Hắn lại dẫn ông Pù leo lên triền núi Pú Nhung.
Triền núi lác đác đám cỏ gianh cháy vàng. Gió cuối ngày đuổi nhau chạy ràn rạt quất vào hốc đá. Mồ hôi loang đẫm lưng áo và ống tay. Hắn lấy mũ nồi đen cũ cáu bẩn trên đầu, vo lại lau mặt và cổ. Tóc hắn cứng lởm chởm rễ tre bạc sám, hai mắt đỏ lồi, mặt đầy gân như mặt ngựa. Có hôm đang nắng tháng năm, cỏ gianh khô quắt, hắn đến bảo: “Tao nghĩ kỹ rồi! Tao đưa mày đi nhận mộ mẹ mày”. Ông mừng rỡ đi theo hắn. Đang ngày đông, mưa rét lướt thướt, hắn đến bảo: “Tao nghĩ kỹ rồi. Hôm nay, tao sẽ chỉ nơi chôn mẹ mày”. Mừng quá! Ông đội mưa rét đi luôn. Đang đêm, hắn đến nói: “Tao không ngủ được. Bà Sùng hiện về cứ nhìn tao trách móc rồi bảo: Chuyện xưa xa rồi. Ta không giận anh nữa đâu. Sao anh không cho mẹ con ta gặp nhau? Tao nghĩ kỹ rồi. Đêm nay, tao không đưa mày đến nơi chôn mẹ mày, thì tao chết không nhắm mắt”. Ông mừng quýnh quáng, ra khỏi nhà theo hắn ngay trong đêm...
Bao nhiêu lần như thế, tương tự như thế! Nhưng cứ đến triền núi này - triền núi Pú Nhung, nơi có cây đào ngày xưa Vừ - em ông bị chúng treo lên, bắn, thì hắn không chịu đi nữa... Lạ thế!
Hắn bảo ông quay về... và nơi chôn mẹ ông vẫn còn trong màn đêm mênh mông bí ẩn. Ông van xin hắn! Ông dọa nạt hắn! Hắn cứ lạnh lùng. Mặt tối om. Câm lặng như đá.
... Ông nhận ra nơi đây ngày xưa có cây đào cổ thụ to cao như cái nhà đất của người Mông, cành xùm xòa, chi chít nụ, hoa phớt hồng. Bây giờ rừng đào mất. Cây đào cổ thụ cũng không còn nữa. Mộ em Vừ đã cất bốc đưa về yên nghỉ ở Nghĩa trang Tuần Giáo. Nơi đây chỉ thấy một đám đất màu gan gà chẳng cỏ nào mọc nổi. “Khổ thân em tôi!”. Ông thương em Vừ, thương cái thân ông và cũng thương cái thằng già mặt ngựa đang ngồi bên cạnh. Rõ ràng hắn cũng có nỗi đau, nỗi niềm trắc ẩn gì đó nên dẫn ông đi đến đây hắn lại thôi. Ông giơ tay quệt nước mắt đang ứa ra chảy xuống hai gò má nhăn nheo, thổn thức.
- o O o -
... Dạo ấy, ta sắp mở Chiến dịch Tây Bắc nên bọn địch ở Tuần Giáo đi càn vào Pú Nhung dễ như đàn bà đi chợ. Tây trắng, Tây đen ở đồn Phiêng Ty cũng kéo ra phục kích đón lõng người Mông tiếp tế cho Việt Minh.
Bọn trẻ con bản Pú Nhung thấy Vừ bỗng nhiên vắng mặt, không ở bản. Chúng kháo nhau: Vừ đã vào rừng. Vào rừng lâu chẳng về, bà Sùng không đi tìm con thì chỉ có theo Đội du kích của Sùng Phái Sinh thôi. Em Vừ nhỏ con, mười lăm tuổi bé chỉ bằng đứa mười ba. Vừ ít nói, hơi rụt rè, nhưng nhảy lò cò giỏi, thổi khèn hay và ham đánh cù. Trẻ con ở Pú Nhung rất phục tài, bảo: cù của Vừ biết lúc quay lúc ngủ, khi đã ngủ thì lịm như đứng im không chịu đổ. Vừ có con Vàng đi đâu, ở đâu cũng như hình với bóng. Đi rừng, Vàng loăng quăng chạy đằng trước, tụt đằng sau, hít ngửi, có khi còn sủa váng vách núi.
