Bí Danh:
Mật Mã:
Đăng Ký / Register
Tên Truyện   Tác Giả   Truyện hay Tác Giả
VietSingle - Tìm Bạn Chat - Trò Chuyện Hát Karaoke Xem Phim Video Nghe Nhạc Music Nấu Ăn Truyện & Thơ Từ Điển
Mục Lục
Nghe Truyện Ngắn Audio
Nghe Truyện Dài Audio
Nghe Truyện Ma Audio
Truyện Cổ Tích Video
Học Sinh Cười
Truyện Cổ Tích
Truyện Cười
Truyện Dài
Truyện Học Trò
Truyện Kiếm Hiệp
Truyện Ma (Kinh Dị)
Truyện Ngắn
Truyện Quỳnh Dao
Tất Cả Thi Sĩ
 
Truyện Dài » Khóc Lên Đi, Ôi Quê Hương Yêu Dấu ( Phần II ) Tác Giả: Alan Paton    
    Jarvis ngồi trên chiếc ghế bành của con, còn bà vợ và nàng dâu trở về nhà ông bà Harrison. Sách, sách, và sách nữa, chưa thấy nhà nào có nhiều sách như vậy. Trên bàn la liệt giấy tờ, thư từ và sách nữa.
    “ Thưa ông Jarvis, xin mời ông lại diễn thuyết tại Giám lý hội (1) Parkwold”
    “ Thưa ông Jarvis, chúng tôi lấy làm hân hạnh được ông lại diễn thuyết ở câu lạc bộ Thanh niên Anglican Sophiatown”
    “Thưa ông Jarvis, xin mời ông quá bộ lại tham dự cuộc thảo luận ở Đại học….”
    Không ông Jarvis không thể lại diễn thuyết ở một nơi nào cả.
    “ Thưa ông Jarvis, chúng tôi hân hạnh mời ông lại dự buổi họp hàng năm của hội Ki Tô và Do Thái…”.
    “Ông bà H.B. Singh hân hạnh mời ông bà Jarvis lại dự tiệc cưới con gái đầu lòng của chúng tôi, cô Sarajini”
    “ Xin mời ông bà Jarvis quá bộ lại dự dạ hội Toc. H ở thung lũng Van Wyk, cho buổi dạ hội được thêm long trọng…”
    Không ông Jarvis không thể nhận những lời nhã nhặn đó được.
    Trên tường bên cạnh các tủ sách, treo ba tấm hình: hình Chúa Ki Tô trên thánh giá, hình Abraham Lincoln, hình ngôi nhà trắng ở Vergelegen và bức tranh vẽ một phong cảnh đồng cỏ mùa đông, lơ thơ mấy gốc liễu trụi lá bên dòng nước.
    Ông Jarvis đứng dậy bước lại nhìn các tủ sách. Riêng về Abraham Lincoln đã có mấy trăm cuốn. Một người mà sao có thể làm đề tài cho bấy nhiêu tác phẩm, chứa đầy một tủ sách. Một tủ nữa chứa các sách về Nam Phi: cuốn Tiểu sử Rhodes của Sarah Gertrude Millin, cuốn về Smuts cũng của nữ văn sĩ đó, cuốn Tiểu sử Louis Botha của Engelenburg, rồi các sách nghiên cứu về các vấn đề chủng tộc, về loài chim Nam Phi, về Kruger Park và vô số các sách khác nữa. Một tủ thứ ba đầy những sách viết bằng tiếng Afrikaans, nhưng đọc nhan đề ông chẳng hiểu gì cả. Rồi đây nữa sách về tôn giáo, về Nga Sô, về vấn đề phạm pháp, về tội nhân, có cả những tập thi tuyển nữa. Ông kiếm Shakespeare. Có cả Shakespeare.
    Ông trở về ngồi ở chiếc ghế bành, ngắm nghía hồi lâu bức hình Chúa Ki Tô trên thánh giá, hình Abraham Lincoln, hình ngôi nhà Vergelegen và tấm tranh vẽ cành liễu bên dòng nước. Rồi ông kéo mấy tờ giấy lại gần.
