn ở gần đây thôi, Đông Triều.
- Không ai phỉ nhổ vào mặt hắn?
- Hắn đáng, nhưng chưa phải lúc.
- Còn chờ gì nữa?
- Hắn biết chiến thuyền của Ô Mã Nhi, hắn có yêu thuật. Trị tên yêu tướng cần có cách.
Mặt sông lặng đi, sóng muốn to nhưng chưa có gió. Buồm có gió mới căng được. Cây sào cắm, đợi gió mới rút xoay chuyển. Mắt người con gái long lanh không có ngấn nước. Nước sông lợ vì pha tạp nhiều tạp chất. Một thứ lợm lợm như đám rác trôi bập bềnh.
- Ta là tướng Phạm Nhan.
- Quỷ danh của ngài ai cũng biết.
- Ta từ phương xa đến, oai phong hơn người.
- Nhưng ngài gốc Việt, người huyện Đông Triều.
- Đừng nhắc tới tình thân.
- Nhưng bên ấy chưa chắc có thứ nước này, ngọn vối lấy từ vùng Đông Triều. Nước chát nhưng làm mát lòng.
- Không nhắc đến tên đó nữa!
Mặt người ngồi mũi thuyền đỏ hồng, bên lò lửa nóng rát mặt. Mặt phấn hồng giận dữ. Ai có đủ can trường đối đáp với tướng nhà Nguyên. Mũi gươm trong tay hắn sáng loáng. Cố hương là hai tiếng đau đớn nhất, kẻ phản quốc tránh nhắc đến hai chữ ấy. Nhan nhổ một bãi nước bọt xuống sông Đằng. Hắn lớn tiếng.
- Ta không sợ ai, không kẻ nào hạ thủ được ta.
- Yêu thuật của ngài cao cường tới mức nào?
- Đầu của ta gươm chém không đứt.
- Không bao giờ chém đứt?
- Giải được thuật chỉ có ta biết.
- Có người muốn mang rượu thịt cho ngài, binh thuyền nhiều không biết đâu mà tìm.
- Thuyền ta đâu phải thuyền thường. Ta cùng thuyền với Bình chương sự nguyên soái Ô Mã Nhi.
Tôi đưa mời cô lái đò một ít hạt dẻ mang theo. Hạt dẻ lấy trong rừng sâu Tây Bắc, rang kỹ thơm và bùi. Tóc người con gái bay theo gió nhẹ. Lưng áo tôi lấm tấm mồ hôi, nét mặt người con gái yên bình. Thuyền độc hành trôi giạt trên dòng Bạch Đằng, một tiếng chim kêu vang giữa sông.
- Cô gái thôn Đoài ấy, không sợ à?
- Không phải không sợ nhưng lòng đã quyết.
- Giặc thù?
- Căm giận không kể xiết, cha mẹ, làng xóm vấy máu thù.
- Thằng Nhan hôm ấy đã khinh suất…
- Hắn trót lộ những điều cơ mật.
Tôi thở dài, thả một vốc hạt dẻ xuống dòng sông, oán hận không sao gột rửa được. Chỗ nào thuyền chìm đắm, chỗ nào lửa phun trào. Tiếng khóc của quân sĩ, nước mắt của kẻ vô luân, xương trắng chìm xuống đáy sông. Những dải đá ngầm không bao giờ ngóc đầu lên được nữa.
- Vương có dặn dò thêm…
- Ngài bảo sẽ quay lại báo từ.
- Ai có thể quên được công đáp.
- Không mảy may tính điều ấy, giặc là giặc nhà, giặc nước.
- Vương có vào miếu thủy thần ở phía hữu sông Đằng?
- Trời đất phù hộ, lòng người quyết mới thành được.
- Còn trận huyết chiến hôm ấy?
Mặt sông thoáng chốc mờ đi, một làn sương khói bao phủ. Những mây hồng, mây tía thi nhau sà xuống mặt sông. Người ngồi mũi thuyền mắt lạnh sắc. Đôi môi nàng cắn lại, đôi mắt nàng bừng lửa như sắp xông vào chiến trận. Con thuyền tròng trành cuốn vào chỗ nước xoáy. Tôi đưa tay vịn chặt mép thuyền cho khỏi ngã.
