Bí Danh:
Mật Mã:
Đăng Ký / Register
Tên Truyện   Tác Giả   Truyện hay Tác Giả
VietSingle - Tìm Bạn Chat - Trò Chuyện Hát Karaoke Xem Phim Video Nghe Nhạc Music Nấu Ăn Truyện & Thơ Từ Điển
Mục Lục
Nghe Truyện Ngắn Audio
Nghe Truyện Dài Audio
Nghe Truyện Ma Audio
Truyện Cổ Tích Video
Học Sinh Cười
Truyện Cổ Tích
Truyện Cười
Truyện Dài
Truyện Học Trò
Truyện Kiếm Hiệp
Truyện Ma (Kinh Dị)
Truyện Ngắn
Truyện Quỳnh Dao
Tất Cả Thi Sĩ
 
Truyện Dài » Chị Đào Chị Lý Tác Giả: Hồ Biểu Chánh    
Dựng Lại Nghiệp Xưa

    Ông Thái học với sách thì ít, mà học với đời thì nhiều. Với sách thì ông học cọt quẹt có một vài năm hồi còn nhỏ. Với đời thì ông học ba bốn mươi năm, học đủ thứ trường, trường dễ, trường khó, trường thấp, trường cao, trường nào ổng cũng trải qua hết; lại còn học với không biết bao nhiêu thầy mà kể cho xiết, thầy dở, thầy hay, thầy lù mù, thầy lanh lợi, thầy nào cũng có thọ giáo
    
    Nếu không có học với đời, ông không ung đúc tâm hồn thực tế, ông không biết thừa cơ hội hạp thời, thì làm sao xuất thân với hai bàn tay trắng bắt đầu làm một tên phu ăn tiền mỗi ngày có 9 cắc bạc, mà lần lần trong hai mươi mấy năm ông trở nên một chủ trại mộc, thợ hơn cả chục rần rần đóng bàn ghế cho ông bán mỗi năm có lợi đến mấy chục ngàn, lại còn có biệt thự, có xe hơi cho con ở yên mà ăn học lên tới trường cao đẳng?
    Đã có sẵn trí thông minh với tánh ngay thẳng của trời phú, lại thêm lịch duyệt thế thái nhơn tình, bởi vậy bấy lâu nay ông xử sự rất dễ dàng, ông tiến thủ rất mạnh mẽ, mà dầu dễ dàng chớ không phạm danh nghĩa, dầu mạnh mẽ chớ không mất quyền lợi.
    Xét thiệt bà Ngọc là cô thiếu phụ ngày trước vì phải giữ hiếu đạo với cha, mà cũng vì phải giữ danh giá của mình, nên cực chẳng đã bà phải tự lái xe hơi chở con đem bỏ dọc đường, đặng ưng lão chồng già, lại bất lương, nên cũng oán ghét, rồi trót hai mươi năm ôm lòng hối hận đau khổ buồn rầu, thì ông động lòng nên ông liền tỏ thiệt con Lý của ông đó là đứa nhỏ bà bỏ rơi. Ông sẵn sàng giao con lại cho bà, trước đền ơn bà giúp vốn cho ông làm ăn ông mới được hiển đạt, sau gỡ dùm cho bà cái tội muốn được trên phải mất dưới, muốn vừa bụng cha phải cắt ruột mà quăng. Lòng trắc ẩn khiến cho ông không tiếc đứa con học đã thành tài trước mắt, ông chịu trả nó lại cho bà liền. Tuy cách cư xử đúng đắn dễ dàng như vậy, nó làm cho ông vì tánh tình hiền lành của bà mà ông bỏ qua cái dĩ vãng ác nghiệt của lão chồng bà qua đời, song ông không quên ngó xa dùm cho bà; ông vạch cho bà thấy sự vui mừng tìm được đứa con rơi, nếu không khéo xử, nó hóa ra rối rắm trong gia đình; đứa con yêu nhìn được nó biến thành kẻ thù, mà đứa con thảo thuận ở trong nhà e nó cũng bớt kỉnh ái.
    Lời thành thiệt và khôn ngoan ấy, bà Ngọc nghe qua, thì bà giựt mình, nên chịu bình tĩnh để êm mà suy nghĩ. Bàn tính với bà Hòa trót mấy bữa mà không tìm ra phương pháp nhìn con cho ấm êm. Bà phải rủ bà Hòa đi với bà vô Bà Chiểu mà cầu kế ông Thái.
    Ông Thái cũng tỏ thiệt ông muốn giao con của bà Ngọc lại cho bà, chớ ông không dành. Nhưng mà sợ công khai nhìn Lý là con thì phải nói rõ tại sao bà có con và có rồi sao lại bỏ mất; nhắc chuyện xưa ắt sẽ gây rối, ông Thái mới bày ra một giải pháp dung hòa: che đậy đống tro tàn để nó ằm êm mà để Lý làm đứa con chung của hai nhà không cần nhìn nhận lộn xộn, hai nhà chăm nom lo lắng cho Lý thì đâu đó êm hết.
    Hai bà đều phục giải pháp đó cả hai. Bà Ngọc mừng được con mà khỏi sợ con phiền trách, cũng khỏi lo Khánh khinh rẻ. Còn bà Hòa mừng được cho bà Ngọc nhìn con mà đáp nghĩa đền ơn song khỏi giao đứt con, khỏi mất đứa con nuôi đã nên vai nên vóc, học đã sắp thành tài gần nhờ được.
    Mấy năm nay bà Ngọc với bà Hòa nhờ sắp nhỏ hai bên kết bạn cùng nhau mà ăn học, nên hai bà thân thiết kết tình chị em chơi với nhau. Lần lần hiểu hết bụng nhau, rồi tình thân thiện biến ra tình mến yêu, không còn dấu diếm tâm sự nữa.
    Bây giờ hai bên đã thỏa thuận để Lý làm đứa con chung, hai bà làm hai mẹ hiệp nhau mà săn sóc và hai nhà nhập một để chia buồn chung vui với nhau, thì tình thân yêu ấy lại biến thành chị em ruột thịt không còn hiềm nghi chỗ nào nữa.
    Thấy ý bà Ngọc ao ước muốn được gần Lý cho thường, bà Hòa mới tính chia Lý qua ở luôn bên bà, đặng ban ngày mẹ con ăn cơm với nhau, ban đêm mẹ con ngủ chung một nhà cho bà vui. Tuy bà Ngọc muốn được như vậy lắm, nhưng bà ngại thuở nay Đào với Lý không rời nhau, lại bà yêu hai trẻ cũng đồng nhau, hai trẻ thay phiên nhau ban đêm qua ở học rồi ngủ bên bà. Nếu nay bà biệt đãi Lý, bà sợ Đào phân bì về sự thân sơ, rồi chị em nghi kỵ nhau mà mất vui vẻ, hòa khí.
    Bà Ngọc muốn hai mẹ, cũng như hai con trên dưới chia thân yêu cho đồng nhau, đặng mẹ khỏi quạnh hiu, mà con cũng khỏi đố kỵ. Bà Hòa chịu mới chia bớt cho bà Ngọc một con nhưng phân phiên với nhau, một bữa Đào đi, một bữa Lý đi qua ăn cơm và tối ngủ với bà Ngọc cho vui, còn Tòng với một cô gái ăn ở với bà thì bà còn đủ vui vậy.
    Tổ chức bề ăn ở lại như vậy, bà Ngọc hết buồn rầu nữa chỉ còn nhớ Khánh, lo cho phận Khánh ở xa xôi lại nguy hiểm mà thôi.
    Khánh cũng viết thơ gởi về thăm mẹ thường thường, thơ nào cũng kiếm lời lạc quan mà an ủi mẹ, khuyên mẹ cứ vui chơi. Thuở nay mẹ con ăn ở hiền lành, trời không nỡ hại con đâu mà mẹ sợ. Bức thơ sau Khánh lại nói nhờ chị Đào chị Lý cho hay nên Khánh được biết từ nay hai chị luân phiên với nhau chẳng những ban đêm qua ngủ dùm với mẹ mà thôi, ban ngày cũng qua ăn cơm với mẹ cho mẹ vui nữa. Tin ấy làm cho Khánh yên lòng mà làm cho tròn nhiệm vụ nam nhi, khỏi lo cho mẹ ở nhà buồn phận cô đơn mà sanh bịnh.
    Mà thiệt bà Ngọc tình cờ bà biết được Lý là đứa con bà bỏ ngày xưa, bây giờ nó sởn sơ, yểu diệu, học giỏi, ôn hòa, nó ở một bên bà, nó kêu bà là má Hai, thì bà hết buồn rầu, hết than đau khổ nữa, trái lại ngày cũng như đêm, bà vui cười luôn luôn. Bà mướn người dãy cỏ, sửa cây, dọn dẹp trước sân và quanh nhà sạch sẽ, rồi trồng bông hoa tươi tốt đặng sớm mơi hoặc buổi chiều mát cùng với Lý hay Đào bà thưởng thức cảnh đẹp, thú an nhàn. Bà cũng hay đi chơi, chớ không phải lục đục trong nhà như hồi trước.
    Bữa nào trời tối thì bà rủ bà Hòa, qua đi xe của bà mà rước sắp nhỏ rồi chạy đi chơi, khi ra Sàigòn kiếm hàng tốt để may áo cho Lý với Đào, khi đi Chợ Lớn xem thiên hạ rần rộ bán buôn, khi vô Bà Chiểu thăm ông Thái đặng nói chuyện.
    Chúa nhựt bà thường làm tiệc tại nhà bà và mời ông Thái về đặng hai nhà ăn chung vui với nhau. Muốn cho sắp nhỏ tập đi đứng đặng khỏi quê mùa, khỏi bợ ngợ, có khi bà mời đi ăn cơm nhà hàng ngoài Sài Gòn, có khi vô ăn đồ cao lầu trong Chợ Lớn.
    Vợ chồng ông Thái cũng thường đãi lại, bởi vậy hai nhà có dịp ăn cơm chung với nhau hoài.
    Đào với Lý lo học chớ không lo chưng diện. Vợ chồng ông Thái là người buôn bán; tự nhiên cần kiệm để vốn mà làm ăn. Vì hai con không đòi hỏi, nên ông bà không tính sắm nữ trang cho con đeo. Bà Ngọc thấy vậy mới sắm đồ cho hai trẻ, mỗi tháng bà mua một món, lần lần rồi Đào với Lý cũng có đủ nữ trang như chúng bạn, không thua sút ai.
    Bà Ngọc được sum hiệp với đứa con gái, chỉ còn lo cho thằng con trai nữa mà thôi. Hễ Khánh về bình yên thì bà hoàn toàn thỏa mãn, vui hưởng gia đình hạnh phúc với hai con. Một bữa ngồi nói chuyện với vợ chồng ông Thái, bà nhắc lại lúc bà hối hận về sự bỏ con, bà có khẩn vái trời Phật xui khiến cho bà tìm Lý lại được thì bà cạo đầu ăn chay trường đặng tạ ơn trời phật, bây giờ đã tìm Lý lại được rồi, thì bà muốn giữ lời nguyền cho khỏi lỗi với Trời Phật.