    Tờ thứ nhất là một bức thư của người thư ký câu lạc bộ Thanh niên Phi ở Claremont, đường Gladiolus gởi cho con ông, tỏ ý tiếc rằng con ông không lại dự buổi hội họp hằng năm được, và báo tin rằng con ông lại được bầu làm Hội trưởng một khoá nữa. Cuối thư có đoạn cú pháp kỳ cục này:
    “ Cuộc họp hằng năm giao cho tôi cái việc mừng ông về điều đó, và đa tạ ông rất nhiều về tất cả thời gian ông đã hội họp với chúng tôi, về các vật mà ông đã tặng cho Hội. Nếu không có ông dự thì Hội này làm sao mà tổ chức được, đó là điều bí mật mà đa số chúng tôi không hiểu. Vì vậy chúng tôi nhất định bầu ông làm Hội trưởng một khoá nữa.
    Tôi xin lỗi ông vì dùng tờ giấy này, nhưng xấp giấy viết thư của Hội chúng ta đã bị mất rồi do những hoàn cảnh bất ngờ.
    Tôi xin trân trọng chào ông.
    Washington Lefifi ” (2)
    Còn tờ giấy kia có nét chữ của con ông. Chắc là những đoạn trong một bài hoặc một cuốn nào đó, vì hàng đầu là cuối một câu và hàng cuối là một câu còn dở dang chưa hết. Ông tìm không thấy những trang còn thiếu, bèn đọc những trang đó vậy:
    “ Có thể chấp nhận được. Việc mà chúng ta đã làm khi tới Nam Phi có thể chấp nhận được. Phát triển những nguồn lợi lao của ta nhờ nhân công tại đó, là điều hồi xưa có thể chấp nhận được. Dùng những người không chuyên môn vào một công việc không chuyên môn là điều hồi xưa có thể chấp nhận được. Nhưng lấy cớ là những việc không chuyên môn, mà không đào tạo những thợ chuyên môn thì là điều không chấp nhận được.
    “ Khi chúng ta tìm thấy mỏ vàng, phải kiếm nhân công cho mỏ, đó là điều chấp nhận được. Lúc đó lập trại cho thợ mỏ, bắt vợ con họ phải ở xa châu thành, là điều có thể chấp nhận được. Chấp nhận được vì hồi đó chúng ta chưa biết gì cả và chúng ta còn thí nghiệm. Nhưng ngày nay chúng ta đã hiểu biết rồi thì điều đó không thể chấp nhận được nữa. Khi chúng ta biết rằng như vậy, là làm gia đình họ tan tành, mà chúng ta vẫn tiếp tục làm thì điều đó không sao chấp nhận được.
    “ Nếu có sự thoả thuận của thợ thuyền, thì sự khai thác tài nguyên là điều chấp nhận được. Nhưng khai thác mà làm hại cho thợ thuyền, thì là điều không thể chấp nhận được. Không thể chấp nhận được cái việc đào vàng, chế tạo sản phẩm, hoặc cấy cầy ruộng đất, nếu việc khai thác, chế tạo, trồng trọt đó cần có một chính sách duy trì cảnh khốn khổ của thợ thuyền. Không thể chấp nhận được sự gia tăng tài sản của một số người, nếu họ chỉ có thể làm giầu trên lưng người khác. Sự thực chỉ có một danh từ để gọi các hành động ấy, danh từ “ bóc lột ”. Cái đó có thể chấp nhận được hồi chúng ta mới tới xứ này, vì lúc đó chúng ta không thể lường được, sự bóc lột đó đã làm cho đời sống cộng đồng của dân bản xứ tan nát ra sao, đời sống gia đình của dân bản xứ trụy lạc ra sao, họ hoá ra nghèo khổ, hà tiện ra sao, gây tội lỗi ra sao. Nhưng bây giờ chúng ta đã thấy những tai hại đó rồi, thì việc đó không thể chấp nhận được nữa.