Đội du kích bị vây kín trong rừng Lim, mấy chục ngày không gạo, muối và hoàn toàn mất liên lạc với tỉnh. Bọn Tây trắng bảo: “Việt Minh ở Tuần Giáo không chết đói thì cũng thành người rừng”. Chưa thành người rừng. Nhưng các đội viên du kích mặt xanh như lá ướt, có người bụng đã phù thũng. Sau này mới biết mọi việc tiếp tế Đội du kích đều do mẹ con bà Sùng. Bà nấu xôi hoặc đồ mèn mén lấy lá chuối rừng gói lại và đổ gạo vào quẩy tấu, tay dao, vai gùi như người đi rừng. Vừ đón mẹ ở nương nhà mình, chuyển tiếp vào rừng Lim.
Đội du kích không bị chết đói. Đêm đêm, họ vẫn mò về quấy nhiễu đồn Phiêng Ty. Súng kíp cũ kỹ hai nòng bắn tắc bọp, tắc bọp... rồi chạy. Cái cách đánh đấm cò con ấy cũng làm bọn Tây điên đầu mất ăn mất ngủ. Chúng nghi ngờ người Mông nuôi Việt Minh. Chúng sục vào từng nhà thu hết muối. Hết muối thì không đánh du kích cũng lả người, kiệt sức. Pù ở trong hang xanh xao, tay cầm khẩu súng còn run. Anh em khác ăn củ nâu thay cơm răng xỉn như nhuộm chàm. Địch lại cấm dân bản không được đi rừng. Chúng vác súng đi ngênh ngang bắn chết toi những con vật chạy trước mặt, sừng sộ dọa: “Chúng tao sẽ bắn đứa nào tiếp tế Việt Minh như bắn con dê, con ngỗng này.” Ban đêm, bọn lính khố đỏ mai phục các đường ngang lối tắt, rình bắt những ai ra khỏi bản. Có nhà chịu không nổi dắt díu nhau bỏ bản làng trốn đi nơi khác sống. Đội du kích Tuần Giáo bị tách khỏi dân, như cá tách khỏi nước.
Bà Sùng không có mẹo nào ra khỏi bản. Bà đang đứng ngồi không yên, lo lắng cho hai con trai và Đội du kích ở trong hang thì con Vàng về. Con Vàng nằm ệp xuống đất, bò lết đến cửa và lách qua liếp vào nhà. Cái mũi ướt dũi dũi vào chân bà Sùng. Bà nhận ra con chó yêu của con mình và gói quả mắc mật đang buộc ở cổ nó. Con Vàng ngước đôi mắt ướt rượt nhìn bà như cầu cứu. Linh tính tình mẫu tử mách bảo bà: Thằng Vừ hiếu thảo đang kêu với mẹ rằng, ở trong hang hết muối. Bà hớt một thìa gỗ to mèn mén ở chảo cho con Vàng ăn. Bà nghĩ ngợi một lát rồi vét hết số muối giấu trong quả bầu khô cũng chỉ được một dúm. Ít còn hơn không, bà gói lại buộc vào cổ con Vàng, bảo: “Lần sau mày cứ về, tao nghĩ cách kiếm muối cho”. Con Vàng nhìn bà đầy biết ơn rồi khẽ khàng chui khỏi cửa vào rừng. Từ hôm đó, bà Sùng chỉ chuyên đi gom muối trong bản, lấy ngô, đỗ, gạo nương nhà mình đem đổi muối. Một dúm muối cũng đổi, vài hạt muối cũng đổi, bà âm thầm chờ con Vàng về mang đi.
