Bí Danh:
Mật Mã:
Đăng Ký / Register
Tên Truyện   Tác Giả   Truyện hay Tác Giả
VietSingle - Tìm Bạn Chat - Trò Chuyện Hát Karaoke Xem Phim Video Nghe Nhạc Music Nấu Ăn Truyện & Thơ Từ Điển
Mục Lục
Nghe Truyện Ngắn Audio
Nghe Truyện Dài Audio
Nghe Truyện Ma Audio
Truyện Cổ Tích Video
Học Sinh Cười
Truyện Cổ Tích
Truyện Cười
Truyện Dài
Truyện Học Trò
Truyện Kiếm Hiệp
Truyện Ma (Kinh Dị)
Truyện Ngắn
Truyện Quỳnh Dao
Tất Cả Thi Sĩ
 
Truyện Dài » Khóc Lên Đi, Ôi Quê Hương Yêu Dấu ( Phần II ) Tác Giả: Alan Paton    
    Jarvis ngồi trên chiếc ghế bành của con, còn bà vợ và nàng dâu trở về nhà ông bà Harrison. Sách, sách, và sách nữa, chưa thấy nhà nào có nhiều sách như vậy. Trên bàn la liệt giấy tờ, thư từ và sách nữa.
    “ Thưa ông Jarvis, xin mời ông lại diễn thuyết tại Giám lý hội (1) Parkwold”
    “ Thưa ông Jarvis, chúng tôi lấy làm hân hạnh được ông lại diễn thuyết ở câu lạc bộ Thanh niên Anglican Sophiatown”
    “Thưa ông Jarvis, xin mời ông quá bộ lại tham dự cuộc thảo luận ở Đại học….”
    Không ông Jarvis không thể lại diễn thuyết ở một nơi nào cả.
    “ Thưa ông Jarvis, chúng tôi hân hạnh mời ông lại dự buổi họp hàng năm của hội Ki Tô và Do Thái…”.
    “Ông bà H.B. Singh hân hạnh mời ông bà Jarvis lại dự tiệc cưới con gái đầu lòng của chúng tôi, cô Sarajini”
    “ Xin mời ông bà Jarvis quá bộ lại dự dạ hội Toc. H ở thung lũng Van Wyk, cho buổi dạ hội được thêm long trọng…”
    Không ông Jarvis không thể nhận những lời nhã nhặn đó được.
    Trên tường bên cạnh các tủ sách, treo ba tấm hình: hình Chúa Ki Tô trên thánh giá, hình Abraham Lincoln, hình ngôi nhà trắng ở Vergelegen và bức tranh vẽ một phong cảnh đồng cỏ mùa đông, lơ thơ mấy gốc liễu trụi lá bên dòng nước.
    Ông Jarvis đứng dậy bước lại nhìn các tủ sách. Riêng về Abraham Lincoln đã có mấy trăm cuốn. Một người mà sao có thể làm đề tài cho bấy nhiêu tác phẩm, chứa đầy một tủ sách. Một tủ nữa chứa các sách về Nam Phi: cuốn Tiểu sử Rhodes của Sarah Gertrude Millin, cuốn về Smuts cũng của nữ văn sĩ đó, cuốn Tiểu sử Louis Botha của Engelenburg, rồi các sách nghiên cứu về các vấn đề chủng tộc, về loài chim Nam Phi, về Kruger Park và vô số các sách khác nữa. Một tủ thứ ba đầy những sách viết bằng tiếng Afrikaans, nhưng đọc nhan đề ông chẳng hiểu gì cả. Rồi đây nữa sách về tôn giáo, về Nga Sô, về vấn đề phạm pháp, về tội nhân, có cả những tập thi tuyển nữa. Ông kiếm Shakespeare. Có cả Shakespeare.
    Ông trở về ngồi ở chiếc ghế bành, ngắm nghía hồi lâu bức hình Chúa Ki Tô trên thánh giá, hình Abraham Lincoln, hình ngôi nhà Vergelegen và tấm tranh vẽ cành liễu bên dòng nước. Rồi ông kéo mấy tờ giấy lại gần.
    Tờ thứ nhất là một bức thư của người thư ký câu lạc bộ Thanh niên Phi ở Claremont, đường Gladiolus gởi cho con ông, tỏ ý tiếc rằng con ông không lại dự buổi hội họp hằng năm được, và báo tin rằng con ông lại được bầu làm Hội trưởng một khoá nữa. Cuối thư có đoạn cú pháp kỳ cục này:
    “ Cuộc họp hằng năm giao cho tôi cái việc mừng ông về điều đó, và đa tạ ông rất nhiều về tất cả thời gian ông đã hội họp với chúng tôi, về các vật mà ông đã tặng cho Hội. Nếu không có ông dự thì Hội này làm sao mà tổ chức được, đó là điều bí mật mà đa số chúng tôi không hiểu. Vì vậy chúng tôi nhất định bầu ông làm Hội trưởng một khoá nữa.