    Ngặt bà còn ngại một điều là nếu Khánh hay bà cạo đầu mà tu, thì chắc Khánh buồn, lại nếu Khánh hỏi duyên cớ thì bà khó mà nói cho xuôi được. Bà lấy làm bối rối về chỗ đó không biết liệu lẽ trả lễ cho trời Phật khỏi bị con nghi.
    Ông Thái nói: "Người mình hễ có việc buồn lo thì cầu Trời khẩn Phật. Số người khấn vái cả muôn cả triệu chớ không phải một mình cô. Trong số đó tự nhiên cũng có một số người hết xôi thì rồi việc, không nhớ mà trả lễ. Nhưng thuở nay tôi chưa nghe ai nói Trời Phật theo đòi hỏi họ hồi nào. Mà Trời Phật lo cứu vớt bao la khắp thế giới tôi chắc không nhớ ai khấn vái mà tìm theo đặng đòi hỏi. Tuy vậy mà có vái thì phải trả lễ không nên bỏ qua. Dầu Trời Phật không đòi hỏi mình cũng phải làm cho lương tâm khỏi bứt rứt, cho mình khỏi lo sợ vong ân bội nghĩa với đấng Thiêng-liêng đã cứu vớt mình cho khỏi tai nạn. Mà cô hai vái hễ tìm con lại được thì cô sẽ cạo đầu và ăn chay trường, tức thị là cô tu, và tu theo Phật Giáo nên mới cạo đầu ăn chay. Có lẽ cô hai thấy có nhiều bà nhiều cô ở tu trong mấy chùa phật, bà nào cô nào cũng thí phát và ăn chay nên cô tưởng ai tu theo Phật Pháp đều cũng phải làm như vậy hết thảy. Không phải vậy đâu cô hai, Phật dạy thiện nam tín nữ muốn tu cho được chánh quả mà thành Phật thì cứ lo ung đúc đạo tâm, rèn lòng bác ái từ bi như Phật, rửa lòng cho sạch trần tục, hết tham lam hết hờn giận, hết say mê mùi đời, xem việc đời thứ gì cũng là giả hết thảy, tạm hết thảy, cái có đó là không, cái không đó là có. Tu cho giác được như vậy ấy là thành Bồ Tát, thành Phật. Cô hứa với Trời Phật cho cô tìm được con thì cô tu, cô tu tâm theo phép Phật dạy rèn lòng từ bi bác ái, ăn ở ngay thẳng hiền lành, thì con cô có chỗ nào nói được đâu mà cô ngại".
    Bà Ngọc nói: "Tôi sợ thằng Khánh nó hỏi bình sanh tôi có làm tội ác gì hay sao nên bây giờ phải cạo đầu mà tu".
    Ông Thái nói: " Tu thì tu, cần gì phải cạo đầu, đạo Phật có buộc ai tu cũng phải cạo đầu vô chùa mà ở hết đâu. Phép tu của Phật có hai cách: Một cách tu xuất gia, là vô chùa ở luôn mà tu mãn đời. Hễ ở chùa thì phải làm theo người ta, thí phát và trường chay. Còn một cách tu tại gia, là ở nhà mà tu, đặt bàn thờ Phật trong nhà để hôm sớm đánh chuông gõ mõ mà tụng niệm. Tu theo cách nầy người mình gọi là "cư sĩ" chớ không gọi là "thầy chùa". Còn tiếng Phạn gọi đàn ông là Ưu bà Tắc, đàn bà là Ưu bà Di. Người tu tại gia muốn để tóc hay là muốn cạo đầu tùy ý, cái đó không ép buộc. Còn ăn chay thì tùy sức khỏe của mình mà ăn, như sức khỏe dồi dào mới ăn trường trai được, chớ người ốm yếu, cần bổ dưỡng thì mỗi tháng hoặc ăn 10 ngày, họăc ăn 5 ngày, hoặc ăn mùng một với ngày rằm cũng được, chớ yếu đuối ăn chay trường thiếu máu làm sao sống được mà tu niệm. Cô Hai có nhà cửa minh mông, lại hiện thời cô ở có một mình, cô giao nhà cửa cho ai nên cạo đầu vô chùa mà tu? Nếu cô muốn giữ lời nguyện với trời Phật thì cô tu tại gia. Cô đặt bàn thờ trong nhà, cô thỉnh tượng Phật về mà thờ, hôm sớm cô tụng niệm mà ung đúc đạo tâm, cô quyết chí làm theo lời Phật dạy, gắng sức tập tánh từ bi bác ái như Phật, rèn lòng bỏ cả tham, sân, si, gội rửa lục căn đừng để lục trần nhiễm được, cư xử hiền lành ngay thẳng, rộng lượng dung thứ cho kẻ quấy, cứu người chớ đừng hại người. Cô ráng làm cho được như vậy thì còn hơn là cạo đầu vô chùa mà lạy Phật, Phật ở tại tâm mình, ở nhà mình tưởng niệm cũng được, miễn là mình thành tâm thì Phật chứng chiếu. Vậy cô muốn tu thì đặt bàn Phật ở nhà mà tu. Cô không cần phải thí phát. Còn ăn chay cô liệu sức một tháng có thể ăn mấy bữa được thì cô ăn, miễn là giữ cho sức khỏe khỏi suy kém".
    Bà Ngọc nghe giảng rõ cách tu thì bà mừng nên bà nói: "Tôi cám ơn anh quá. Nhờ anh cắt nghĩa tôi mới hiểu. Tôi hết lo rồi. Tôi cầu nguyện cho thằng Khánh tôi mạnh giỏi và được về cho mau đặng mẹ con chị em sum hiệp một nhà cho vui. Ngày tôi chở con nhỏ đem đi bỏ đặng cha tôi gả tôi lấy chồng, thì lòng tôi tê tái, thân tôi như cây mục. Tôi quyết thí cả tâm hồn và thân thể mà trả nợ cho cha, tôi không thèm kể vui sướng gì nữa. Tôi tính chôn đời sống của tôi trong đau khổ, trong tối tăm. Thiệt tôi không dè còn có ngày nay cho tôi biết vui mừng, cho tôi thấy sáng lạng. Đó là nhờ ơn Trời Phật cho tôi phải chịu đau khổ hai mươi mấy năm để tôi đền cái tội hẫng hờ dại dột, để cho tình ái lôi cuốn làm hư tiết giá, làm nhục tông môn. Bây giờ trời Phật ân xá cho tôi, nên tôi mới được hưởng chút đỉnh những vui sướng với đời, cũng như bụi cây đương héo lại gặp trời mưa vậy. Từ rày, tôi sẽ thành tâm tu niệm, trước tạ ơn Trời Phật sau tạo ân đức cho hai đứa con của tôi. Hai đứa đều không có cha. Tôi là mẹ tôi phải chăm nom lo lắng cho tương lai của chúng nó. Tôi xin anh chị xem tôi như em trong nhà, giúp tôi dìu dắt hai đứa nhỏ, giữ gìn cho chúng nó quên hết lớp trước đặng vui với lớp sau mà thôi. Tôi mong ước được như vậy thì hạnh phúc của tôi mới hoàn toàn đầy đủ".
    Vợ chồng ông Thái đều khuyên bà Ngọc cứ thơ thới an vui, cứ mạnh dạn mà bước trên đường đời. Hễ ăn ở ngay thẳng hiền lành thì Phật Trời sẽ ủng hộ. Dầu mạng số khiến phải gặp buồn hay khó, thì người hiền cũng xông lướt được, rồi buồn sẽ hóa ra vui, khó sẽ hóa ra dễ.
    Cách vài bữa sau, bà Ngọc rủ bà Hòa đi thỉnh tượng Phật Quan Âm và mua chuông mõ, rồi bà đặt bàn thờ trên lầu để tối trước khi đi ngủ và khuya thức dậy bà tưởng niệm Phật, bà vái van Trời Phật phò hộ mẹ con bà được an vui luôn. Ngày rằm với ngày mùng một bà cũng ăn chay để tạ ơn Trời Phật và tỏ lòng thành kỉnh.
    Cô Lý với cô Đào thuở nay cứ hăng hái lo học tập, đặng lập thân mà sống vinh quang với đời thực tế, hai cô không để ý về việc thiêng liêng. Thấy bà Ngọc thờ Phật rồi mỗi đêm cúng lạy, hai cô không hiểu làm như vậy có ích gì. Nhưng hai cô không dám hỏi bà. Một bữa hai cô hỏi ông Thái mới cắt nghĩa cho mấy con hiểu rằng con người ở đời phải sống vừa thực tế vừa tinh thần. Hai cảnh đời đó phải đi đôi con người mới tấn thủ vững vàng và mạnh mẽ, ung đúc tài trí để xoay trở theo thực tế cho khỏi thua sút thiên hạ. Còn tin tưởng Trời Phật để củng cố tinh thần cho mạnh cho cao. Có tài trí mà không có tinh thần thì làm việc gì cũng dụ dự, yếu ớt, nên khó thành công. Còn việc có tinh thần mà không có tài trí, thì cương quyết song vụng về, nên theo không kịp thiên hạ. Thuở nay bà Ngọc dư thực tế mà thiếu tinh thần, nên giàu sang mà buồn bực. Bây giờ bà thờ Phật đặng ung đúc tinh thần, làm như vậy cho đời sống của bà có đủ điều kiện mà an vui.
    Hai cô theo phái tân học, nghe cha cắt nghĩa chỗ chú trọng về tâm lý xã hội, về hạnh phúc dân sanh, chớ không dựa và đạo lý thiêng liêng hay là thần quyền huyền bí, bởi vậy hai cô phải chịu, không có chỗ mà bắt bẻ được.
    Lão Thái nầy lão luyện tập với thầy đời, mà lão lượm chỗ nầy một mớ, chỗ nọ một mớ, lão tom góp bỏ vào túi nhiều mánh lới mầu nhiệm quá. Nhờ tay lão biết gãi đúng chỗ ngứa của mỗi người mà gãi, nên lớn nhỏ đều kỉnh phục rồi việc khó hóa ra việc dễ, việc vui tràn ngập bao phủ tất cả việc buồn. Một niềm thuận hòa mát mẻ, một tình thân yêu dịu dàng phưởng phất chung cho hai nhà, ở bên nào cũng vui, bởi vậy lớn nhỏ đều khỏe trí yên lòng mà chờ tương lai.
    Hết mùa mưa tới mùa nắng, rồi giàu nghèo đều lo sửa soạn ăn Tết, người đi tảo mộ, người may áo quần. Cúc trong sân đã đơm bông, mai trước ngõ đã rụng lá.