Người đằng mình trong hang đói ăn, nhạt miệng đã có người đánh liều mò về bản lấy gạo muối, bị rơi vào ổ phục kích. Không khí căng thẳng ngột ngạt trùm xuống núi rừng Pú Nhung. Bà Sùng sốt ruột, lo sợ. Hai đứa con trai mà liều mò về bản thì cũng bị bắn chết thôi! Bà lại đồ mèn mén gói lá chuối bỏ vào quẩy tấu, giấu một ít muối trong người. Sáng sớm, Pú Nhung chìm trong biển mây mù. Người người còn đang nằm co trong ổ cỏ mùa xó khô thì bà lặng lẽ rời khỏi nhà. Dao quắm cầm tay, lưng gùi quẩy tấu như người đi nương sớm mang lương thực vào hang cho Đội du kích.
Chuyến đầu tiên chót lọt. Chuyến thứ hai không bị lộ. Chuyến thứ ba thì bà Sùng bị địch bắt ngay sau khi rời khỏi bản. Một thằng giọng ngái ngủ, khê nồng bảo bà: “Mày đi rừng mà nấu mèn mén nhiều thế. Một mình mày ăn khoẻ bằng 20 người?”. Đã rơi vào tay bọn địch ở đồn Phiêng Ty thì chỉ có nước chết. Bà lặng lẽ không van xin, không kêu la, chịu đựng mọi cực hình tra tấn dã man.
Dẫn bà đến từng nhà trong bản, chúng bảo: “Chỉ mày cần nói tên một người tiếp tế cho Việt Minh là chúng tao tha ngay”. Bà Sùng lắc đầu. Người Mông là thế. Đã theo ai là theo đến cùng. Chúng dong bà đến chỗ đất trống ngoài bìa rừng. Thằng chỉ huy là Tây da trắng râu quai nón sai lính bắc chảo gang, nổi lửa. Hai thằng giữ tay, hai thằng giữ chân, một thằng cầm dao găm mổ bụng, moi gan bà Sùng. Một thằng thái từng miếng gan người không một chút ghê tay rồi bỏ vào chảo gang để xào. Mấy thằng Tây đen không dám ăn, quay mặt đi và khóc.
Thằng Tây râu quai nón lại gọi thằng thông ngôn đến nói xì xồ, xì xồ. Lính khố đỏ người Thái người Mông nghệt mặt nghe, chẳng hiểu chi. Thằng thông ngôn nghe, mặt cũng đần ra rồi ồ lên một tiếng ra điều đã chợt hiểu:
- Thằng này. - Nó chỉ vào thằng Xá. Rồi lại chỉ tiếp. - Thằng này và thằng này nữa. Quan lớn bảo: chúng mày đem cái xác mụ Việt Minh người Mông to gan này đem chôn thật xa. Phi tang ngay, giấu thật kỹ, dân bản biết là chúng nó khiêng xác đến đồn bắt đền đấy.
Thằng Xá run rẩy, lóng ngóng cầm tay bà Sùng kéo lên lại tuột. Một cái tát nảy đom đóm mắt làm Xá hết sợ, nó túm tóc bà Sùng kéo đi. Hai thằng kia cầm hai cái xẻng quân dụng bước theo...
Ba thằng vừa khuất khỏi lùm mây móc thì gió lặng. Cây lá im phăng phắc. Không khí nặng nề, ngột ngạt đến tức thở. Và đột nhiên, sét đánh sáng lòa giữa trời quang mây tạnh. Chớp loằng ngoằng chói mắt. Quan, lính địch thất kinh chạy tán loạn. Người Mông ở Pú Nhung thì ra hết ngoài sân đứng ngửa mặt nhìn trời. Họ biết sét chỉ đánh vào đỉnh núi Pú Nhung thôi. Lâu lắm rồi mới có sét đánh giữa ban ngày. Sét đánh giữa ban ngày là động rừng...
Quả nhiên, cháy rừng thật và cháy cả bản. Bọn Tây sau một hồi định thần bắt đầu phóng hỏa. Thằng nào cũng cởi trần, da đỏ như gà chọi, khùng như trâu điên, huơ đuốc. Lửa đỏ rực, khói ngút trời xanh. Bọn Pháp đốt rừng, đốt cả bản Pú Nhung.