    Tôi xin lỗi ông vì dùng tờ giấy này, nhưng xấp giấy viết thư của Hội chúng ta đã bị mất rồi do những hoàn cảnh bất ngờ.
    Tôi xin trân trọng chào ông.
    Washington Lefifi ” (2)
    Còn tờ giấy kia có nét chữ của con ông. Chắc là những đoạn trong một bài hoặc một cuốn nào đó, vì hàng đầu là cuối một câu và hàng cuối là một câu còn dở dang chưa hết. Ông tìm không thấy những trang còn thiếu, bèn đọc những trang đó vậy:
    “ Có thể chấp nhận được. Việc mà chúng ta đã làm khi tới Nam Phi có thể chấp nhận được. Phát triển những nguồn lợi lao của ta nhờ nhân công tại đó, là điều hồi xưa có thể chấp nhận được. Dùng những người không chuyên môn vào một công việc không chuyên môn là điều hồi xưa có thể chấp nhận được. Nhưng lấy cớ là những việc không chuyên môn, mà không đào tạo những thợ chuyên môn thì là điều không chấp nhận được.
    “ Khi chúng ta tìm thấy mỏ vàng, phải kiếm nhân công cho mỏ, đó là điều chấp nhận được. Lúc đó lập trại cho thợ mỏ, bắt vợ con họ phải ở xa châu thành, là điều có thể chấp nhận được. Chấp nhận được vì hồi đó chúng ta chưa biết gì cả và chúng ta còn thí nghiệm. Nhưng ngày nay chúng ta đã hiểu biết rồi thì điều đó không thể chấp nhận được nữa. Khi chúng ta biết rằng như vậy, là làm gia đình họ tan tành, mà chúng ta vẫn tiếp tục làm thì điều đó không sao chấp nhận được.
    “ Nếu có sự thoả thuận của thợ thuyền, thì sự khai thác tài nguyên là điều chấp nhận được. Nhưng khai thác mà làm hại cho thợ thuyền, thì là điều không thể chấp nhận được. Không thể chấp nhận được cái việc đào vàng, chế tạo sản phẩm, hoặc cấy cầy ruộng đất, nếu việc khai thác, chế tạo, trồng trọt đó cần có một chính sách duy trì cảnh khốn khổ của thợ thuyền. Không thể chấp nhận được sự gia tăng tài sản của một số người, nếu họ chỉ có thể làm giầu trên lưng người khác. Sự thực chỉ có một danh từ để gọi các hành động ấy, danh từ “ bóc lột ”. Cái đó có thể chấp nhận được hồi chúng ta mới tới xứ này, vì lúc đó chúng ta không thể lường được, sự bóc lột đó đã làm cho đời sống cộng đồng của dân bản xứ tan nát ra sao, đời sống gia đình của dân bản xứ trụy lạc ra sao, họ hoá ra nghèo khổ, hà tiện ra sao, gây tội lỗi ra sao. Nhưng bây giờ chúng ta đã thấy những tai hại đó rồi, thì việc đó không thể chấp nhận được nữa.
    “ Hồi xưa có thể chấp nhận được cái việc bỏ thí sự giáo dục cho dân bản xứ, cho ai muốn cáng đáng thì cáng đáng. Nghi ngờ sự ích lợi của việc giáo dục dân bản xứ, là điều hồi xưa có thể chấp nhận được. Nhưng ngày nay đã có kinh nghiệm rồi thì điều đó không chấp nhận được nữa. Một phần do sự phát triển kỹ nghệ của ta, một phần do những nguyên nhân ngoài ý muốn của ta, hiện nay số dân bản xứ ở các thành thị đã rất đông. Xã hội thời nào cũng vì cái lợi của xã hội, nếu không phải vì những lý do khác. Lo việc giáo dục con em để dạy cho chúng biết trọng pháp luật, có những mục đích hợp với đời sống xã hội. Phải dùng cách đó chứ không cách nào khác. Vậy mà chúng ta vẫn để mặc, vài người Âu lưu tâm tới vấn đề muốn dạy dỗ dân bản xứ ở thành thị ra sao tuỳ ý, mà không giúp họ tiền và phương tiện để họ phát triển công việc của họ, cái đó không thể chấp nhận được. Vả lại, chỉ xét riêng về cái lợi của xã hội thì chính sách đó còn nguy hại là khác.