    Ông Thái biết lúc nầy các đám mía trồng trong vùng An Thổ đã trổ cờ gần đều. Ông muốn đi dọ xem năm nay đất mía đặng thất thế nào. Một buổi xế ông về nhà cùng với vợ ông qua thăm bà Ngọc, ông nói với bà Ngọc rằng hiện giờ đồn bót đã đóng khắp nơi hết, chỗ nào cũng có đặt binh trấn thủ. An ninh trật tự đã đem lại trong làng Bình Phước nên nhơn dân đi đứng làm ăn thong thả hoàn toàn. Ông hỏi bà nếu bà muốn về Bình Phước mà thăm mồ mả ông bà thì vợ chồng ông đi giùm với bà, đi có đàn ông đàn bà vững bụng.
    Thời cuộc lộn xộn trót mấy năm, bà Ngọc nghe nói nhà cửa, vườn tược và lò đường của ông già đã tiêu hết, nghe vậy thì hay vậy chớ bà không dám về thăm. Năm kia bà có nhắn người bà con là Hương hào Điều xuống đặng bà hỏi lại cho chắc rồi bà cậy về coi nếu có ai muốn mướn đất mà trồng mía lại thì thay mặt bà mà đo cho người ta mướn đặng họ trồng. Năm ngoái Hương hào Điều xuống nói đất của ông già bà người ta đã chia nhau mà trồng mía gần được phân nửa, mà biểu họ làm tờ tá họ không thèm làm, biểu họ đóng tiền mướn đất phần nhiều họ cũng không chịu đóng, Hương hào Điều nói nếu bà muốn có huê lợi thì bà ra tiền cho ảnh mua ngọn mua phân, ảnh trồng rồi lập luôn lò lại đặng tới mua mía làm đường mà bán mới có lời. Ba đặt tiền cho ảnh trước sau gần mười ngàn, mà hôm đầu năm bà thu lại có mười mấy ngàn vừa đủ vốn chớ không lời bao nhiêu bởi vậy bà thất vọng, không muốn tính tới cuộc làm ăn đó nữa.
    Nay nghe nói vùng Bình Phước đã yên tịnh rồi, đường đi không xa, lại có vợ chồng ông Thái đi theo nữa, bà hết sợ nên bà chịu đi, tính về thăm mồ mả ông bà và luôn dịp coi Hương hào Điều trồng mía và lập lò đường lại thể nào mà mùa rồi huê lợi vừa cho mướn đất vừa bán đường chia cho bà có mười mấy ngàn.
    Bà bàn tính với vợ chồng ông Thái rồi hẹn bữa sau đi với nhau, đi xe của bà, không đem sắp nhỏ theo, đúng 8 giờ bà sẽ vô tiệm rước ông Thái đi.
    Y như hẹn sáng bữa sau ông Thái ăn lót lòng với ông Giáo Hiệp rồi ông thay đồ bận quần sọt áo sơ mi cụt cho gọn, dặn ông Giáo ở nhà thế cho ông mà tiếp khách hàng. Chừng xe của hai bà vô tới thì ông lên xe đi liền, tính đi sớm đặng có nhiều thời giờ mà quan sát cuộc trồng mía làm đường, hiện giờ là một mối lợi không nhỏ.
    Xe khỏi Bà Chiểu thì gặp xe đủ thứ, tốp ra tốp vô dập dìu không ngớt. Đến cầu Bình Lợi xe cũng vẫn còn đông, ngó đường đi Biên Hòa hay là đường đi Thủ Dầu Một, đường nào xe hơi cũng nối đuôi mà chạy cả dọc, xe du lịch, xe nhà binh , xe đò, xe hàng chen nhau mà chạy rần rần. Từ Bình Triệu lên Bình Phước hai bên đường người ta trồng cây trái, đậu khoai, rau cải liên tiếp, coi còn thạnh vượng hơn hồi trước. Một khúc xa xa có tháp canh xây cho binh lính ở mà gìn giữ an ninh cho dân lành làm ăn. Sau rẫy vườn ấy thì là mía trồng minh mông, đám nầy giáp với đám khác, không dứt, trồng lên tới mé rạch Gò Dưa. Vô tới vùng Suối Chà.
    Xe lên tới Bình Phước, bà Ngọc biểu sốp phơ chậm chậm mà quanh qua phía tay mặt chạy vô ấp của bà ở hồi trước. Lâu ngày mới được trở về chốn cố hương, bà Ngọc cảm xúc, mắt nhìn cảnh cũ, kiếm người quen xưa. Cảnh đã đổi thay khác hết. Bên tay mặt thì mía còn trồng giáp hết, mấy đám trồng sớm đã trổ cờ trắng nỏn, gió bấc thổi phất phơ theo một chiều. Còn bên phía tay trái hồi trước vườn tược liên tiếp, nhà ở nối dài theo đường, nhà có vẽ thạnh mậu . Bây giờ cây cối tan hoang, mặt đất cỏ mọc, mương vườn lấp cạn, một hai cây rải rác còn sống sót thì đứng xơ rơ còi cọc, buồn hiu như tiếc cảnh cũ hay đợi người xưa. Mấy nhà vui tươi khoản khoát hồi trước bây giờ biến thành chòi tranh xịch xạc tiu hiu. Tuy vậy mà mấy người quen thấy lấp ló trong chòi bộ họ vẫn vui sống chớ không buồn rầu ủ rũ. Chạy tới chỗ nhà bà hồi trước, bà Ngọc biểu sốp phơ ngừng lại, bà mở cửa xe bước xuống. Vợ chồng ông Thái xuống theo.
    Bà Ngọc đứng ngoài lộ ngó vô thấy mấy tòa nhà của ông già bà xây dựng từ hồi bà còn thơ ngây đã tiêu mất, chỉ còn mấy cái nền không với ít đống gạch ngói bể nằm chài bài. Mấy liếp vườn bây giờ là mấy bãi cỏ không ai ngó tới nên nó mọc tự do, cao tới đầu gối, lại dày bịt rậm rịt.
    Nhìn công phu sự nghiệp của cha tiêu hết, bà Ngọc ngậm ngùi ứa lụy, song cũng gượng gạo bước vô. Thấy có dãy nhà lá sùm sụp nằm gần đó, bà lần lần đi lại. Vợ chồng ông Thái biểu sốp phơ thụt xe vô sân, rồi thủng thẳng theo sau.
    Ông Ba Lự là người cổ cựu trong xóm, năm nay đã gần sáu mươi tuổi, ông ở trong dãy nhà lá đó bước ra, ông thấy bà Ngọc ông biết nên ông mừng nói lăng xăng.
    Bà Ngọc hỏi có Hương hào Điều ở trong nhà hay không. Ông nói Hương hào Điều ở đằng nhà; chú cho ông ở lò đường coi chừng, mấy tháng đạp đường chú mới lại ở thường. Bà cậy ông Ba Lự đi kêu dùm Hương hào.
    Bà dắt vợ chồng ông Thái vô xem lò đường. Bà thấy nhà cất lúm túm vụng về, lò cũng xây đơn sơ, trong ngoài dơ dáy, không phải kỹ lưỡng như ông già bà làm hồi trước bởi vậy bà không vui chút nào. Bà chỉ cuộc ở của bà hồi trước cho vợ chồng ông Thái biết, cắt nghĩa cách ông già bà sắp đặt công cuộc làm đường cho hai ông bà nghe. Ông Thái hỏi đất trồng mía của bà nhiều được bao nhiêu mẫu. Bà nói có bằng khoán ở dưới nhà, cả thảy mấy sở hơn hai trăm mẫu. Ông Thái nói đất nhiều quá trồng cho giáp hết mà làm đường trong vài năm sẽ làm giàu lớn, bà nói Hương hào Điều lôi thôi nên làm công việc coi không được. Mía trồng giáp hết mà lò đường như vậy thì đạp đường mấy tháng mới rồi. Mía đúng lứa mà không đốn thì mất nước. Mà đốn rồi chất đống chờ chừng nào lò rảnh mới đạp, để lâu quá hôi rượu mới làm sao.
    Bà dắt khách đi lại góc vườn viếng mả của cha mẹ bà. Hai mả nằm song song, không hư hại, nhưng chung quanh cỏ mọc um tùm như mồ vô chủ. Bà Ngọc châu mày than Hương hào Điều tệ quá. Bà Ngọc xuất gần mười ngàn giao cho ảnh, mà ảnh lập lò đường lại coi không được, ảnh không mướn người sửa sang vườn tược, thậm chí mồ mả của cha mẹ bà, ảnh cũng bỏ phế, không thèm ngó ngàng. Vì có tình bà con một họ nên bà mới tin cậy, phải bà dè ảnh lôi thôi như vậy bà cậy người khác, có lẽ được việc hơn. Tự rằng vì gần Tết nên bà về viếng mồ mả cha mẹ. Bà đưa cho ông một trăm đồng bạc cậy ông mướn người dẫy cỏ chung quanh mộ dùm cho sạch sẽ rồi bà dắt ông đi xem vườn hoang.
    Ông Thái hiểu ý bà Ngọc phiền Hương hào Điều nhưng bà không muốn nói ra, bởi vậy ông hỏi Hương hào Điều vậy chớ đất của bà trồng mía nằm về vạt nào, mùa nầy trồng được bao nhiêu mẫu và cho mướn được bao nhiêu, họ mướn với giá nào, họ trả bạc hay là giao mía cho mình? Hương hào Điều dắt ông Thái ra lộ mà chỉ đất cho ông coi, cắt nghĩa cách cho mướn đất, cách làm đường và cả cách bán đường cho ông nghe.
    Hương hào Điều nói: "Phận tôi quê mùa, tôi làm theo sức tôi vậy thôi. Nếu muốn làm lớn như hồi trước phải có vốn lại phải có người thông thạo giúp sức mới làm được".
    Ông Thái cười và nói: "Ông Hương hào yên tâm. Tôi sẽ tiếp tay với ông. Ăn Tết rồi tôi sẽ lên thường mà bày biểu cho ông làm. Tiền bạc thì tôi lo cho ông đừng sợ thiếu vốn. Có lẽ tôi phải xin bà Phủ cất nhà lại cho chắc chắn, rộng rãi, sạch sẽ, có chỗ ép đường, có chỗ vựa mía, có chỗ trữ đường, có chỗ bà Phủ lên ở chơi cho được. Bây giờ cứ dùng trâu bò mà ép như cũ. Tôi sẽ mua máy để ép đường cho lẹ và lấy hết nước mía. Lần lần rồi sẽ mua máy làm ra đường cát trắng nữa. Ông Hương hào ráng giúp để thủng thẳng tôi tổ chức cho ông coi.
    Trong lúc ông Thái ngoài lộ kiếm chước mà thuyết phục Hương hào Điều thì trong vườn bà Ngọc lấy lời dịu ngọt mà cậy ông Ba Lự ra ngoài ngày ông mướn dùm nhơn công dọn dẹp sở vườn lại, phát cỏ cho sạch, đào mương cho sâu đặt sẵn sầu riêng, măng cụt, vú sữa, chôm chôm đặng qua mùa mưa mà trồng giáp hết mấy liếp. Ông Ba Lự hứa ông tận tâm giúp cho bà lập sở vườn lại như hồi còn ông Cả. Ông tỏ ý chê Hương hào Điều lôi thôi không biết làm công chuyện, cứ lo trồng mía làm đường cho có lợi mà bỏ túi, không thèm ngó tới vườn tược của ông Cả, ông lại nói nếu bà cắt phần cho ông dọn dẹp mà lập sở vườn lại thì ông sẽ làm cho mà coi.