Bà Sùng hy sinh. Phong trào cách mạng ở Tuần Giáo tạm thời lắng xuống. Không khí nặng nề, tang tóc bao trùm xuống Pú Nhung. Nhưng ở các bản ngoại thị Tuần Giáo đã lác đác có thêm người vác dao quắm trốn nhà vào rừng. Bà Sùng hy sinh là mất một đầu mối liên lạc. Vừ phải làm thêm cả công việc của mẹ, làm cầu nối từ rừng Lim qua Pú Nhung ra tận Tuần Giáo. Vừ thường phải đi ban đêm, đi cắt rừng cùng con Vàng.
Vừ bị bắt khi đang trên đường từ Tuần Giáo về Pú Nhung. Bọn địch trói giật cánh khuỷu Vừ, nối thêm một đoạn dây gai cho thằng Xá dong đi như dong ngựa. “Mày muốn sống thì dẫn chúng tao đi tìm Việt Minh.” Vừ gật đầu nhận lời. Bọn lính súng ống lăm lăm, hí hửng bước theo. Vừ dẫn đi lòng vòng suốt cả ngày. Lên đèo. Xuống núi. Lội suối. Chui qua bụi mây gai. Lách qua đám lá han. Đến chỗ nọ không có Việt Minh lại dẫn đến chỗ kia. Con Vàng cứ lẩn quất theo sau, lúc chui trong bụi rậm, lúc len lén đi ngang ngang, cách một đoạn. Thằng Xá đã mấy lần giương súng định bắn thì con Vàng lại chui mất hút vào lùm cây. Nắng tháng sáu, quan, quân địch đi cả ngày mệt, khát chẳng thấy bóng dáng Việt Minh đâu. Dụ dỗ ngon ngọt chẳng nghe, dọa nạt đánh đập mãi Vừ cũng không sợ. Trước sau, Vừ một mực không khai nơi ở của Đội du kích. Vừ hiền lành mà gan lỳ. Vừ khai ra thì cơ sở cách mạng Tuần Giáo vỡ ngay, đội du kích chỉ có vài khẩu súng kíp, còn lại là dao đi rừng và nỏ sẽ bị xóa sổ. Thất vọng và căm tức thằng bé ranh con 15 tuổi đánh lừa, chúng treo Vừ lên cây đào cổ thụ ở trên sườn núi Pú Nhung. Bắn!...
Hôm ấy, sét lại đánh vào đỉnh núi Pú Nhung. Chớp sáng thành dây nhằng nhằng giữa trời nắng nóng. Nhưng chỉ có một tiếng sét nổ ù tai...
- o O o -
Ông Pù không dám nghĩ thêm về cái chết của Vừ và tiếng sét trên đỉnh núi nữa. Em ông chết thảm lắm! Thương Vừ quá! Cả ngày Vừ bị đánh đập, bị nhịn đói, nhịn khát. Vừ chết lúc đang đói. Con ma nó cũng đói. Bỗng nhiên, máu trong người ông chạy rần rật dồn lên mặt. Ông chồm lên người Xá. Hắn đổ gục. Ông chộp lấy cổ hắn:
- Mày! Chúng mày... chúng mày đã diệt sạch nhà tao!
Hắn không chống cự. Người mềm nhũn, hai tay buông xuôi, chờ chết. Nhưng chính lúc ấy thì vòng ngón tay ông lại nới lỏng. Ông ngồi ệch sang bên thở hổn hển. Trời đất tối sầm trước mặt ông. Hắn từ từ ngồi dậy. Bất chợt, hắn khóc rống lên. Hắn nói liên hồi kỳ trận:
- Pù ơi! Mày bảo chúng tao diệt sạch nhà mày. Nhưng tao cũng bị diệt rồi, có sung sướng hơn đâu. Năm mươi năm nay tao sống không vợ, không con, không gia đình. Tao sống mà như người chết rồi.