    “ Hồi xưa, việc tiêu diệt một bộ lạc, nó làm cản trở sự phát triển của xứ này, là điều có thể chấp nhận được, tin rằng sự tiêu diệt đó không sao tránh được là điều lúc đó có thể chấp nhận được. Nhưng ngày nay, thản nhiên nhìn một sự tiêu diệt như vậy, mà không kiếm cách thay thế nó bằng một cái gì khác, hoặc chỉ thay thế một chút thôi, để đến nỗi cả một dân tộc bị hủy hoại về thể chất và tinh thần, là một điều không thể chấp nhận được.
    “ Chế độ bộ lạc cổ truyền mặc dầu tàn nhẫn, dã man, mặc dầu có nhiều mê tín dị đoan, pháp thuật, cũng vẫn là một chế độ luân lý. Dân bản xứ chúng ta thời nay thành những kẻ phạm pháp, mãi dâm, nghiện rượu, không phải vì bản tính của họ như vậy, mà vì các chế độ trật tự chất phác, cái hệ thống tập tục, truyền thống của họ đã bị hủy hoại. Vậy xã hội văn mình của chúng ta, không thể trốn tránh được cái bổn phận thành lập cho họ một chế độ trật tự với những tập tục, truyền thống khác.
    “Đành rằng thời trước chúng ta hy vọng rằng dùng một chính sách chia cách chủng tộc, thì điều đó có thể duy trì chế độ bộ lạc. Điều đó hồi xưa có thể chấp nhận được. Nhưng chúng ta chưa bao giờ theo chính sách đó một cách đúng đắn hoặc thành tâm. Chúng ta để ra một phần mười đất đai cho bốn phần năm dân số. Như vậy chúng ta làm cho – có người bảo rằng chúng ta cố ý làm cho – nhân công bản xứ nhất định phải đổ dồn về các châu thành. Thế là chúng ta phải chịu hậu quả của tính ích kỷ của chúng ta.
    “ Không nên làm cho vấn đề có vẻ kém quan trọng đi. Không nên gây cảm tưởng rằng giải quyết vấn đề đó là việc dễ. Không nên coi thường những nỗi lo lắng, sợ sệt nó bao vây chúng ta. Nhưng dù chúng ta lo lắng, sợ sệt hay không thì chúng ta cũng không được trốn tránh vấn đề luân lý, vì chúng ta những người theo Ki Tô giáo.
    “Đã tới lúc….”
    Tới đó hết trang, Jarvis đương say mê đọc, kiếm đoạn tiếp nhưng coi hết các tờ giấy bừa bãi trên bàn, mà không thấy được thêm trang nào nữa. Ông đốt thuốc, kéo mấy tờ giấy lại gần mình và đọc lại.
    Khi đã đọc xong lần thứ nhì, ông vẫn tiếp tục hút thuốc, trầm ngâm suy tư. Rồi ông đứng dậy, lại đứng trước tủ chứa sách về Lincoln, ngó lên bức hình của bậc vĩ nhân đã ảnh hưởng lớn tới con ông như vậy. Ông nhìn qua nhan đề mấy trăm cuốn sách, đẩy miếng kính qua một bên, lấy ra một cuốn. Rồi ông trở về ngồi ở ghế bành, lật trang sách. Tới một chương nhan đề: Bài diễn văn nổi tiếng ở Gettysburg, một diễn văn mới đầu không ai để ý tới, rồi sau được coi là một trong những diễn văn quan trọng nhất của thế giới. Ông lật mấy trang mở đầu, tới bài diễn văn, rồi chăm chú đọc từ hàng đầu tới hàng cuối. Đọc xong ông lại hút thuốc, suy nghĩ miên man. Được một lát ông đứng dậy, đặt trả cuốn sách vào chỗ cũ, khép tủ lại. Nghĩ sao ông lại mở tủ ra, lấy cuốn sách bỏ vào túi, rồi đẩy tấm kính khép lại. Ông ngó đồng hồ đeo tay, gõ ống điếu vào lò sưởi để trút hết tàn thuốc, đội nón, cầm lấy chiếc can.