    “ Hồi xưa có thể chấp nhận được cái việc bỏ thí sự giáo dục cho dân bản xứ, cho ai muốn cáng đáng thì cáng đáng. Nghi ngờ sự ích lợi của việc giáo dục dân bản xứ, là điều hồi xưa có thể chấp nhận được. Nhưng ngày nay đã có kinh nghiệm rồi thì điều đó không chấp nhận được nữa. Một phần do sự phát triển kỹ nghệ của ta, một phần do những nguyên nhân ngoài ý muốn của ta, hiện nay số dân bản xứ ở các thành thị đã rất đông. Xã hội thời nào cũng vì cái lợi của xã hội, nếu không phải vì những lý do khác. Lo việc giáo dục con em để dạy cho chúng biết trọng pháp luật, có những mục đích hợp với đời sống xã hội. Phải dùng cách đó chứ không cách nào khác. Vậy mà chúng ta vẫn để mặc, vài người Âu lưu tâm tới vấn đề muốn dạy dỗ dân bản xứ ở thành thị ra sao tuỳ ý, mà không giúp họ tiền và phương tiện để họ phát triển công việc của họ, cái đó không thể chấp nhận được. Vả lại, chỉ xét riêng về cái lợi của xã hội thì chính sách đó còn nguy hại là khác.
    “ Hồi xưa, việc tiêu diệt một bộ lạc, nó làm cản trở sự phát triển của xứ này, là điều có thể chấp nhận được, tin rằng sự tiêu diệt đó không sao tránh được là điều lúc đó có thể chấp nhận được. Nhưng ngày nay, thản nhiên nhìn một sự tiêu diệt như vậy, mà không kiếm cách thay thế nó bằng một cái gì khác, hoặc chỉ thay thế một chút thôi, để đến nỗi cả một dân tộc bị hủy hoại về thể chất và tinh thần, là một điều không thể chấp nhận được.
    “ Chế độ bộ lạc cổ truyền mặc dầu tàn nhẫn, dã man, mặc dầu có nhiều mê tín dị đoan, pháp thuật, cũng vẫn là một chế độ luân lý. Dân bản xứ chúng ta thời nay thành những kẻ phạm pháp, mãi dâm, nghiện rượu, không phải vì bản tính của họ như vậy, mà vì các chế độ trật tự chất phác, cái hệ thống tập tục, truyền thống của họ đã bị hủy hoại. Vậy xã hội văn mình của chúng ta, không thể trốn tránh được cái bổn phận thành lập cho họ một chế độ trật tự với những tập tục, truyền thống khác.
    “Đành rằng thời trước chúng ta hy vọng rằng dùng một chính sách chia cách chủng tộc, thì điều đó có thể duy trì chế độ bộ lạc. Điều đó hồi xưa có thể chấp nhận được. Nhưng chúng ta chưa bao giờ theo chính sách đó một cách đúng đắn hoặc thành tâm. Chúng ta để ra một phần mười đất đai cho bốn phần năm dân số. Như vậy chúng ta làm cho – có người bảo rằng chúng ta cố ý làm cho – nhân công bản xứ nhất định phải đổ dồn về các châu thành. Thế là chúng ta phải chịu hậu quả của tính ích kỷ của chúng ta.
    “ Không nên làm cho vấn đề có vẻ kém quan trọng đi. Không nên gây cảm tưởng rằng giải quyết vấn đề đó là việc dễ. Không nên coi thường những nỗi lo lắng, sợ sệt nó bao vây chúng ta. Nhưng dù chúng ta lo lắng, sợ sệt hay không thì chúng ta cũng không được trốn tránh vấn đề luân lý, vì chúng ta những người theo Ki Tô giáo.
    “Đã tới lúc….”
    Tới đó hết trang, Jarvis đương say mê đọc, kiếm đoạn tiếp nhưng coi hết các tờ giấy bừa bãi trên bàn, mà không thấy được thêm trang nào nữa. Ông đốt thuốc, kéo mấy tờ giấy lại gần mình và đọc lại.
    Khi đã đọc xong lần thứ nhì, ông vẫn tiếp tục hút thuốc, trầm ngâm suy tư. Rồi ông đứng dậy, lại đứng trước tủ chứa sách về Lincoln, ngó lên bức hình của bậc vĩ nhân đã ảnh hưởng lớn tới con ông như vậy. Ông nhìn qua nhan đề mấy trăm cuốn sách, đẩy miếng kính qua một bên, lấy ra một cuốn. Rồi ông trở về ngồi ở ghế bành, lật trang sách. Tới một chương nhan đề: Bài diễn văn nổi tiếng ở Gettysburg, một diễn văn mới đầu không ai để ý tới, rồi sau được coi là một trong những diễn văn quan trọng nhất của thế giới. Ông lật mấy trang mở đầu, tới bài diễn văn, rồi chăm chú đọc từ hàng đầu tới hàng cuối. Đọc xong ông lại hút thuốc, suy nghĩ miên man. Được một lát ông đứng dậy, đặt trả cuốn sách vào chỗ cũ, khép tủ lại. Nghĩ sao ông lại mở tủ ra, lấy cuốn sách bỏ vào túi, rồi đẩy tấm kính khép lại. Ông ngó đồng hồ đeo tay, gõ ống điếu vào lò sưởi để trút hết tàn thuốc, đội nón, cầm lấy chiếc can.