Hắn khóc và kể lể:
- Mày không biết đâu, Pù à! Những thằng khác bắn em mày, tao cũng bắn. Tao không ngắm đâu, đã chắc gì viên đạn của tao trúng đích. Em Vừ mày chết rồi, nhưng thằng chỉ huy mũi đỏ không cho bọn tao rút. Nó bắt tao và một tiểu đội mang súng tốt ở lại ẩn nấp phục mấy ngày chờ bắt người đến lấy xác Vừ. Pù ơi! Tao không nói dối đâu! Con Vàng chẳng chịu bỏ đi. Nó cứ lảng vảng quanh đó thỉnh thoảng lại sủa toáng lên. Trời thì nóng, nước uống thì thiếu, bọn lính chúng tao ngày ăn không ngon, đêm mất ngủ vì con Vàng quấy nhiễu. “Mẹ nó. Tao bắn.” Mày không biết đâu, Pù à! Tao kê súng nhằm con Vàng: Tòm... Tòm. Hai tiếng súng rơi chìm vào gió. Con Vàng đã chui mất hút vào lùm cây khác. Rồi nó lại sủa: Gâu... gâu... Tao cầm súng đuổi theo. Mải rượt, ngắm, bắn con Vàng nên tao đạp phải hòn đá cập kênh. Tao lăn hàng chục vòng xuống nương thuốc phiện. Gốc nứa tươi dân bản phạt nhọn để rào nương chọc trúng chim tao gần như đứt rời. Máu chảy lênh láng. Đồng bọn rứt cỏ dấu, nhai đắp vào rồi hò nhau khiêng tao về nhà thương Tuần Giáo chữa. Nhưng người tao hỏng luôn từ đó. Tao không phải đàn ông mà cũng chẳng ra đàn bà. Tao sống như người chết rồi. Tao cứ nghĩ, hồn vía em Vừ mày lảng vảng ở quanh đó trả thù? Pù ơi! Em Vừ mày có trả thù tao không?
Ông thấy hắn khóc thật. Và ông cũng nhận ra lúc này hắn nói thực lòng. Năm mươi năm rồi hắn sống chòi chọi một mình, không vợ không con. Hóa ra, nửa thế kỷ rồi hắn sống lay lắt, dở người dở ngợm, ôm mối hận thù dai dẳng là vì vậy. Tự nhiên ông thấy thương hắn. Ông muốn an ủi hắn một câu, nhưng không nói nên lời.
Hắn đứng dậy, chân lảo đảo bước. Hắn xuống núi giống như bao lần trước, lên rồi lại xuống. Lưng hắn đã còng. Bóng đổ xiêu đổ vẹo xuống đường mòn dốc đầy đá tai mèo lởm chởm và cành gai dại. Lại một lần nữa đi tìm mộ mẹ ông, hắn bỏ rơi ông giữa đường. Chiều tàn rồi, cũng phải đứng dậy lần đường về nhà thôi. Ông đã già, xuống núi khó khăn lắm! Miệng thở hồng hộc muốn đứt hơi, ngón chân toãi ra bám đất bật máu. Hắn cũng già lắm, tay chân còn lẩy bẩy hơn ông. Đường đất đá dốc thế này, không khéo hắn ngã thì lăn xuống chân núi, còn gì là xương với thịt?
- o O o -
Ngày ấy, thật ra ông chỉ biết chúng bắt và bắn Vừ ở trên núi Pú Nhung, nhưng cụ thể chỗ nào thì chẳng biết. Dãy núi cao sừng sững, dài dằng dặc, trùng điệp, lúc đó bọn địch đang làm chủ. Chỉ đến hai tháng sau, chúng co về đồn Phiêng Ty, lại được một người lính chạy về đằng mình mách bảo thì ông mới tìm được Vừ. Thật lạ kỳ! Người Vừ khô nỏ, đầu ngẩng cao, đung đưa nhẹ dưới cành đào. Chẳng lẽ trên núi nắng nóng đến mức hong khô thân xác Vừ? Hay là hồn thiêng của Vừ kêu khóc mà đất trời thương giữ cho người Vừ nguyên vẹn. Hay sét đánh giữa ban ngày làm thân xác Vừ khô nỏ? Ông đỡ khô xác Vừ, cắt ba bốn nút dây gai, hạ em xuống và chôn cạnh gốc cây đào. Chôn em xong ông mới thấy con Vàng cũng nằm phủ phục, chết gần đó. Thân xác con Vàng cũng khô cong như bị sấy trên than hồng. Ông đào thêm một hố nhỏ, chôn luôn con Vàng bên cạnh mộ Vừ.