    Ông chậm rãi xuống cầu thang mở cái cửa đưa tới hành lang bi thảm đó. Ông dỡ nón ngó vết sẫm ở trên sàn. Ông không cố ý gợi lại mà tự nhiên hình ảnh em bé ở High Place hiện lên trong óc ông, một em bé chơi mấy cây súng bằng gỗ. Ông đi dọc theo hành lang, lơ đãng không nhìn thấy gì cả bước qua cái cửa mà mấy hôm trước thình lình thần chết đã ùa vô. Thầy cảnh sát chào ông, ông đáp lại bằng mấy lời bâng quơ chẳng có ý nghĩa gì cả. Ông lại đội nón lên, bước ra cửa rào. Ông do dự ngó hai phía đầu và cuối con đường cái. Rồi gắng sức bước đi. Thầy cảnh sát thở dài, vươn vai.
    
    1. Một giáo phái của Anh: Methodist.
    2. Giọng thư ngây ngô, vì người viết là một người da đen ít học.
    
    
    Tang lễ ở giáo đường Parkwold đã gần chấm dứt. Giáo đường đó nhỏ quá so với số người tới dự. Có đủ người da trắng, da đen, Ấn Độ. Lần đó là lần đầu tiên ông bà Jarvis ngồi trong một giáo đường lẫn lộn với những người không phải da trắng. Chính đức Giám Mục cất tiếng nói, những lời làm người nghe đau lòng, nhưng cũng làm cho tâm hồn họ cao thượng hẳn lên. Chính ông cũng bảo rằng con người không hiểu được những điều bí ẩn này: “ Tại sao mà một thanh niên tương lai hứa hẹn như vậy lại lìa đời giữa tuổi xuân, để lại vợ goá và con côi. Tại sao xứ này lại bị cướp mất một người con có thể phụng sự đắc lực như vậy ”. Khi nói về Nam Phi, giọng ông cất cao lên, lời lẽ cao đẹp, Jarvis ngồi nghe mà say mê, quên được một lát nỗi đau lòng của mình. Đức Giám Mục bảo rằng thế là đã có một cuộc đời hy sinh cho Nam Phi, cuộc đời của một người thông minh, can đảm mà tình nhân ái đã thắng được sợ sệt; Jarvis cảm thấy hãnh diện về người con của ông mà trước kia ông không hiểu.
    
    
    Cuộc lễ chấm dứt. Những cánh cửa bằng đồng đen lặng lẽ mở ra, chiếc quan tài lặng lẽ đưa vào lò để thiêu thành tro. Có những người mà Jarvis không quen biết lại bắt tay ông, người thì nói vài lời chia buồn theo tục lệ, người thì chỉ nói về con ông thôi. Có cả người da đen - phải, cả người da đen nữa – cũng lại chia buồn với ông, và lần này là lần đầu tiên ông bắt tay người da đen.
    Họ trở về nhà ông bà Harrison nghỉ đêm tại đó, cái đêm mà ai cũng cho là đêm đau khổ nhất đây. Đối với Margaret thì chắc chắn là như vậy rồi; ông sẽ không để bà lên phòng ngủ một mình nữa. Nhưng đối với ông thì việc như vậy là xong, ông có thể ngồi trong phòng làm việc của Harrison uống ly huýt-ki, hút cối thuốc và nói về bất kỳ chuyện gì mà Harrison thích, cả về chuyện con ông nữa.
    - Anh Jarvis, anh tính ở lại đây bao lâu nữa. Chúng tôi mong anh chị ở lại càng lâu càng tốt.
    - Cảm ơn anh, tôi đoán rằng nhà tôi muốn ngày mai về với Marry và các cháu, và chúng tôi thu xếp để người con trai một ông láng giềng lại ở với họ. Thanh niên đó dễ thương, mới giải ngũ. Còn tôi thì sẽ ở lại đây ít bữa để thu xếp công việc của Arthur, ít nhất là cho xong mấy việc cần giải quyết ngay.
    - Anh thứ lỗi cho nhé, ty cảnh sát nói gì về vụ đó.
    Họ còn đòi cho người đầy tớ hồi tỉnh lại. Họ hy vọng rằng nó có thể nhận diện được một đứa. Họ bảo nếu không nhận diện được thì sẽ khó tìm được thủ phạm lắm. Việc xảy ra mau quá. Họ cũng hy vọng rằng có một người nào đó thấy chúng từ trong chạy ra. Vì người ta nghĩ rằng lúc đó chúng tất hoảng hốt, xúc động mạnh, dáng đi chắc không bình thường.
    - Tôi cầu trời cho bắt được chúng. Rồi treo cổ cả bọn chúng lên. Xin lỗi anh nhé.
    - Tôi hiểu anh lắm.
    - Chúng tôi ở đây không được yên ổn, anh ạ. Tôi cũng không biết, treo cổ chúng hết rồi chúng tôi sẽ có được yên ổn hay không nữa. Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng điều đó làm cho chúng tôi chưng hửng, không sao hiểu nổi.