    Ông chậm rãi xuống cầu thang mở cái cửa đưa tới hành lang bi thảm đó. Ông dỡ nón ngó vết sẫm ở trên sàn. Ông không cố ý gợi lại mà tự nhiên hình ảnh em bé ở High Place hiện lên trong óc ông, một em bé chơi mấy cây súng bằng gỗ. Ông đi dọc theo hành lang, lơ đãng không nhìn thấy gì cả bước qua cái cửa mà mấy hôm trước thình lình thần chết đã ùa vô. Thầy cảnh sát chào ông, ông đáp lại bằng mấy lời bâng quơ chẳng có ý nghĩa gì cả. Ông lại đội nón lên, bước ra cửa rào. Ông do dự ngó hai phía đầu và cuối con đường cái. Rồi gắng sức bước đi. Thầy cảnh sát thở dài, vươn vai.
    
    1. Một giáo phái của Anh: Methodist.
    2. Giọng thư ngây ngô, vì người viết là một người da đen ít học.
    
    
    Bà Lithebe và Gertrude vô nhà rồi, bà Lithebe bèn khép cửa lại.
    - Tôi rán hiểu cháu, mà hiểu không nổi.
    - Con có làm gì bậy đâu?
    - Tôi không bảo rằng cháu làm bậy. Nhưng cháu không hiểu cái nhà này, không hiểu những người ở trong nhà này.
    Gertrude đứng, mặt bí xí:
    - Con hiểu chứ.
    - Hiểu thì tại sao cháu lại chuyện trò với hạng người như vậy.
    - Con đâu có biết rằng họ không phải là hạng người đàng hoàng.
    - Thế cháu không nghe cái cách họ nói, họ cười đấy ư? Không nghe họ cười một cách tầm phào, vô ý vô tứ đấy ư?
    - Con không biết rằng như vậy là bậy.
    - Tôi không bảo rằng như vậy là bậy. Tôi chỉ bảo họ cười một cách tầm phào vô ý vô tứ. Cháu không rán thành một người đàn bà lương thiện hay sao?
    - Con rán.
    - Hạng người đó không giúp được con sửa tính đâu.
    - Dạ.
    - Tôi không muốn rầy cháu đâu. Nhưng Umfundisi, anh cháu, chịu đau khổ như vậy đã là nhiều rồi.
    - Dạ.
    - Vậy thì đừng làm cho anh cháu đau khổ thêm nữa, nghe cháu.
    Gertrude nước mắt rưng rưng nói:
    - Tôi chỉ mong ra khỏi nhà này thôi. Ở đây cái gì làm cũng không được.
    - Này cháu, không phải chỉ ở đây mà thôi đâu, ngay ở Ndotsheni nữa, cháu cũng sẽ gặp những người cười một cách tầm phào, vô ý vô tứ.
    - Chính là ở đây. Chỉ ở Johannesburg này tôi mới gặp đủ chuyện phiền muộn. Tôi mong được về quê nhà cho sớm.
    - Sắp được về rồi đấy vì vụ đó ngày mai sẽ xử xong. Nhưng tôi lo ngại cho cháu mà cũng cho Umfundisi nữa.
    - Có gì đâu mà lo ngại.
    - Cháu nói vậy tôi mừng đấy. Tôi không có gì ngại cho con bé đó, nó có thiện ý, nó biết nghe lời. Nó muốn làm vui lòng Umfundisi. Mà ít nhất cũng phải vậy, vì Umfundisi săn sóc cho nó còn hơn cả cha đẻ ra nó nữa mà.
    - Nó cũng có lúc ăn nói vô ý vô tứ vậy.
    - Già này đâu có điếc, cháu. Nhưng nó chịu sửa đổi và mau có kết quả. Thôi, bỏ qua chuyện đó đi, không nói nữa. Nghe như có ai vô kìa.