- Quân giặc thế nào.
- Thuyền lớn xô nhau.
- Quân tứ bề vây chặt?
- Giặc rơi vào bẫy, bãi cọc trồi lên ta đánh úp.
- Lửa thiêu bốn phía?
- Cỏ gianh khô bắt lửa, cháy bùng bùng, thiêu đốt.
- Mặt sông Đằng?
- Cọc lim nhô nhọn hoắt, tàu thuyền xô đắm gãy.
Một quầng lửa nổi trên phía bờ sông, đám trẻ em đang đốt một đống cỏ khô lớn. Mùi khói hăng hắc bay ra từ những xóm chài đang thui thuyền bên đảo Hà Nam. Mùi nhựa đường, cỏ khô trộn vào nhau khôn tả. Trước mặt tôi tượng Vua Bà hiện ra uy nghi mầu khói.
- Ngươi đã bao giờ tham dự một cuộc chiến?
- Chưa hề.
- Ngươi chỉ tưởng tượng ra thôi.
- Tôi ngửi thấy mùi khói, mùi tanh của cá, mùi nồng của nước sông. Tôi nghe thấy tiếng vọng trong lòng đất.
- Ngươi thấy gì ở sông Đằng?
- Mỗi khi thuyền đi qua, lòng người bứt rứt không chịu nổi, chỉ muốn đưa tay vục lấy một thứ gì đó.
- Một thứ gì đó?
- Một thứ mơ hồ không thể hình dung được. Những người vĩnh viễn ở dưới đáy sông.
- Anh có muốn xuống ngôi miếu ở đằng kia, cô gái lái đò hỏi.
- Tôi muốn vào bến Rừng cổ, thắp nén hương cho vị thần chủ.
Thuyền đỗ xuống một quãng vắng, hai bên bờ sú vẹt mọc um tùm. Trên bờ kia là miếu Vua Bà, một cảnh quan bề thế mới xây dựng, chính giữa bãi phù sa cổ là đền thờ Hưng Đạo Vương, phía bờ sông là miếu Vua Bà. Vài lô cốt đen lố nhố, người Pháp đã từng mưu chẹn con đường thủy tuyến Bạch Đằng năm xưa. Khách bước vào miếu Vua Bà.
- Ngươi là ai mà nhìn ta chăm chú.
- Tôi là khách qua đây, lòng bứt rứt không yên.
- Ngươi có điều băn khoăn?
- Tôi đã được nghe kể về người con gái bán hàng nước năm xưa bên bến Bạch Đằng, người mách con nước lên xuống, luồng lạch nông sâu cho Hưng Đạo Vương, nhưng lòng còn hơi chút mơ hồ.
- Ngươi gọi là con gái ư, hơn bảy trăm năm rồi.
- Đối với tôi nàng không có tuổi, nàng sống và chết vào ngày đấy, mãi mãi là vậy. Tôi nhìn thấy mặt người phảng phất đâu đây. Nàng vừa đưa tôi qua sông.
- Mắt ngươi nhìn rõ?
- Cũng có lúc sương khói bao phủ nhưng những điều nhìn rõ thì không thể nói dối được.
Trước mắt tôi, nàng từ từ bước lên bờ. Bóng áo trắng khi nãy giờ nhìn đã rõ. Thiếu nữ mới mười bảy tuổi. Nàng bình thản, ung dung. Người con gái tháo guốc, sửa lại tóc, đi thẳng vào đền. Đôi chân nàng thoăn thoắt, gót mầu hồng, có lẽ nàng không phải là một thôn nữ quanh năm giẫm chân xuống bùn chua mặn. Nàng đang hướng tới chỗ người ngồi trên điện thờ.
- Ngươi có tin những chuyện trong dân gian?
- Có một điều tôi còn thắc mắc.
- Còn ngại ngần gì nữa.
- Người con gái hàng nước dưới gốc Quyếch này, nàng tên gì và khi Hưng Đạo Vương quay lại, vương đã không tìm thấy nàng?
- Câu chuyện dân gian, không ai biết sự thật là thế nào.