    - Tôi hiểu anh muốn nói gì. Còn tôi thì….tôi cho rằng còn sớm quá, chưa nghĩ tới điều đó được.
    - Tôi hiểu ý anh. Tôi hiểu - ngờ rằng hiểu. Khía cạnh đó không phải là khía cạnh làm anh xúc động hơn hết. Ở vào địa vị anh có lẽ tôi cũng như anh. Tôi thực không biết.
    - Chính tôi cũng không biết nữa. Anh có lý, quả thực tôi cũng không cho khía cạnh đó là quan trọng, ít nhất là lúc này. Nhưng tôi thấy là rõ rằng vấn đề đó hiện có một khía cạnh khác.
    - Chúng tôi đương vận động đòi chính phủ tăng cường lực lượng cảnh sát. Tối mai sẽ có một cuộc mít tinh lớn ở Parkwold. Dân chúng khu này sôi nổi bất bình. Anh biết không, anh Jarvis, không có một chủ nhà nào trong khu ngoại ô này biết rõ được có những ai ở trong nhà dưới của mình. Tôi không chịu như vậy. Tôi bảo bọn đầy tớ của tôi rằng tôi không muốn thấy người lạ lảng vảng quanh nhà tôi, nhất là không cho họ ngủ trong nhà tôi. Chồng chị bếp thỉnh thoảng về đây thăm vợ, anh ta làm ở Benoni, hay Springs hay một nơi nào khác, chị ta tiếp đón chồng đàng hoàng và tôi cho phép vô. Nhưng kẻ nào khác thì nhất định là không được với tôi. Nếu tôi không coi chừng thì nhà tôi sẽ đầy anh em chú bác của họ, mà hầu hết là bọn vô lại.
    - Vâng, tôi cũng nghĩ rằng ở Johannesburg chắc phải như vậy.
    - Rồi còn những đường mương xưa dùng làm cống ở sau nhà nữa. Chúng tôi đã yêu cầu cho lấp lại, vì bây giờ đã có hệ thống ống cống đàng hoàng rồi. Những đường mương đó sâu tối, nguy hiểm, làm chỗ ẩn náu cho bọn du đảng. Có Trời mới biết được xứ này sẽ ra sao. Anh Jarvis, tôi không phải là người căm thù tụi da đen. Tôi rán cư xử tử tế với họ, trả công họ xứng đáng, cho họ một căn phòng sạch sẽ, thời giờ nghỉ ngơi vừa phải. Bọn gia nhân của chúng tôi làm cả mấy năm với chúng tôi. Nhưng bọn bản xứ nói chung đương thoát ly chúng ta. Anh có biết không, họ bắt đầu thành lập nghiệp đoàn rồi đấy.
    - Tôi không hay đấy.
    - Nó vậy đấy. Chúng dọa đình công trong mỏ ở đây này, đòi tăng tiền công lên mười si-linh. Hiện nay họ lãnh khoảng ba si-linh một phiên (1) và vài mỏ sắp phải đóng cửa. Họ sống trong những trại rất đàng hoàng, có vài trại rất tân thời mà chính tôi đây cũng chịu ở nữa. Họ được ăn uống đủ bổ hơn ở nhà họ nhiều, đau ốm thì được săn sóc khỏi phải trả tiền, rồi còn nhiều tiện nghi nữa sao mà biết hết được. Tôi nói thực với anh này, nếu phí tổn cứ tăng lên nữa thì sẽ phải đóng cửa hết các sở mỏ và lúc đó xứ Nam Phi này mới ra sao? Chính tụi bản xứ mới ra sao? Sẽ có cả ngàn đứa sẽ chết đói cho mà coi.
    John Harrison bước vô, hỏi:
    - Con vô được không ba, con không quấy rầy ba chứ?
    Harrison đáp:
    - Ngồi xuống đó John.
    Thanh niên đó ngồi xuống và cha của cậu đương hăng hái nhiệt liệt, tiếp tục trình bày thuyết của mình.
    - Và bọn nông dân mới ra sao, anh Jarvis? Thực phẩm đem bán ở đâu, ai có tiền đâu mà mua? Chính phủ lấy tiền đâu mà trợ cấp cho họ? Cũng sẽ không còn kỹ nghệ nữa; kỹ nghệ tuỳ thuộc vào mỏ, vì có mỏ thì người dân mới có tiền mua sản phẩm của kỹ nghệ. Mà cái chính quyền của chúng ta này cứ bóp nặn của mỏ, mỗi năm lạnh lùng rút tỉa bảy chục phần trăm số lời của mỏ. Nhưng nếu không có mỏ thì sẽ ra sao? Một nửa số dân Afrikaaner này thất nghiệp. Sẽ không còn công sở, công chức gì nữa. Một nửa này cũng sẽ thất nghiệp nữa.