    Bà Ngọc rất hài lòng về sự sốt sắng của ông ba Lự. Bà nói để qua Tết rồi bà sẽ lên bàn tính việc ấy với ông.
    Thấy ông Thái đương đứng nói chuyện với Hương hào ngoài lộ, bà đi ra đó và hỏi Hương hào tháng nào mía mới đúng lứa đốn được. Hương hào nói lối rằng tháng giêng. Bà mới nói: "Vậy thì chừng đó lò đường mới bắt đầu hoạt động. Qua Tết rồi tôi sẽ lên thường, lên giao cho ông Ba coi dọn dẹp mà gầy dựng cây trái lại và luôn dịp tôi chăm nom công việc đốn mía và ép đường".
    Hương hào Điều lặng thinh mặt có sắc buồn.
    Ông Thái tính pha một chút nước đường cho thuốc bớt đắng, nên ông vội vã nói: "Việc trồng mía làm đường nãy giờ tôi có bàn tính sơ với anh Hương hào. Tôi khuyên ảnh ráng giúp bà Phủ tổ chức lại đàng hoàng đặng chừng cậu về cậu vừa bụng. Anh Hương hào nói nếu có tôi bày biểu thì ảnh sẽ giúp tận tâm. Vậy để ăn Tết rồi tôi sẽ lên bàn lại với ảnh rồi lập chương trình định phải làm những việc gì, việc nào gấp làm trước, việc nào hưỡn làm sau. Vậy xin bà Phủ yên tâm để cho hai anh em tôi lo cho".
    Bà Ngọc mừng. Bà thuật lại cho ông Thái với hương hào nghe việc bà mới cậy riêng ông Ba Lự ăn Tết rồi ông mướn nhơn công cuốc cỏ móc mương dọn dẹp sở vườn lại đặng qua mùa mưa đặt cây mà trồng. Ông Thái nói ông là người Lái Thiêu, lập vườn tược là nghề của ông. Vậy để qua Tết rồi ông sẽ bày biểu cho ông Ba Lự làm. Miếng vườn lớn cả mẫu chớ không phải ít. Biết cách trồng trong năm sáu năm sẽ có huê lợi nhiều.
    Ai nấy đều vui lòng, nên nói chuyện chơi một chút, rồi bà Ngọc với vợ chồng ông Thái từ giã lên xe mà về.
    Đi dọc đường bà Ngọc trách Hương hào Điều xập xệ quá, lãnh công việc cho bà mà hai năm nay không có làm gì hết. Nhà cửa vườn tược tan hoang ảnh không dọn dẹp, để cỏ mọc như rừng, thậm chí gần Tết mà ảnh cũng không thèm cuốc cỏ cho sạch sẽ xung quanh mộ của cha mẹ bà. Còn ảnh lãnh gần mười ngàn đồng bạc đặng lập lò đường lại, công việc ảnh làm không đáng năm ngàn. Ông ba Lự nói ảnh cứ lo cho họ mướn đất trồng mía và lo làm đường mà bán đặng có lợi bỏ túi mà thôi; ảnh lương lẹo lắm nên người ta mới nói như vậy chớ. Để ra ngoài ngày bà hỏi ông ba Lự như chịu thay thế cho anh Hương hào coi luôn việc trồng mía làm đường thì bà giao hết cho ổng. Bộ ổng sốt sắng hơn anh Hương Hào.
    Ông Thái cười mà nói: "Tôi khuyên cô đừng có nóng giận. Cô đã ăn chay niệm phật thì phải từ bi, chớ cô còn giận thì tu làm chi? Huống chi lòng người bây giờ biến đổi hết chớ không phải như hồi trước. Mình phải ráng mềm dẻo cho lắm đặng mua lòng người, mà cũng chưa chắc được bụng thiên hạ. Mía trồng giáp đất hết, trong cả vùng chỉ có một lò đường nầy mà thôi. Giá bán đường bây giờ lại lên cao hơn hồi trước thập bội. Mà mùa rồi anh Hương hào đem cho cô có mười mấy ngàn. Không cần ai nói tôi cũng biết ảnh bỏ túi nhiều, bỏ túi bằng hai bằng ba số đó. Mà cô trách ảnh sao được. Cô không làm được, cô giao cho ảnh làm. Cô cũng không lên mà kiểm soát. Tự nhiên ảnh muốn đem cho cô bao nhiêu ảnh đem. Ảnh đem cho cô mười mấy ngàn. Nhiều hơn số tiền cô xuất vậy cũng là may lắm. Bây giờ cô giận, cô đuổi ảnh, cô cho người khác thế. Ảnh mất lợi ắt sanh thù oán. Ảnh sẽ âm mưu với những người trồng mía phá cô, hoặc không đóng tiền mướn đất, hoặc mía của ảnh trồng cho cô mà nói của người khác trồng, hoặc ảnh xúi họ chở mía đi đến mấy lò xa mà bán, đừng thèm bán cho cô. Tiểu nhơn hễ nó mất miếng ăn thì nó oán, rồi nó có nhiều cách trả oán độc ác mình không thể ngừa được. Hồi nãy tôi xem vườn tôi viếng mộ tôi thấy cô lộ sắc giận. Chừng gặp anh Hương hào cô nguội lạnh quá, tôi sợ cô nói mích lòng ảnh mà hư việc. Tôi mới kiếm chuyện hỏi đất trồng mía cho cô chỗ nào, đặng dắt ảnh ra ngoài lộ tôi o bế cho ảnh đừng phiền mà phản cô. Tôi phải mượn lịnh và cậy oai của cậu mà doạ cho ảnh kiêng, rồi tôi dỗ ngọt cho ảnh mát ruột. Tôi điều đình đã êm rồi, êm tạm cho qua khỏi Tết đừng xảy ra việc gì. Ra ngoài ngày, cô cứ cho ảnh đốn mía làm đường như thường, làm cho mãn mùa nầy rồi ảnh muốn rút lui tự ý ảnh, còn như ảnh chịu tiếp tục giúp cô nữa, thì ảnh như người cô mướn coi đất, coi lò đường cho cô, mỗi năm cô trả tiền công cho ảnh nhiều hay ít tùy theo số lời lớn nhỏ. Tết rồi tôi sẽ trở lên sắp đặt dùm cho cô, hễ bắt tay đốn mía ép đường, thì tôi thay mặt cho cô mà chỉ huy, tôi coi cho ảnh làm, việc gì tôi cũng biên sổ hết thảy; ảnh không thể lươn lẹo được mà sợ ảnh ăn gian nữa. Qua mùa sau, tôi cũng thay mặt cô mà cho mướn đất, người mướn làm tờ cho cô, ai mướn bao nhiêu đất, mướn giá nào, tôi có sổ rành rẽ; anh Hương hào hết quyền nhưng phải níu ảnh ở làm công đặng khỏi thù oán. Nếu ảnh rục rịch, thì ảnh ở trong lòng bàn tay, cô muốn bóp chặt hay bóp lỏng tự ý cô, khỏi lo ảnh khuấy rối".
    Bà Ngọc nói: "Thiệt tôi cảm ơn anh quá. Anh lo dùm cho tôi từ chút. Nếu anh làm ơn sắp đặt lại dùm cho tôi thì tôi hết lo. Hồi nãy tôi giận là vì tôi nghĩ sự nghiệp của cha tôi để lại cho tôi mà tôi không hưởng được tôi lại để cho người khác hưởng nên tôi tức".
    Ông Thái nói: "Tôi hiểu. Để tôi suy nghĩ ít bữa coi bây giờ phải làm sao mà thủ lợi, cho xứng đáng với sự nghiệp quý báu ấy. Tôi sẽ lập chương trình hành động rành rẽ. Tết rảnh tôi trao cho cô xem rồi cô liệu nếu làm thì tôi chỉ cách thức cho cô làm mà thủ lợi, còn nếu cô không muốn làm thì tôi kiếm người thạo việc họ mướn xác họ làm mỗi năm họ đóng cho cô số bạc bao nhiêu tùy ý hai đàng thỏa thuận với nhau".
    Xe về tới tiệm mới 10 giờ rưỡi, bà Hòa mời vô uống nước, rồi hai chị em mới về Sài Gòn, bà Ngọc hớn hở mừng được ông Thái giúp sắp đặt lại việc nhà dùm cho bà.
    
    

- o O o -

    
    Ba mươi Tết không còn ai mua bàn ghế nữa. Ông Giáo Hiệp về chung vui ba ngày xuân với con cháu. Ông Thái đóng cửa tiệm giao cho người phục dịch ở giữ, ông cũng về Sài Gòn lo rước ông bà.
    Bà Hòa đã có mua hoa quả chưng dọn trên bàn thờ để cúng chung cha mẹ hai bên.
    Bên nhà bà Ngọc thì bàn thờ đặt trên lầu, một bàn bà thờ cha mẹ một bàn bà thờ chồng, vì năm nay bà vui vẻ, không còn ủ ê như trước nữa, nên hai bàn thờ chưng hực hỡ. Bàn thờ Phật đặt phía trong, gần phòng bà ngủ, đặng khuya sớm bà cúng vái cho tiện, thì bà cắm bông sen chung với bông huệ, sen tượng trưng trong sạch, nở trong vũng bùn mà không lem luốc, còn huệ tượng trưng cho quảng đại từ bi, vui cứu vớt mọi người không phân biệt giàu nghèo hay lành dữ.
    Không hẹn mà gặp mới vui, chiều bữa ba mươi cả hai nhà hai bên đều tiếp được một lượt thơ gởi về chúc mừng ngày xuân. Bên nhà ông Thái thì thơ của Hoài chúc chung cả nhà, còn Khánh thì gởi riêng cho chị Đào chị Lý một cái, và cho bà Hòa một cái, thơ của bà Hòa cậu chúc chung hai ông bà với Tòng lại thêm gởi gắm bà mẹ yếu đuối của cậu một lần nữa.
    Tiếng pháo nghinh xuân lụp xụp nổ vang tai mà hai nhà được thơ ở xa xuôi gởi về chúc mừng nữa, bởi vậy lớn nhỏ đều thêm hân hoan, quên hết cái buồn đã qua, mong tiếp cái vui sắp tới.
    Hai bà Hòa với Ngọc đã thỏa thuận trước cùng nhau.Tết nầy hai nhà nhập một mà chung vui cho bà Ngọc khỏi buồn với cảnh hiu quạnh cô đơn trong dịp gia dình nào cũng vui đoàn tụ. Buổi sớm mơi mùng một bà Ngọc qua ăn cơm chung với gia đình của bà Hòa, rồi buổi chiều cả nhà bà Hòa qua ăn cơm bên bà Ngọc luôn. Luôn mùng 2 mùng 3 cũng vây, mà trong 3 ngày xuân có đi chơi thì cũng đi chung với nhau.