- Nàng biết điều đó ư?
- Ngươi hãy nhắm mắt lại.
Người con gái bước vào đền, nàng đưa tay chấp lễ. Gót chân hồng hơi kiễng, cắm nén hương vào chính giữa, đôi mắt nhỏ, lông mày thanh, khuôn mặt bầu bĩnh như một em bé.
- Anh nhìn ngắm ta ư?
- Không phải, tôi đang nhìn hồn cốt ở trong đó?
- Ngươi hoài nghi?
- Lịch sử có những tồn nghi, tôi tin vào cảm xúc và lý trí của mình.
- Về điều gì?
- Buổi chiều hôm ấy, tôi đã đọc được tên nàng, nàng không vô danh, nàng tên là Yếm.
- Thật chăng?
- Có những điều không thể giải thích, chỉ cảm nhận thôi.
- Anh là nhà văn?
- Tôi là anh giáo nghèo trường huyện.
Nàng không nói nữa, nàng bước lên đài sen. Những vầng khói nghi ngút tỏa ra bốn phía, mùi hương trầm bốc lên sực nức, du khách kính cẩn chắp tay lễ bái. Đôi mắt tôi không chớp, nàng bước lên đài sen, nhập mình vào tượng đồng uy nghi.
- Xin nàng hãy dừng bước, còn một điều nữa nàng chưa làm xong.
- Còn điều gì nữa?
- Tôi muốn nghe đoạn cuối của câu chuyện. Khi Hưng Đạo Vương đến tìm, nàng không còn ở đấy, nàng đã đi đâu, không ai biết thêm điều gì nữa…
- Ngươi tin vào điều ấy?
- Tôi tin vào lịch sử và cảm xúc. Tôi có niềm tin riêng của mình.
- Vậy theo ngươi, nàng đã đi đâu?
- Tôi có suy nghĩ của tôi, nàng cũng vậy. Tôi sẽ kể theo ý của tôi, nàng hãy kể theo ý của nàng.
- Anh bắt đầu trước đi.
1. Khi Hưng Đạo Vương quay lại chỗ cô hàng nước bên bến sông. Hàng nước hoang vắng, cây Quyếch cổ thụ còn đấy nhưng quán nhỏ tịnh không một bóng người. Trong chớp mắt đã không nhìn thấy cô hàng nước, ngài khum tay gọi lớn:
- Ơi cô hàng nước?
Không có tiếng trả lời, không ai biết nàng đi đâu.
- Quán cũ xiêu gầy, cô gái bán hàng nước đã lâu, hẳn có người phải để ý chứ.
Có người bảo.
- Người bán hàng nước ở đấy, người ta quen gọi là cô gái thôn Đoài nhưng không ai biết nàng con nhà ai, đến từ nơi nào.
- Người con gái không hề tầm thường, chỉ một chớp mắt nàng đã đi đâu? Buổi đầu trận chiến có người còn nhìn thấy nàng.
- Thưa, có một sự lạ.
- Nói ngay.
- Phía sau gốc Quyếch mối đùn lên cao, đống mối còn mới.
Vương đứng trước đụn mối đùn cao, vết đất còn mới, vẩy đất đỏ phập phồng hơi nóng, giọt nước mắt mặn nhỏ xuống, đất sủi như vôi tôi.
Có phải đây là người con gái hàng nước ta chưa kịp tỏ lời tri ân.
Có phải nàng đang ở dưới đó, lặng thầm không nói một lời...
Người con gái bến sông Bạch Đằng.
Tiếng người con gái như gió bên tai. Giọng của nàng thanh nhẹ, sắc và rõ. Áo trắng của nàng hơi bay lên, gió từ sông Đằng thổi tạt một khoảng nhẹ. Nàng nhỏ nhẹ.
- Đấy là câu chuyện dân gian anh đã từng nghe. Anh có tin vào điều đấy không?
- Hơn bảy trăm năm rồi, còn chứng tích gì nữa. Tôi tin vào cảm xúc của mình.