    Ông ta rót thêm huýt ki cho ông thông gia, và cho mình rồi nói tiếp:
    - Tôi nói thực với anh, không có mỏ thì không có Nam Phi. Chỉ còn cách cuốn gói và trả xứ này cho dân bản xứ. Cái đó làm cho tôi nổi giận lên mỗi khi có ai mạt sát mỏ. Nhất là tụi Afrikaaner. Họ điên khùng nghĩ rằng chủ mỏ là người xứ lạ tới hút mủ hút máu rồi tới khi rút tỉa hết rồi, con gà không còn đẻ trứng vàng nữa thì sẵn sàng rút lui. Tôi, tôi nói thẳng với anh rằng phần lớn các cổ phần mỏ ở trong tay những người ở tại đây; mỏ là mỏ của chúng tôi. Nghe những lời vu cáo như vậy tôi bực mình muốn phát đau lên anh ơi. Một chính phủ Cộng Hòa! Nếu thành chính phủ Cộng Hòa thì chúng ta sẽ ra sao?
    - Anh Harrison ạ, tôi đi nghỉ đây. Tối nay tôi không muốn để nhà tôi trên lầu một mình.
    - Xin lỗi anh nhé. Tôi nói hăng quá không tự ngăn lại được.
    - Có gì mà anh phải xin lỗi. Nghe anh nói tôi thấy thích chứ. Tôi ít nói, chứ không phải là vì tôi không thích. Tôi tin chắc rằng anh hiểu rõ.
    Harrison nói nhỏ nhẹ, khiêm tốn:
    - Bậy quá, bậy quá. Tôi đã hăng quá, không tự chủ được.
    Jarvis bảo:
    - Anh ạ, tôi thành thực đấy khi tôi bảo rằng nghe anh nói, tôi thấy thích. Tôi thích thật mà.
    Ông nhìn hai cha con Harrison:
    - Tôi đâu có chịu được cái việc ngồi nói chuyện cả giờ về tang tóc, chết chóc.
    Harrison nhìn ông ta mà có vẻ ngượng:
    - Thực là anh làm cho tôi yên lòng.
    Jarvis bảo:
    - Giá có cháu ở đây tối nay để được nghe cháu thảo luận với anh.
    John Harrison hăng hái nói xen vào:
    - Vâng, nghe anh ấy thảo luận, bác sẽ thích lắm. Cháu chưa thấy người nào bàn về vấn đề đó mà hay như ảnh.
    Harrison hết ngượng bảo:
    - Tôi không đồng ý với cậu ấy, nhưng tôi rất chú ý tới lời cậu ấy nói.
    - Vâng, cháu là một người đàng hoàng, tốt. Tôi không ân hận gì về cháu cả. Chúc anh ngon giấc, anh Harrison.
    - Vâng, chúc anh ngon giấc. Đêm qua anh chị ngủ được không?
    - Hai đứa chúng tôi chợp mắt được một chút.
    - Tôi mong rằng đêm nay, anh chị ngủ được nhiều hơn. Xin anh chị nhớ cho nhà này cũng như nhà của anh chị nhé.
    - Cảm ơn anh. Này, cháu John?
    - Thưa bác hỏi chi?
    - Cháu biết cái Câu lạc bộ Thanh niên, đường Gladiolus, ở Claremont không?
    - Cháu biết rõ lắm. Hội của chúng cháu, của anh Arthur và cháu đấy.
    - Bác muốn lại chơi. Lúc nào tiện cho cháu….
    - Cháu rất sung sướng được đưa bác đi. Vói lại…
    - Với lại cái gì?
    - Với lại cháu muốn thưa với bác rằng khi ba cháu nói về các người Afrikaaner là muốn nói về phái Quốc Gia (2) đấy. Anh Arthur hồi trước luôn luôn nói với ba cháu vậy. Và ba cháu cũng nhận vậy, nhưng cơ hồ như đã quên rồi.
    Jarvis mỉm cười nhìn cậu ta rồi nhìn cha cậu. Ông bảo:
    - Được một điểm tốt rồi đấy. Chúc anh và cháu yên giấc.
    Sáng hôm sau, Harrison đứng đợi khách ở chân cầu thang bảo:
    - Mời anh vô phòng làm việc của tôi.