    Sáng mùng một bà Ngọc cúng tiền nhơn rồi, bà qua sớm mà chúc xuân cho vợ chồng ông Thái. Đào, Lý với Tòng ra mừng bà. Bà đã sắm sẵn đồ để biếu cho ba trẻ mừng tuổi mà bà không cho hay trước. Bây giờ bà mới đưa ra cho Tòng một đồng hồ tay với một viết máy, còn Đào với Lý thì bà cho mỗi cô một đôi bông tai nhận hột xoàn 5 ly chớ không lớn lắm, bà nói cho để hai con đi học khỏi đeo bông lòng thòng như đầm mà mất cái vẽ thiếu nữ thuần túy Việt Nam. Ba trẻ vui mừng cám ơn mà thâu nhận. Vợ chồng ông Thái càng thêm cảm tình, nhận thấy rõ ràng hễ mình làm phải thì gặp phải, dầu làm nghĩa với người quấy, cái nghĩa đó cũng không mất.
    Tết chung vui với nhau trót 3 bữa, ở nhà nói chuyện với nhau đã vui, mà hai xe đi chơi cùng nhau cũng vui. Chiều mùng ba, hẹn ăn cơm bên nhà bà Ngọc, ông Thái nghỉ trưa rồi dậy ngồi uống trà, ông mới tính tới công cuộc làm ăn. Bà Hòa hỏi chồng vậy chớ cuộc trồng mía và làm đường của bà Ngọc ông liệu làm sao sắp đặt dùm cho bà, chớ bỏ xụi cho ông Hương hào Điều ăn hết, ăn mà vô ơn thì uổng lắm. Ông nói ông đã có tính rồi, ngặt muốn cho lợi nhiều thì phải làm cho lớn mà làm lớn thì phải xuất vốn nhiều. Bà Ngọc không ham tiền bạc, không có chí thương mãi, sợ bà không có vốn nhiều mà làm, dầu có còn sợ bà không dám xuất nhiều thì khó làm công việc lớn.
    Bà Hòa suy nghĩ rồi nói.
    - Bây giờ lập lò mua mía mà làm đường chắc có lợi lớn lắm. Nếu cô Hai nhút nhát, hoặc không đủ tiền, thì mình hùn vốn, rồi tôi phụ coi sóc với cô. Tôi thấy công cuộc làm ăn tôi ham quá.
    - Mình có vốn mấy chục ngàn phải để hờ trong tiệm mua ván mua cây và trả tiền công cho thợ, buông tay sao được. Mà công cuộc làm đó phải xuất vốn một hai trăm ngàn, dầu mình trút hết vốn của mình vô cũng không thấm tháp chi lắm.
    - Hổm nay cô Hai trông cậy cha nó lắm. Vì mắc Tết nên cô không dám nhắc. Chiều nay đã hết Tết rồi. Thôi, mình qua bàn tính với cô thử coi.
    Thấy mấy con đương đọc sách, hai ông bà mới rủ nhau đi trước qua nhà bà Ngọc, dặn con chừng gần ăn cơm tối sẽ qua sau với nhau.
    Qua vừa ngồi yên thì bà Hòa nói: "Bữa nay gần hết Tết rồi. Cha sắp nhỏ rảnh, nên qua bàn tính với cô về việc lò đường coi ý cô muốn để y như vậy hay sắp đặt lại.
    Bà Ngọc vội vã nói: "Tôi muốn sắp đặt lại chớ. Tôi đã có nói với anh chị bữa hổm rồi. Hổm nay tôi suy nghĩ lại, tôi càng muốn nhiều hơn nữa. Nhưng sắp đặt lại thì phải có anh ra công giúp tôi mới được, chớ tôi dở quá, tôi làm một mình sao nổi; sợ làm bậy hư hại thêm chớ không lợi ích gì. Hôm lên Bình Phước về, anh hứa để anh suy nghĩ ít bữa, anh lập chương trình cho rành đặng nói cho tôi hiểu, rồi anh giúp tôi mà sắp đặt lại cho hẳn hòi. Nghe như vậy tôi mừng quá, trông cho mau qua khỏi Tết đặng bắt đầu làm công việc đó cho gấp vì đã tới mùa đốn mía rồi. Nhưng hổm nay tôi ái ngại điều nầy là anh mắc trại đóng bàn ghế lòng thòng; nếu anh giúp tôi thì anh phải bỏ phú cho thợ làm như vậy, thì thiệt hại cho anh chị nhiều quá, bởi vậy tôi không biết tính lẽ nào cho tôi có lời mà anh chị cũng khỏi lỗ".
    Bà Hòa nói: "Nãy giờ vợ chồng tôi bàn với nhau bên nhà, ổng ái ngại song ái ngại về chỗ khác. Ổng nói theo thời buổi nầy trồng mía làm đường là một nguồn lợi lớn lắm, lại chắc ăn lắm. Song muốn thâu lợi lớn thì trước phải ra vốn nhiều. Ổng không biết cô Hai có vốn sẵn và dám ra vốn hay không. Nếu không có hai điều kiện đó thì thà để luôn cho anh Hương hào Điều ảnh làm, mỗi năm ảnh đóng cho cô mười mấy ngàn thì khỏe hơn".
    Bà Ngọc nói: "Vốn thì có sẵn. Nếu anh chị chịu giúp tôi, anh ra công sắp đặt và coi làm thì xuất vốn bao nhiêu tôi cũng dám, tôi có sợ gì đâu".
    Bây giờ ông Thái mới nói: "Cô Hai nói như vậy thì tôi vững bụng. Hôm lên Bình Phước tôi dòm sơ qua thấy mối lợi to quá. Tại anh Hương hào Điều, một là không có vốn nên không thể bành trướng công cuộc làm ăn cho kinh dinh được, hai là anh lù khù ham lượm lặt cái lợi cỏn con, ảnh không thấy cái lợi lớn. Tôi nghĩ kỹ lại nếu nói ảnh lương lẹo xớt bớt huê lợi chút đỉnh thì có lẽ trúng, còn nghi ảnh gian lận đến bạc muôn thì oan cho ảnh. Vậy để cho ảnh làm luôn thì cô lợi ít, nhưng cô khỏe, khỏi lo chi hết. Còn nếu cô muốn lợi nhiều mỗi năm vô năm mười muôn thì cô phải xuất vốn ra cho nhiều, phải tổ chức cuộc trồng mía, cuộc làm đường, cho hẳn hòi, cô phải mệt lo. Về phần tôi thì cuộc làm ăn của tôi có tổ chức rành rẽ, nên tôi có thể giúp tổ chức dùm cho cô trong ít tháng đầu, cho guồng máy chạy đều đều rồi cô đứng ra điều khiển được. Từ Bà Chiểu lên Bình Phước xa chừng mười ngàn thước, tôi có xe nhà mỗi ngày tôi chạy lên dòm chứng vài giờ được, tôi không bỏ trại bỏ tiệm mà cô sợ tôi vì giúp cô nên tôi bị thiệt hại".
    Bà Ngọc nói:
    - Tôi nói thiệt với anh chị, hồi trước tôi chán nản cuộc đời, lại thêm buồn rầu nỗi con nên tôi sống như người không có hồn, tôi không ham tiền bạc tôi không muốn làm giàu. Tìm được con Lý tôi mấy tháng nay, tâm hồn tôi biến đổi không phải như hồi trước. Tôi muốn làm cho ra lợi đặng để cho hai đứa con tôi chung hưởng. Ông già tôi mất để lại trong ngân hàng cho tôi đến bạc triệu chớ không phải ít. Hồi cha thằng Khánh còn sống, thì tiền ăn xài trong nhà ổng bao hết, ổng không cho tôi lấy tiền trong ngân hàng ra mà dùng. Ổng chết ổng cũng còn để lại cho mẹ con tôi mấy chục ngàn. Bây giờ anh giúp tôi thì tôi lấy bớt tiền của cha tôi ra một mớ mà làm lợi thêm cho hai đứa con tôi, có sao đâu mà sợ. Vậy nếu anh giúp với tôi thì tôi dám làm: mà giúp tôi song cuộc làm ăn của anh khỏi bị bê trễ thì tôi mới dám chịu. Chớ lợi cho tôi mà hại cho anh dầu tôi có lợi bao nhiêu tôi cũng không ham.
    - Cô Hai mới tu mà cô biết nói câu đó thì thấy cô đã có đạo tâm rồi. Cuộc làm ăn của tôi đâu đó tôi đã cắt phần cho người coi sóc. Trong trại mộc có ông thợ Hai già đứng cái ổng chỉ công việc cho thợ phụ làm. Ngoài tiệm thì có ông Giáo Hiệp ổng tiếp khách và bán đồ thế cho tôi được; đồ đạc thứ nào cũng có định giá tối thiểu sẵn rồi miễn đừng bán dưới giá đó thì thôi. Tôi phải có mặt đặng tiếp khách hàng quen thuở nay, nghĩa là tôi lo mặt giao thiệp, tôi củng cố tín nhiệm cho tiệm Thái Hòa, tôi duy trì lòng tín nhiệm của bà con anh em mua bán với tôi thuở nay. Thiệt nếu giúp cô mà phải bỏ tiệm đến đôi ba ngày, cái đó bất tiện, lúc nào rãnh thì đi, giúp sắp đặt cho cô trong một thời gian chừng đôi ba tháng thì không hại chi hết.
    - Vậy thì được. Mà nói chuyện xuất vốn, anh có tính coi phải xuất chừng bao nhiêu?
    - Tôi mới ngó sơ qua, chưa biết rõ chi tiết, chưa tính tỉ mỉ được, nên chưa biết chắc phải xuất vốn bao nhiêu. Mà xuất vốn không phải xuất luôn một lần, làm tới đâu thì xuất tới đó: lại nếu làm liền bây giờ là lúc sắp đốn mía và ép đường thì công việc có xuất cũng có thâu, mặc dầu không biết sẽ thâu được bao nhiêu, để tôi kể phỏng công việc làm cho cô nghe thì cô sẽ hiểu.
    - Ừ, anh nói phỏng chừng thử coi.