2. Tôi không phải người con gái vô danh như mọi người tưởng. Yếm là tên anh đặt cho tôi. Điều đấy có thể đúng. Tôi bán hàng nước bên bến sông đã suốt mấy thu, ai cũng gọi là cô hàng nước bến Bạch Đằng.
Những buổi chiều đỏ ối.
Cha mẹ, người thân rụng rời vì vó ngựa quân chinh phạt. Cô gái như không đứng lên được nữa. Nỗi đau nhỏ nước mắt làm cho nước sông Đằng thêm khó uống. Hẳn có ngày quân giặc qua đây, chờ ngày thác nợ với cha mẹ.
Mờ sáng ngày mùng 8 tháng 3 năm Mậu Tý (1288) đoàn quân viễn chinh đi vào sông Bạch Đằng. Xin làm một lễ gọi là ngày tống tiễn, ngày giỗ mẹ cha sao cho chu tất.
Những thuyền giặc đỏ cháy.
Tiếng binh sĩ kêu vang.
Bến sông yên bình, một hàng nước.
Cô hàng nước đã không còn ở chỗ đó, nàng đã thu xếp chuẩn bị một tay hợp chiến.
- Ta đã thấy ngươi ở đây. Đừng chạy.
Một tên tướng Nguyên kịp xô lên bờ, hắn chặn lối đi của nàng. Hình dung hắn to lớn, khiếp sợ.
- Người đừng hòng thoát.
Hắn đưa gươm trỏ vào tim nàng.
Nàng không trả lời, nàng không chạy. Đôi mắt nàng nhìn về phía sông Đằng. Bình thản.
- Ta là hộ vệ của tướng Phạm Nhan, ngài hối tiếc đã nói cho ngươi điều cơ mật.
Nàng cười.
Đôi mắt nàng mãn nguyện, lưỡi gươm giặc đã ở rất gần, kề ngay sát tim nàng. Nàng cất tiếng, giọng êm như nước sông Đằng ngày yên gió lặng.
- Ngươi hãy ra tay đi.
Nàng khoan thai đi đến mép sông, nhìn về phía bờ xa, một chốc nữa tất cả binh thuyền viễn chinh sẽ cháy hết, những tên tháo chạy lên bờ cũng sẽ bị bắt. Nàng mỉm cười, mãn nguyện. Ánh trời sáng rực, nước sông Đằng sẽ tắm mát cho nàng, máu nàng sẽ hòa với máu sông Đằng. Hưng Đạo Vương sẽ có ngày quay lại, ngài sẽ biết tên nàng.
Lưỡi gươm thấu từ đằng sau, xuyên qua tim nàng.
Nước sông Đằng đỏ lừ.
Những hàng cây, bờ quán xa dần, nàng không thấy gì nữa, chỉ có nước sông một mầu rực rỡ đang tuôn chảy về Đông. Nơi đó là biển rộng.
Tôi lặng người, cảm giác như một lưỡi dao đang xuyên qua ngực, khó thở. Bóng áo trắng chập chờn ẩn hiện trước mặt, một màn sương khói không thấy rõ chân tơ kẽ tóc.
- Nàng vẫn còn ở đây?
- Hơn bảy trăm năm rồi, ta vẫn ở đây nhìn ra bến sông Đằng, chỉ có lòng người đôi chút hồ nghi.
Tôi cung kính thắp ba nén nhang cắm lên ban thờ. Người ngồi đó uy nghi, ánh mắt bình thản. Phật Bà bình yên nhìn du khách đương thành tâm lễ bái. Tôi mở quyển sử địa phương, trang viết về miếu Vua Bà:
Sau khi trừ được giặc Nguyên, giết được Phạm Nhan, quay về khúc sông cũ, thấy bà hàng nước đã qua đời, Trần Hưng Đạo đã cho lập miếu thờ bà ngay trên nền quán hàng cũ, xin vua Trần truy phong là “Thiên Hương Ngọc Trinh công chúa”. Từ đó về sau nhân dân trong vùng thường đến cầu phúc, cầu lộc ứng nghiệm vô cùng. Già trẻ ai nấy đều tôn gọi bà là Vua Bà. Miếu ấy vẫn còn, gọi là miếu Vua Bà.
Kết Thúc (END) |
|
|