    Khi họ vô phòng rồi, Harrison khép cửa lại:
    - Ty cảnh sát mới kêu điện thoại cho hay, người đầy tớ đó sáng nay đã hồi tỉnh. Anh ta bảo đúng là có ba đứa. Chúng cột khăn che từ mũi trở xuống để khỏi bị nhận diện, nhưng anh ta biết chắc rằng cái thằng đập anh ta té bất tỉnh là một tên làm vườn cũ của Marry. Marry đã đuổi nó đi vì một chuyện gì đó. Anh ta nhận ra được nó, vì nó vì nó có tật giựt giựt ở mắt. Khi thằng đó thôi làm ở chỗ Marry, nó kiếm một việc trong một hãng dệt ở Doorfontein. Rồi nó lại bỏ hãng dệt, không biết đi đâu. Nhưng người ta biết được nhiều chi tiết về một đứa bản xứ khác chơi thân với nó. Hiện người ta đương lùng kiếm thằng này, mong rằng nó có thể chỉ chỗ bắt tên làm vườn kia. Chắc là chúng đương bôn tẩu.
    - Vâng.
    - Đêm qua anh chị ngủ được không?
    - Nhà tôi ngũ rất say. Giấc ngủ cần thiết cho nhà tôi lắm.
    - Vâng. Thôi mời anh đi ăn sáng.
    
    
    Ăn sáng xong, Jarvis trở vô phòng làm việc đọc bản thảo của con. Trước hết ông lật tới trang cuối, đau lòng đọc đoạn viết dở. Có thể nói đó là việc cuối cùng con ông đã làm. Khi viết những dòng đó thì con ông còn sống. Rồi đúng cái lúc đó, đúng cái lúc viết cái chữ như lơ lửng trong không trung đó, thì con ông đứng dậy đi xuống cầu thang để đón cái chết. Nếu lúc đó có ai la lên: “Đừng xuống ”. Nếu có ai la lên được rằng: “ Ngừng lại, nguy tới tánh mạng đấy…”. Nhưng không có ai ở đó để la lên cả. Lúc đó không ai có thể biết được cái điều mà bây giờ mọi người đều biết.
    Nhưng những ý nghĩ đó chẳng có ích lợi gì cả, ông không có thói quen nghĩ ngợi triền miên về cái điều đã có thể xảy ra, nhưng lại không xảy ra. Không có lợi ích gì cả, mà tưởng tượng rằng nếu lúc đó có một người nào ở đấy thì người này đã có thể ngăn không cho việc đó xảy ra, vì việc đó sở dĩ xảy ra được chỉ vì không ai ngăn lại. Vì đau khổ nên người ta hoá ra lẩn thẩn, nghĩ ngợi vớ vẩn như vậy. Ông lúc này muốn tìm hiểu con ông, chứ không ước ao một điều viễn vông. Vì vậy ông rán đọc chầm chậm đoạn cuối cùng, đọc bằng trí óc chứ không bằng con tim, để hiểu cho được kỹ.
    “ Sự thực nền văn minh Ki Tô giáo của chúng ta đầy những mâu thuẫn nan giải. Chúng ta tin ở tình huynh đệ của con người, mà ở Nam Phi này chúng ta lại không muốn có tình đó. Chúng ta tin rằng Thượng Đế ban cho loài người nhiều thiên tư, mà đời sống con người có phong phú hay không là nhờ cách dùng và hưởng những thiên tư đó. Nhưng chúng ta lại sợ không dám nghiên cứu sâu sắc lòng tin đó. Chúng ta tin rằng phải giúp đỡ các huynh đệ hạ đẳng mà chúng ta lại muốn họ ở hoài cái tình trạng hạ đẳng. Như vậy, để nuôi ảo tưởng rằng mình là những người theo Ki Tô giáo, chúng ta quy cho Thượng Đế toàn năng, đấng tạo ra vũ trụ, những ý phàm nhân của chúng ta, và bảo rằng vì người sanh ra giống người da trắng và giống người da đen, thì dĩ nhiên Ngài tán thành những hành động nào của con người có mục đích ngăn cản bước tiến của người da đen. Thậm chí chúng ta còn quy cho ngài cái ý tạo ra người da đen để cưa củi xách nước cho người da trắng nữa. Thậm chí chúng ta còn tưởng tượng rằng Ngài ban phước cho những hành động nào nhằm mục đích ngăn cản các người da đen phát triển đầy đủ những thiên tư Ngài đã ban cho họ. Chúng ta dùng những luận điệu như vậy và những luận điệu khác hoàn toàn vô lý để biện hộ cho những hành