    - Trước hết phải chia công việc của cô ra làm hai loại, một loại thực tế, một loại tinh thần. Loại thực tế chú trọng về lợi, còn loại tinh thần chú trọng về danh. Tôi vẫn biết người tu hành chuyên chú trọng về đạo đức, hễ nghe nói danh, lợi thì họ trề môi, mím miệng, họ bỉ bạc khinh khi. Theo ý tôi, con người sống giữa thế gian mà không kể danh lợi thì làm sao mà tấn hóa. Người thí phát cất chùa ở mà tu còn muốn tu tập lần lần lên chức Yết Ma, Hòa Thượng đặng có oai tín mà truyền đạo cho bá tánh, huống chi là người thế gian mà biểu học đừng ham danh lợi, tôi khuyên cô Hai đừng ngại chỗ đó. Nếu làm ác cô bóc lột thiên hạ mà thủ lợi, ai bị hại mặc kệ; nếu cầu danh đặng để húng hiếp người ta, thì thiệt lợi danh như vậy đáng khinh bỉ. Chớ nếu cô làm cho có lợi đặng cứu giúp người bị tai nạn, người xấu số nên cơ hàn, cô làm lợi mà cô giúp người chung quanh cô ai cũng có việc làm ăn, ai cũng no ấm, nghĩa là cô chia lợi cho người ta, thì ai chê cười, ai oán ghét cô được. Còn cô cầu danh đặng gây oai tín để gieo rắt nhân nghĩa đạo đức chung quanh cô, giúp xây dựng lại mỹ tục thuần phong cho người trong làng trong xóm thì cái danh của cô quí giá, một hai người ganh ghét họ chê, còn muôn ngàn người biết phải họ khen thì ngại gì mà không làm.
    - Nếu làm danh lợi mà không phạm nhân nghĩa đạo đức thì tôi ham lắm chớ.
    - Thành lập chương trình hành động tôi tính danh lợi với đạo đức phải đi đôi mới vững bền và phát đạt. Đó là căn bản trong công việc của cô làm, gây dựng cuộc làm ăn của ông cụ lại, xây dựng trên nền tảng lợi ích cho cô, lợi ích cho dân, mà cũng lợi ích luôn cho đất nước, phải làm như vậy mới khỏi lo sụp đổ.
    - Nghe anh nói tôi ham quá. Bây giờ phải làm sao đâu anh nói sơ cho tôi nghe một chút.
    - Hồi nãy tôi nói công việc phải chia ra làm hai loại, tuy hai loại khác nhau, song liên quan mật thiết với nhau. Hai loại phải đi đôi, phải tiến hành một lượt cho đủ hình thế đặng dễ làm. Nếu cô Hai trở về lo chăm chú làm đường, lo trồng mía liền, cô không ngó ngàng tới nhà cửa vườn tược của ông cụ hồi trước, thì người trong vùng chẳng khỏi dị nghị, họ khinh rẻ cô, họ xem cô là người xu lợi, thấy thời cuộc vừa yên thì chạy về cào cấu lo hốt của cho nhiều, không kể chi đến cố hương, không màng người trong xóm. Cô gây một luồng ác cảm bồng bột trong vùng, ai cũng đồn cô về đặng dùng mồ hôi của dân nghèo mà hốt bạc đặng đem xuống Sài Gòn ăn xài cho sang trọng sung sướng. Họ rủ nhau đừng thèm mướn đất của cô, đừng thèm giúp công cho cô trồng mía, thì mùa sau cô có mía đâu mà ép nên lo lập lò đường. Vậy điều cần nhứt là lo lập sở vườn lại, tính cất nhà lại làm cho bà con trong làng thấy cô có ý muốn trở về ở với họ, chung lo làm ăn như họ. Cô gây thiện cảm với mọi người, họ mới vui lòng hiệp tác với cô mà làm việc lớn được. Kế đó cô chia đất cho họ mướn đặng trồng mía. Nếu cho mướn không hết, số đất còn dư bao nhiêu thì cô mướn nhơn công trồng cho cô. Mía trồng giáp hết rồi thì cô sẽ lo xây cất lò đường lại cho hẳn hoi. Mía trồng tới chín mười tháng mới đúng lứa mà đốn được. Trong lúc đó thiếu gì ngày giờ cho cô tổ chức lại cuộc làm đường nên cần gì phải lo gấp. Ấy là theo chương trình của tôi thì công việc của cô phải phân ra làm hai loại cho rành: thứ nhứt là lập vườn lại, dọn nền để cất nhà lại, thứ nhì là lo trồng mía cho giáp hết, rồi lo xây cất lò đường lại cho đàng hoàng. Lập vườn thì tôi dòm thấy ông Ba Lự sốt sắng muốn giúp cô, vậy cô níu ổng cho chặt mà cậy ổng cuốc cỏ cho sạch đặt những gốc cây đúng trong mấy liếp, móc lại các mương cho sâu và sửa mội cho nước thông ra mương. Cô ra tiền cho ổng mướn năm ba người tiếp sức với ổng mà làm cho mau, làm cỏ làm mương rồi thì hốt gạch ngói bể mà vun đống để dành dọn cái nền nhà cũ cho sạch sẽ. Cô nói cô sẽ cất nhà lại như hồi trước đặng cô về ở. Nói như vậy song chừng nào cô cất cũng được không ai ép cô. Hoặc có công việc làm như mùa đạp đường cô phải lên thường mà coi, như cần dùng chỗ trữ đường để bán, cô cần phải có chỗ nghỉ ngơi thì cô cất một hai căn cũng được, hoặc chừng cậu Trung úy về, cô cất một biệt thự nho nhỏ để làm nhà vườn qua tháng nóng nực mà ở nghỉ mát cũng được. Việc đó sau sẽ tính không gấp gì. Lo gấp là lo sở vườn. Qua mùa mưa tới đây tôi sẽ mua cây chiết cho ông Ba Lự trồng. Tôi sẽ đặt sầu riêng trồng một hàng trong mỗi liếp. Tôi sẽ mua hột trà mà chỉ cách cho ông Ba Lự ương rồi mùa mưa sau, trà ương giáp năm rồi thì trồng giáp hết mấy liếp. Trà trồng trong 2 năm sau thì có huê lợi để mướn người làm vườn dư sức. Tôi tính phỏng thì lập sở vườn lại cô tốn chừng năm ngàn, hoặc mười ngàn là nhiều. Còn nếu cất nhà thì cất lớn hay nhỏ, cất kiểu nào, tùy ý cô, không thể tính giá trước được.
    - Còn trồng mía với xây lại lò đường phải tốn chừng bao nhiêu?
    - Trồng mía tính trước không được. Trồng mía phải mua tro, phải mua mía giống, phải mướn nhơn công trồng rồi phải mướn người ở tháng mà săn sóc, làm cỏ, bón phân, đánh lá. Hiện giờ mình chưa biết mình cho mướn đất hết bao nhiêu, còn lại mình trồng bao nhiêu. Hễ trồng nhiều thì phải mua phân nhiều, mướn nhơn công đông. Nhưng ra giêng đây cô nên xuất vài chục ngàn đặng mua phân để dành cho sẵn. Cô dám xuất một hai chục ngàn mua tro hay không?
    - Dám chớ. Ông già tôi hồi trước năm nào ổng cũng mua tro hết mấy chục ngàn. Trồng mía tự nhiên phải có phân tro.
    - Cần phải mua tro trước. Làm như vậy cho người ta thấy cô quyết chí trồng mía, họ lật đật hỏi đất mà mướn trước, sợ chậm trễ cô để cô trồng, cô không cho mướn. Nhưng để bữa nào trở lên trển, tôi dọ tình cảnh lại cho chắc rồi tôi sẽ liệu phải mua bao nhiêu phân tro. Nếu họ dành mướn đất nhiều thì mua chừng mười ngàn cũng đủ. Mà cất trại mua tro mà vựa, ai có nài mình để lại cho họ, hoặc mình để dành qua mùa sau cũng được, ế ẩm gì mà lo. Nghe nói đất của cô hơn 200 mẫu. Ví như họ mướn hơn một trăm mẫu họ để cho cô trồng một trăm mẫu. Đất đã có trồng rồi khỏi vô phân nhiều thì đỡ lắm, Chắc có mía rồi cô sẽ xây cất lò đường lại, cất cho rộng rãi, cao ráo lợp ngói, lại làm nền cho chắc đặng trong đôi ba năm có lời khá rồi cô sẽ mua máy mà ép đường đừng dùng trâu bò nữa. Nền chắc đặt máy mới được. Lần lần mua đủ thứ máy, máy ép ra nước mía. Máy nấu cho thành đường nước mà làm đường tán đường thẻ, rồi máy làm ra đường cát, muốn đường mỡ gà hay đường cát trắng cũng được.
    Bà Hòa nói: "Nghe cha nó nói tôi mê quá".
    Ông Thái nói: "Đó là tính việc về sau kìa. Bây giờ hễ chắc có mía rồi cô Hai cũng cứ làm theo cách lò cũ, song làm cho lớn đặng rộng rãi, sạch sẽ, có chỗ để đường làm rồi, có chỗ tiếp khách, chỗ nằm nghĩ, có chỗ ngồi biên sổ. Bây giờ gạch ngói mắc, cất lò đường có đủ phương tiện có lẽ phải tốn cả trăm ngàn".
    Bà Ngọc nói:
    - Tốn thì tốn chớ sao. Làm trong vài năm mình lấy vốn lại.
    - Phải vậy. Mà nội mùa nầy đây nếu cô Hai đừng làm mích lòng Hương hào Điều, cô để cho tôi dụ dỗ ảnh, tôi biết mánh lới, biết ai mướn đất bao nhiêu, mướn với giá nào, biết họ mướn lò ép đường với điều kiện gì? Tôi chận hết, ảnh không thể lương lẹo được. Số lời về tiền cho mướn đất, về tiền công ép đường của lò sản xuất với mía của lò trồng. Số lợi đó cộng hết tôi tưởng không ít đâu. Cô chia lời cho anh Hương hào bao nhiêu thì tùy ý ảnh muốn. Mà mùa nầy cô cậy tôi làm với ảnh thì muốn chia lời nhiều sao được. Cô cho ảnh chừng năm ba ngàn cho ảnh vui lòng, còn số lời dư thì cô bỏ ra mà xây cất lò đường lại. Thế thì cũng đỡ cho cô bộn bộn. Trong mùa sau nữa cô sẽ lấy vốn lại đủ. Như anh Hương hào chịu hiệp tác luôn với cô thì cô dùng ảnh như người cai coi cho dân phu trồng mía, đốn mía, ép đường, mỗi năm cô trả tiền công cho ảnh đôi ba ngàn, hoặc tính 10 phần 100 trong số lời vậy thôi. Nhưng đừng phụ bạc ảnh gấp quá, ảnh phiền rồi ảnh không thèm nói việc chi cho tôi biết, thì thất lợi mùa nầy uổng lắm. Mía trồng giáp hết, sẽ có đường nhiều chắc rồi, lại đường có giá nữa bởi vậy huê lợi không ít đâu.
    Bà Ngọc suy nghĩ một chút rồi bà nói: "Các việc anh tính nãy giờ đó hay quá. Tôi phục hết sức. Ra làm ăn mà biết tính như vậy thì tôi thế nào mà thất bại được, anh thương phận tôi, anh chỉ biểu rành rẽ khôn khéo như vậy thì tôi phải làm đặng có lợi mà để cho con chớ còn dụ dự gì nữa. Ngặt tôi yếu đuối lại không thông thạo. Phải có anh chị giúp, chớ một mình tôi thì tôi làm không kham rồi chúng ăn xớt ăn bớt, đã không lợi mà còn sợ hại nữa. Tôi muốn anh chị hùn với tôi rồi anh chỉ biểu cho hai chị em tôi làm, ít bữa anh chạy lên xem xét dùm một lần, có việc chi trắc trở anh đỡ gạt. Được vậy tôi mới vững bụng".