    Có tiếng gõ cửa và một bà to lớn đẫy đà đứng ở cửa, thở hổn hển vì đi mệt. Người đó bảo:
    - Báo lại đăng nhiều tin dữ nữa.
    Nói xong đặt tờ báo lên bàn, chỉ hàng tít chạy chữ lớn cho hai người đàn bà kia coi: LẠI THÊM MỘT VỤ SÁT NHÂN NỮA Ở JOHANNESBURG - MỘT CHỦ NHÀ GỐC ÂU BỊ MỘT TÊN TRỘM BẢN XỨ BẮN CHẾT.
    Họ kinh hoàng. Hồi này những tít như vậy làm cho mọi người sợ. Tất cả những người da đen tôn trọng pháp luật cũng sợ. Có người yêu cầu các nhà báo bỏ chữ “ bản xứ ” trên các tít lớn đi, nhưng có người lại bảo che giấu sự thực bi thảm đó là điều vô ích.
    Người đàn bà đẫy đà đó bảo:
    - Vụ đó xảy ra đúng lúc này, lúc sắp tuyên án, thì thực là điều không may.
    Vì thím ta biết rõ vụ Absalom và lần nào cũng theo bà Lithebe lại nghe toà xử.
    Bà Lithebe bảo:
    - Quả là điều không may như thím nói.
    Bà nghe có tiếng lạch cạch ở cửa rào, vội liệng tờ báo xuống dưới một chiếc ghế bành. Kumalo và thiếu nữ bước vô. Hồi này ông lão yếu ớt, lẩy bẩy nên thiếu nữ phải cặp tay ông dắt đi. Họ vừa vô tới phòng thì lại có tiếng ai mở cửa rào, Msimangu bước vào, nhìn thấy tờ báo ở dưới chiếc ghế bành, lượm lên hỏi:
    - Ông ấy đã đọc chưa?
    Người đàn bà đẫy đà đáp:
    - Thưa Umfundisi, chưa. Đúng lúc này mà xảy ra cái vụ đó thì thật tai hại, phải vậy không?
    Msimangu đáp:
    - Quan Chánh thẩm này là một vị công minh. Nhưng quả là một điều không may. Ông ấy thích đọc báo, làm cách nào bây giờ?
    Bà Lithebe đáp:
    - Trong nhà chỉ có số báo này mà thím đây mới mang lại. Nhưng tối nay ông ấy qua Hội Truyền giáo dùng bữa, bên ấy có báo thì thế nào ông ấy chẳng coi.
    Msimangu bảo:
    - Chính vì vậy mà tôi qua đây. Thím dọn cho chúng tôi ăn bữa tối ở đây được không?
    - Chuyện đó dễ mà. Thức ăn không thiếu, nhưng thanh đạm lắm.
    - Thím tốt bụng quá, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi.
    - Ở đời thì phải giúp đỡ lẫn nhau chứ có gì đâu.
    - Và ăn xong chúng ta đi dự ngay buổi họp. Qua được tối nay, ngày mai thì khỏi lo, vì những ngày đi coi toà xử, ông ấy không có thì giờ coi báo. Xử xong rồi, ông ấy có đọc tin đó thì cũng chẳng sao.
    Vậy giấu tờ báo đi và mọi người ở lại ăn tối tại nhà bà Lithebe, xong rồi cùng qua giáo đường nghe một người đàn bà da đen nói về các khuynh hướng không màng thế tục của mình mà nguyện thành nữ tu sĩ, và được Thượng Đế giải thoát cho khỏi cái thị dục trong bản tính của mọi phụ nữ ra sao.
    Sau buổi họp, khi Msimangu đã ra về và Kumalo đã vô phòng riêng rồi, còn thiếu nữ thì đương sắp đặt chỗ ngủ trong phòng ăn, Gertrude theo bà Lithebe vô phòng của bà.
    - Con muốn thưa chuyện với má.
    - Cứ nói đi cháu.
    Bà khép cửa lại, đợi Gertrude nói
    - Má ạ, con nghe nữ tu sĩ da đen và con nghĩ có lẽ con cũng nên đi tu.
    Bà Lithebe sung sướng vỗ tay, rồi tỏ vẻ nghiêm trọng:
    - Tôi vỗ tay không phải vì tôi nghĩ rằng cháu phải đi tu, mà vì cháu có ý đó. Vì còn đứa con của cháu nữa, bỏ nó sao được.