Thời kỳ đó, ta đang chuẩn bị vào Chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Bọn địch càn quét, khủng bố dữ dội nhưng rất hoang mang. Không còn đường lùi nữa! Ôm súng trong rừng là chờ chết và sẽ chết thật. Bà Sùng và em Vừ hy sinh như tiếp thêm sức mạnh cho dân bản Pú Nhung, cho Đội du kích Tuần Giáo. Bộ đội dưới xuôi lên đông lắm cùng du kích bao vây đồn Phiêng Ty. Cái đồn Phiêng Ty bị nhổ phăng. Ông cầm súng đi tìm thằng Tây da trắng râu quai nón, nhưng chẳng thấy. Ông đi tìm thằng chỉ huy người Mông mũi đỏ, nó cũng biệt tăm tích. Chẳng biết chúng đã chuồn trước hay chết ở đâu đó rồi. Pú Nhung hết giặc, người người lũ lượt về bản. Thừa thắng, ta đánh tràn ra giải phóng luôn cả vùng ngoại thị Tuần Giáo và tiến dần lên Điện Biên.
- o O o -
Đêm ấy, ông Pù không ngủ.
Ông đang trằn trọc vì chuyến đi tìm mộ mẹ lúc ban chiều lại dở dang thì Xá cho người gọi ông đến gặp hắn gấp. Lại chuyện gì nữa đây? Ông lẩm bẩm và khoác cái áo bộ đội cũ lên vai ra khỏi nhà. Chẳng lẽ hắn gọi ông đi một chuyến mới trong đêm tối đất tối trời?
Nhà hắn ở cuối bản, bé, thấp như cái chuồng bò. Hắn sống một mình. Đêm tối, hắn cứ vật vờ đi từ đầu bản về cuối bản đến tận khuya. Hắn lầm lì, ít nói, chẳng ai hiểu trong bụng hắn đang nghĩ gì. Nhưng có lúc, tự nhiên hắn khóc ời ời lên như cha chết, mẹ chết. Người ta bảo hắn lẩn thẩn. Có người bảo hắn điên.
Ông đến.
Hắn nằm ngửa trên cái chõng tre cũ bóng mồ môi. Người nhà hắn đến từ trước đang khêu ngọn đèn dầu trẩu to hơn. Lửa sáng xanh lè, chập chờn bóng người như ma trơi. Hắn thở khò khè, nặng nhọc. Hắn vẫy tay ra hiệu cho ông lại gần:
- Pù... ơi! Mày tha...a tội cho ta...o.
Tiếng hắn nhỏ dần. Con chim sắp chết tiếng kêu thương, con người sắp chết lời nói thật. Ông hốt hoảng lo hắn chết. Hắn gồng mình, cố há miệng:
- Pù... ơi! Mộ mẹ mày... ở...ở...ở...
Ông vội nâng đầu hắn lên. Hắn hụt hơi, không nói được nữa. Nước mắt hắn ứa ra lăn xuống hai má xương xẩu, già nua. Hắn rùng mình ngắc một cái. Lưỡi cứng lại và đầu hắn nghẹo sang một bên.
Mắt ông nhòa mờ, nở bùng hoa cà hoa cải. Nhưng ông vẫn còn kịp nhìn thấy khuôn mặt hắn rạng ra. Mặt hắn không tối om như lúc ban chiều.
Kết Thúc (END) |
|
|