    Bà Hòa nói: "Tôi ở không. Bữa nào cô muốn đi thăm sở thì tôi đi dùm với cô. Có sao đâu mà sợ. Tưởng Bình Phước ở đâu xa, té ra gần quá mà".
    Bà Ngọc nói: " Tôi muốn hai ông bà hùn với tôi, đặng lúc nào có công việc khó như hiện giờ sắp đặt cho mướn đất, sau cất lò đường lại phải có anh liệu định mới được. Còn bình thường, như coi cho người ta đặt mía; phát cỏ hay trồng cây thì hai chị em mình coi".
    Ông Thái nghiêm nghị nói:
    - Hôm lên Bình Phước tôi thấy cuộc làm ăn đó sẽ có lợi lớn lắm. Nếu biết làm và có thế lực mà làm cho hẳn hoi, thì mỗi năm kiếm lợi cả trăm ngàn, cô Hai đã có sẵn đất trồng mía hơn hai trăm mẫu, có sẵn lò đường, lại có vốn nhiều nữa. Nếu cô cho vợ chồng tôi hùn, thì tôi sang trại mộc với tiệm của tôi cho người khác đặng lấy vốn mà hùn với cô, tôi sợ gì mà không dám làm. Ngặt tiệm Thái Hòa là núm ruột của vợ chồng tôi. Tuy thuở nay nó cho vợ chồng tôi có lợi mỗi năm vài chục ngàn chớ không phải nhiều, song nhờ nó mà vợ chồng con cái tôi đều được no ấm, bởi vậy tôi không đành bỏ nó mà đi làm nghề khác. Lại thuở nay tôi tiện tặn lắm mới có dư tiền mua nhà cho sắp nhỏ ở yên mà ăn học. Nói cho cô thương, hiện thời vốn tôi có chừng vài chục ngàn đủ mua bán vậy thôi, chớ đâu có dư tiền bạc nhiều mà hùn với cô Hai được.
    - Không phải vậy. Tôi muốn anh chị hùn là hùn công lao xem xét chỉ dẫn, chớ tôi có biểu hùn tiền bạc đâu. Vốn thì tôi xuất, quyền điều khiển về phần anh. Tôi hùn tiền bạc anh hùn tài nghề. Mỗi năm tính sổ coi lời được bao nhiêu thì chia hai với nhau mà hưởng. Nếu anh giúp công cho tôi có lợi mà tôi không chia lợi cho anh té ra tôi lường công của anh hay sao. Điều đó tôi không thể chịu được. Anh chị cứ giúp tôi đi. Hễ có lợi thì chia hai.
    - Kẻ có của người có công, làm ra lợi thì chia với nhau cũng phải. Nhưng tôi hùn công mà thôi, còn cô hùn tiền bạc, lại hùn đất nữa. Có lợi chia cho tôi đến phân nữa thì mất công bình. Nếu tôi không chịu hùn, thì tôi sợ cô nghi tôi giúp không tận tâm. Vậy tôi chịu hiệp tác. Song nếu lời thì tôi xin cô chia ra làm ba phần; một phần về công của vợ chồng tôi, một phần về công của cô, vì cô cũng có công lên xuống coi chừng như vợ chồng tôi vậy; còn một phần về vốn với đất của cô để vô mà sanh lợi. Cô cho vợ chồng tôi hưởng một phần ba trong số lời mà thôi. Tính như vậy mới công bình. Phải công bình tôi mới chịu.
    - Được được. Anh muốn hưởng một phần ba tự ý anh, việc đó không gấp. Có lợi rồi sẽ bàn lại. Bây giờ anh tính bữa nào đi lên Bình Phước nữa?
    - Theo tục lệ của ông bà mình hồi xưa thì hạ nêu rồi người ta mới làm việc. Đời nầy là đời sanh tồn cạnh tranh tay phải làm hàm mới có mà nhai. Nghỉ chơi lâu quá, các ngành sanh hoạt đều tê liệt, nhiều việc phải hư hỏng rồi làm sao. Bởi vậy Tết họ nghỉ có mùng một, qua mùng hai đã thấy ở chợ có người lăng xăng buôn bán, ở đồng có người rải rác gặt hái. Hôm nọ ông Giáo Hiệp coi lịch ổng nói mùng 4 tốt ngày, xuất hành hay mở tiệm đều được hết. Vậy sáng mai tôi vô tiệm đặng cúng khai trương. Cô muốn lên Bình Phước thì xế tôi đi được, lên thăm ông Ba Lự với Hương hào Điều một chút. Với ông Ba Lự tôi sẽ cắt nghĩa công việc cho ổng hiểu và biểu ổng kêu năm ba nhơn công phụ với ổng mà làm cho mau. Nếu họ xin lãnh tiền trước thì phát cho họ một mớ đặng họ ăn mà làm. Còn với anh Hương hào Điều thì tôi nói chuyện với ảnh tìm hiểu công việc của ảnh sắp đặt đặng biết rõ mùa nầy ảnh mướn trồng cho cô được bao nhiêu mía, đất dư ảnh cho ai mướn mà trồng, người nào mướn bao nhiêu đất, mướn giá nào, có giao họ phải bán mía cho lò mình hay không, nếu họ không bán, họ mướn lò ép đường cho họ thì lò ăn công ép bao nhiêu, tính tiền theo cách nào, mùa rồi đường bán giá nào, trâu bò mướn ép mía trả tiền cách nào, nhơn công trồng mía và đốn mía trả tiền công bao nhiêu một ngày, mua tro ở đâu, mua giá nào, mỗi mẫu đất phải rắc bao nhiêu tro, bạn hàng đến lò mua đường rồi họ chở đi hay lò phải kiếm bạn hàng mà chịu giá rồi lò phải chở đường đến mà giao cho họ. Tôi phải hỏi cho kỹ và tôi biên cho rành tôi mới kiểm soát được công việc của Hương hào Điều làm mùa nầy và mới sáng suốt mà tiếp tục làm mùa tới.
    Gần tối ba trẻ qua ăn cơm. Bà Ngọc được vợ chồng ông Thái chịu hùn công đặng gây dựng cuộc làm ăn của ông già bà hồi trước lại thì bà vui mừng hết sức, vui được kế nghiệp cho cha và mừng được sanh lợi mà để cho hai trẻ. Bà Hòa cũng mừng có công việc cho bà làm, được hùn chia lời mà khỏi ra vốn. Bà nói lúc ban đầu chồng bà phải lên sở hàng ngày mà sắp đặt thì bà thế cho ông, bà vô tiệm mà tiếp khách và mua bán, bữa nào ổng ở nhà thì bà với bà Ngọc đi. Phải có mặt là lúc ép đường bán đường, trồng mía với đốn mía, chớ bình thường thì năm ba bữa lên thăm chừng một lần vậy thôi, lên nhắc đánh lá mía coi dưỡng cây trồng và phát tiền công cho mấy người làm mướn.
    Ông Thái dặn cô Lý hết Tết rồi cô phải mua một chục tập giấy trắng trăm trương bìa cứng mà để bên nhà má Hai và cô phải lãnh phần lập sổ thâu xuất giùm cho má Hai đặng biết xuất tiền làm việc gì bao nhiêu, xuất ngày nào, và thêm huê lợi nào bao nhiêu, mỗi thâu xuất phải biên cho rành rẽ. Về sở vườn thì bây giờ mới mướn làm, chưa có huê lợi thì lập một cuốn sổ xuất mà thôi. Ngày nào xuất bao nhiêu mà trả tiền mướn nhơn công và mua cây mà trồng trong vườn thì biên vô đó. Về cuộc trồng mía thì phải mở một cuốn sổ xuất và một cuốn sổ thâu khác. Mua tro và mướn trồng mía, đánh lá, làm cỏ, vô phân, đốn mía, chở về trại thì biên vào sổ xuất. Còn thâu tiền cho mướn đất hoặc có bán tro lại cho tá thổ, thì biên vào sổ thâu. Còn về lò đường cũng vậy phải có sổ xuất sổ thâu riêng. Xuất mà cất nhà hay là mua hoặc mướn vật gì đều phải biên vào sổ xuất hết thảy. Tiền ép đường cho người ta và tiền bán đường của lò sản xuất thì biên vào sổ thâu. Phải biên cho rành đặng cuối năm so sánh thâu với xuất mới biết lời lỗ.
    Bà Ngọc nói sổ để bà mua rồi bà nói với Lý làm. Bà lại nói hai nhà ngoài nầy đều có xe mà xe của bà ít đi. Còn ông Thái trong tiệm không có xe, giờ rảnh ông muốn chạy lên thăm sở không có xe sẵn cho ông đi. Bà khuyên ông từ rày ông đem xe của ông để luôn trong tiệm mà dùng, ngoài nầy có xe của bà mỗi bữa đưa rước trẻ nhỏ và hai bà có đi đâu thì đi.
    Vợ chồng ông Thái nghĩ hai nhà bây giờ đã như một; bà Ngọc ép hùn công với bà đặng sanh lợi mà chia với nhau ấy là một bằng cớ bà muốn buồn vui hay giàu nghèo đều chung chịu và cộng hưởng với nhau, nếu từ chối sợ bà nghi mình không tận tâm hiệp tác, bởi vậy ông Thái chịu đem một chiếc xe về tiệm và bà Hòa chịu dùng chung xe của bà Ngọc.
    Ăn cơm rồi hai đàng hẹn hò với nhau sáng bữa sau vợ chồng ông Thái đem hết ba con vô tiệm cúng khai trương, ở luôn trong đó ăn cơm đợi xế xe bà Ngọc vô, rồi đi hết hai xe đặng sắp nhỏ đi theo chơi cho chúng biết Bình Phước.
    Bữa sau đúng 2 giờ rưỡi xe bà Ngọc vô tới. Bà nói bà có biểu mua hai gói trà với hai cân mứt đem theo đặng biếu cho Hương hào Điều và ông Ba Lự, đầu năm đi thăm người ta phải có lễ vật cho người ta vui. Vợ chồng ông Thái khen ý bà hay, nghĩ vì ở đời phải mua lòng mọi người nhứt là được thiện cảm của kẻ dưới thì mới có người giúp cho mình thành công.
    Mấy người đều lên xe mà đi. Ông Thái biểu Đào với Lý lên xe của ông mà chạy trước với ông. Hai bà dắt Tòng đi xe lớn với hai bà chạy theo sau.
    Hai xe tới đều chạy hết vô sân mà đậu. Vợ chồng ông Thái với bà Ngọc thấy ông Ba Lự đương lui cui dọn dẹp cái nền nhà cũ, lại có ba người ở trần đứng cuốc cỏ trên mấy liếp vườn thì chưng hửng. Bà Ngọc xách một gói trà với một gói mứt xuống xe bà kêu ông Ba Lự mà hỏi: "Vừa mới hết Tết ông đã kêu anh em lại làm hay sao ông Ba?".