    Gertrude rưng rưng nước mắt:
    - Chị dâu cháu có thể săn sóc nó hơn là chính cháu săn sóc cho nó nữa. Má biết, tính con nhu nhược, con cười nói vô ý vô tứ. Có thể cái đó giúp con thành nữa tu sĩ được.
    - Cháu muốn nói cái thị dục ấy ư?
    Gertrude cúi đầu đáp:
    - Dạ, chính cái đó.
    Bà Lithebe đưa hai tay ra nắm bàn tay của Gertrude.
    - Nếu vậy thì quý lắm. Nhưng người ta bảo không nên khinh xuất mà quyết định vội vàng. Chính cô ấy chẳng đã khuyên như vậy đấy ư?
    - Dạ, cô ấy có khuyên như vậy.
    - Thôi, chuyện đó chúng ta hãy giữ kín với nhau. Tôi sẽ cầu nguyện cho cháu và cháu cũng cầu nguyện nữa. Đợi ít lâu nữa, chúng ta sẽ bàn lại. Như vậy hơn phải không cháu?
    - Dạ, phải.
    - Thôi chúc cháu ngủ ngon giấc. Không biết việc đó sẽ thành không. Nhưng nếu thành thì ông lão sẽ được an ủi nhiều lắm.
    - Con chúc má an giấc.
    Gertrude bước ra khép cửa lại, tính đi về phòng mình thì bỗng nảy ra một ý, ngồi sụp xuống sàn, bên cạnh chỗ thiếu nữ nằm.
    Nàng bảo:
    - Cô muốn đi tu, cháu ạ
    Thiếu nữ đương nằm trong mền, ngồi nhỏm dậy hỏi:
    - Cực khổ lắm cô ạ.
    - Cực khổ lắm. Cô còn do dự. Nhưng nếu cô quyết tâm rồi, thì cháu săn sóc thằng bé giùm cô nhé?
    Thiếu nữ đáp, nét mặt hăng hái, nghiêm trang:
    - Chắc chắn rồi, chắc chắn cháu sẽ săn sóc cho em.
    - Săn sóc nó như con của cháu nhé?
    - Chắc chắn vậy, cháu sẽ coi nó như con.
    - Vậy trước mặt nó, cháu đừng ăn nói vô ý vô tứ nhé.
    Thiếu nữ rất nghiêm trang đáp lại:
    - Từ nay cháu sẽ không bao giờ, ăn nói vô ý vô tứ nữa.
    Gertrude nói:
    - Cô cũng vậy, sẽ không bao giờ ăn nói vô ý vô tứ nữa. Nhưng này, cháu nhớ rằng cô chưa quyết định đâu nhé.
    - Cháu xin nhớ.
    - Đừng nói với ai hết nhé. Nếu cô nói một đường làm một nẻo thì anh của cô sẽ rầu lắm đấy.
    - Cháu hiểu.
    - Thôi, chúc cháu an giấc.
    - Chúc cô an giấc.
    

Xem Tiếp Chương 9Xem Tiếp Chương 10 (Kết Thúc)

Khóc Lên Đi, Ôi Quê Hương Yêu Dấu ( Phần II )
  » Xem Tập 1
  » Xem Tập 2
  » Xem Tập 3
  » Xem Tập 4
  » Xem Tập 5
  » Xem Tập 6
  » Xem Tập 7
  » Đang Xem Tập 8
  » Xem Tiếp Tập 9
  » Xem Tiếp Tập 10
 
Những Truyện Dài Khác
» Liêu Trai Chí Dị
» Pie Đệ Nhất
» Thiên Thần Và Ác Quỷ
» Tuyết Bỏng
» Cuộc Đời Của Pi ( Phần II )
» Mao: The Unknown Story
» Con Lừa Và Tôi
» Trái Tim Không Cần Lý Lẽ
» Tình Ca Giáo Viên Miền Núi
» Cuốn Sổ Lớn
» Chuyện Tình New York
» Những Kẻ Điên Rồ Phải Chết
» Đau Thương Đến Chết ( Phần I )
» Hai Chị Em
» Giữa Cơn Gió Lốc
» Chỉ Một Lần Yêu
» Đi Qua Hoa Cúc
» Tình Trên Đỉnh Sầu
» Tôi Có Thể... Nói Thẳng Với Anh