    Ông Ba Lự cười mà đáp: "Bữa hổm cô dặn ăn Tết rồi thì kêu người phụ với tôi mà làm liền làm sạch sẽ cho mau. Trên nầy ăn Tết nghỉ một hai ngày thôi, chớ nghỉ hoài hay sao. Thấy ba anh em đó rãnh tôi kêu lại làm với tôi. Tụi tôi khởi công từ sáng hôm qua".
    Bà Ngọc nói: "Ông Ba sốt sắng thiệt tôi cám ơn quá. Bữa nay tôi đi chơi. Tôi có đem trà và mứt cho ông đây. Tôi có dè ông khởi công đâu. Ông biểu ba anh đó nghỉ lại đây cho tôi nói chuyện một chút, nghỉ nấu nước chế trà rồi ăn mứt uống trà chơi một lát".
    Bà đưa hai gói cho ông Ba. Ông cảm ơn rồi kêu ba người kia lại. Ba người lễ phép chào khách hết. Bà Ngọc nói: "Tôi là người gốc gác ở đây chớ không phải người xa lạ. Ông Ba kêu ba anh em lại giúp cho tôi sửa sang vườn tược nhà cửa của cha tôi hồi trước, ba anh sốt sắng giúp liền, thiệt tôi cám ơn lung lắm. Bây giờ nước nhà đã được tự do độc lập. Tôi về sửa sang chỗ ở lại cho êm ấm đặng tôi ở với bà con trong làng cho vui. Tôi xin mấy anh cứ hiệp với ông Ba mà giúp tôi. Tôi biết ơn lắm. Bữa nay nhơn dịp Tết tôi về thăm mồ mả cha mẹ thình lình. Sẵn gặp mấy anh đây, tôi xin đưa trước cho mỗi người vài trăm bạc đặng mua gạo ăn mà làm việc cho tôi. Bây giờ dọn mấy liếp cho sạch cỏ, cuốc mấy gốc cây chết mà bỏ, vét các mương cho sâu, sửa mội nước lại cho thông rồi dọn nền nhà cũ lại lại cho bằng thẳng đặng có sẵn chỗ mà cất nhà mới".
    Bà Ngọc mở bóp lấy bạc ra ra mà trao cho Ba Lự với ba anh kia mỗi người 200 đồng và nói tiếp: "Đây là số tiền tôi đưa trước. Mấy bà con cứ làm luôn rồi sẽ tính. Từ đây đôi ba bữa tôi sẽ lên một lần mà thăm. Mấy bà con muốn tính tiền công theo làm ngày hay là làm tháng mai mốt tôi lên rồi nói cho tôi biết. Tính cách nào cũng được miễn bà con làm hẳn hòi, tận tâm giúp tôi đặng sau nầy tôi trở về ở với bà con cho vui. Mấy anh tính tiền công với người khác bao nhiêu thì tôi cũng trả như người ta, mà mấy anh làm kỹ lưỡng thì tôi thưởng công thêm là khác. Công việc của tôi còn nhiều lắm, chớ không phải làm chuuyện nầy rồi thôi. Trời sa mưa tôi còn đặt cây mà trồng, còn lo trồng mía, còn cất nhà cửa, làm cả năm sợ cũng chưa hết công việc. Mấy anh chịu giúp tôi, có lẽ tính làm tháng tiện hơn hoặc làm năm cũng được. Muốn lãnh tiền trước cứ nhắn tôi sẽ giúp cho. Mấy anh suy nghĩ rồi mai mốt tôi lên sẽ nói cho tôi biết. Còn ông Ba, ông có cuốc cỏ dùm chung quanh mồ mả cho sạch chưa?"
    Ông Ba Lự nói: "Hôm cô biểu đó, bữa sau tôi làm liền, làm một ngày thì xong hết. Cô bước lại đó mà coi".
    Bà Ngọc biểu mấy người làm nên nghỉ nấu trà uống cho đã khát rồi sẽ làm nữa, để bà đi viếng mộ và thăm anh Hương hào Điều rồi bà sẽ trở lại.
    Bà biểu Tòng lại xe lấy gói trà với gói mứt nữa rồi đi theo sau. Bà dắt Đào, Lý với vợ chồng ông Thái lại viếng hai ngôi mộ. Thiệt quả ông Ba đã cuốc cỏ sạch sẽ và ban đất bằng thẳng chung quanh mộ; bà lấy làm hài lòng. Ông Thái nói ở đời hễ mình có tiền mà mình biết ở rộng rãi với kẻ nghèo thì ai cũng tận tâm tận lực mà giúp mình. Ông khen bà Ngọc hồi nãy nói với mấy người làm công đó trúng điệu lắm. Ông thấy họ lộ vẽ cảm tình nhiều. Ông chắc họ sẽ là bộ hạ chơn thành của bà và họ sẽ giúp gây thiện cảm cả vùng nầy ai cũng kính mến bà hết.
    Hương hào Điều thấy khách Sài gòn đến nhà thì vợ chồng đều ra sân chào mừng rồi mời vô. Bà Ngọc biếu trà với mứt, vợ chồng đều tỏ lời cám ơn. Nói chuyện chơi một hồi rồi bà Ngọc rủ trở lại chỗ mấy người làm vườn đặng cắt nghĩa cho họ làm. Ông Thái biểu hai bà với mấy trẻ nhỏ đi trước, để ông ở lại nói chuyện với Hương hào Điều một lát rồi ông sẽ lại sau.
    Hai bà dắt mấy cô cậu trở lại chỗ xe đậu. Thấy mấy người vẫn làm việc chớ không chịu nghỉ, bà Ngọc hỏi sao không nghỉ mà uống trà. Ông Ba nói đương làm việc, lại trưa nực uống trà nóng không nổi nên anh em tính làm luôn, để tối rồi sẽ ăn mứt uống trà mới ngon.
    Bà Ngọc với bà Hòa đi vòng trong vườn với mấy cô cậu, bàn tính coi sau sẽ cất nhà lại thì cất theo kiểu nào đặng lên ở chơi cho có đủ tiện nghi, mà người ta xem cũng đẹp mắt. Còn vườn thì tính coi phải trồng giống cây gì cho mau có trái và trái quí giá.
    Cô Đào có máu thương mãi nên cô tỏ ý muốn trồng sầu riêng cho nhiều, cô nói hiện thời trái cây chỉ có sầu riêng người ta thích hơn hết. Đầu mùa người ta dám mua đến bốn năm chục đồng một ký lô, lúc đông ken, sầu riêng chất đầy chợ nên sụt giá song cũng còn bán hai mươi mấy đồng một ký, ruột mình ăn được cân không tới 100 cờ-ram, còn hơn 900 cờ-ram là vỏ với hột thì bỏ hết chớ có dùng gì đâu. Nho tươi nhập cảng mình than mắc, mà trái nho ăn hết vỏ tuột, nên không mắc bằng sầu riêng trồng trong xứ.
    Cô Lý lại muốn trồng trà trồng tiêu, là hai vật cần thiết của người mình, nên phải sản xuất nhiều cho đủ mà dùng, khỏi nhập cảng trà và tiêu ngoại quốc. Mà cô lại còn muốn trồng bông coi cho đẹp, nhứt là trồng bông huệ với bông sen, nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo đương sôi nổi, nhiều người kiếm mua hai thứ bông đó mà cúng Phật, nên họ thừa cơ hội họ bán mắc quá.
    Còn nhà thì ý bà Hòa muốn cất cho rộng lớn đặng có chỗ trữ đường. Bà Ngọc khác ý, bà muốn cất theo kiểu biệt thự tối tân, sắp đặt cho có đủ tiện nghi, đặng lúc làm đường nhằm mùa nóng nực lên ở cho có thú phong lưu sung sướng trữ đường thì cất kho riêng theo phía lò đường đặng chỗ làm với chỗ nghỉ phân biệt.
    Hai bà tính với nhau lúc có công việc phải lên coi chừng mà không cần phải có mặt ông Thái thì hai bà lên ở trên nầy sớm mơi đi, chiều trở về. Còn có đường nhiều, cần phải bán thì bà Hòa biết hết mấy vựa đường ở ngoài Sài gòn cũng như trong Chợ Lớn, bởi vậy bà lãnh phần đi chịu mối và giao giá mà bán cho.
    Ông Thái ở nhà Hương hào Điều nói chuyện đến chiều mát hai người mới trở lại kiếm hai bà. Ông Thái có cầm một tập giấy trong tay bộ ông vui vẻ và thân thiện với Hương hào Điều lắm. Hai người dắt nhau vô lò đường mà nói chuyện chút nữa rồi ông Thái rủ hai bà về, nói đã gần tối rồi. Khách mới từ giã Hương hào Điều và mấy người làm vườn mà về hẹn mai mốt sẽ trở lên nữa.
    Bận về ông Thái lại đi chung một xe hơi với hai bà, để xe của ông cho ba con đi. Xe chạy rồi ông mới nói với bà Ngọc rằng Hương hào Điều là người thành thiệt chớ không phải người gian xảo. Ảnh ít nói là tại ảnh thiệt thà. Ảnh có tỏ hết công việc của ảnh làm cho ông hiểu, ảnh lại trao cuốn sổ của ảnh đây cho ông đem về mà coi, ảnh không dấu diếm việc nào hết. Ông Thái nói để tối nầy ông xem kỹ sổ lại rồi chiều mai ổng về ngoài nhà ăn cơm ổng sẽ nói chuyện với bà Ngọc.
    Hai xe về tới tiệm, ông Thái leo xuống, Đào, Lý với Tòng sang xe lớn ngồi chung với hai bà, để xe nhà lại tiệm cho cha dùng.
    

Xem Tiếp Chương 6Xem Tiếp Chương 7 (Kết Thúc)

Chị Đào Chị Lý
  » Xem Tập 1
  » Xem Tập 2
  » Xem Tập 3
  » Xem Tập 4
  » Đang Xem Tập 5
  » Xem Tiếp Tập 6
  » Xem Tiếp Tập 7
 
Những Truyện Dài Khác
» Liêu Trai Chí Dị
» Pie Đệ Nhất
» Thiên Thần Và Ác Quỷ
» Tuyết Bỏng
» Cuộc Đời Của Pi ( Phần II )
» Mao: The Unknown Story
» Con Lừa Và Tôi
» Trái Tim Không Cần Lý Lẽ
» Tình Ca Giáo Viên Miền Núi
» Cuốn Sổ Lớn
» Chuyện Tình New York
» Những Kẻ Điên Rồ Phải Chết
» Đau Thương Đến Chết ( Phần I )
» Hai Chị Em
» Giữa Cơn Gió Lốc
» Chỉ Một Lần Yêu
» Đi Qua Hoa Cúc
» Tình Trên Đỉnh Sầu
» Tôi Có Thể... Nói Thẳng Với Anh
» Hành Trình Của Sói
» Âm Mưu Ngày Tận Thế
» Cầm Thư Quán