động đàn áp của mình. Chúng ta bảo rằng sở dĩ chúng ta từ khước sự giáo dục các trẻ em da đen, vì chúng không đủ thông minh để hưởng cái lợi của sự giáo dục; chúng ta không cho họ có cơ hội phát triển thiên tư vì lẽ họ không có thiên tư; chúng ta biện hộ cho hành vi của mình, mà bảo rằng chúng ta đã mất mấy ngàn năm mới tiến tới trình độ văn minh như ngày nay, có điên khùng mới nghĩ rằng người da đen có thể tiến mau hơn được, mà như vậy thì việc gì phải gấp. Rồi tới khi thấy một người da đen là được một điều gì đáng phục thì chúng ta lại đổi luận điệu, làm bộ thương hại số phận cô độc của những người xuất chúng và chúng ta tuyên bố rằng, ngăn cản người da đen đừng để cho họ thành những người siêu việt tức là có lòng nhân từ Ki Tô giáo đối với họ đấy. Thành thử Thượng Đế của chúng ta chỉ là một đấng hàm hồ, mâu thuẫn, cho người da đen có thiên tư rồi lại cấm họ dùng những thiên tư đó. Như vậy nền văn minh của chúng ta có đầy những mâu thuẫn nan giải, thì có gì là lạ? Sự thực là nền văn minh của chúng ta chẳng có gì là Ki Tô giáo cả, nó là một sự hỗn hợp bi đát, gồm một lý tưởng cao cả lẫn lộn với một sự thực hành nhút nhát, một niềm xác tín cao cả lẫn lộn với một niềm ưu lự tuyệt vọng, một tình nhân ái bao la lẫn lộn với lòng tham lam chụp giật mà sợ sệt. Xin cho tôi một phút…”
    Jarvis xúc động mạnh mẽ, mà không biết có phải là di bút của con ông, gần như là hành động cuối cùng của con ông không. Hay là vì lời văn có cái gì hay chăng, ông cũng không biết nữa. Trong đời ông, có mấy khi thưởng thức, phê phán văn chương đâu. Hay là vì ý tưởng có gì đẹp chăng, ông đâu có thường nghiên cứu những vấn đề đặc biệt đó mà biết được. Ông đứng dậy, leo cầu thang lên phòng riêng, mừng rằng không có vợ ông ở trong phòng vì ông không muốn dòng suy tư của ông bị đứt quãng. Ông cầm lấy cuốn Abraham Lincoln rồi lại trở xuống phòng làm việc, mở ra đọc bài diễn văn khai mạc thứ nhì của vị Tổng thống siêu việt đó. Ông đọc trọn bài, tâm hồn bỗng cao thương lên, ông thấy trong đó có một cái gì bí mật hé mở ra như một con đường mòn đã đứt quãng nay lại thấy khúc nối. Ông lại được hiểu biết thêm một người xa lạ, tức con ông. Ông bắt đầu hiểu tại sao con ông lại treo tấm hình của vĩ nhân đó, tại sao có nhiều sách viết về vĩ nhân đó như vậy.
    Ông cầm trang bản thảo lên để nghĩ tới con, chứ không phải để cân nhắc lời văn cùng tư tưởng. Ông ngó hàng cuối cùng:
    “ Xin cho tôi một phút….”
    Thế rồi hết. Những ngón tay đó không còn viết thêm gì nữa. Xin cho tôi một phút, tôi nghe thấy tiếng động trong bếp. Cho tôi một phút để tôi đi đón cái chết. Cho tôi cả ngàn phút đi, tôi không bao giờ trở lại nữa đâu.
    Jarvis gạt bỏ ý nghĩ đó đi, đánh quẹt đốt thuốc rồi sau khi đọc hết bản thảo, vừa hút thuốc vừa miên man suy nghĩ.
    - Anh à.
    Ông giật mình.
    - Cái gì đó, mình?
    - Anh không nên ngồi một mình như vậy.
    Ông mỉm cười với vợ:
    - Anh đâu có tính hay lo nghĩ phiền muộn mà mình ngại.
    - Thế anh ngồi làm gì đó?
    - Anh suy tư, chứ không lo nghĩ. Anh đọc, đọc cái này.
    Bà vợ cầm lấy mấy trang bản thảo, ngó qua rồi ép vào ngực.
    Ông nhỏ nhẹ bảo:
    - Em nên đọc đi, đáng đọc đấy.
    Bà ngồi xuống để đọc, còn ông thì nhìn bà, biết vợ sắp làm cái gì đây. Bà ngó trang cuối cùng, đọc hàng cuối cùng: “ Xin cho tôi một phút…” Bà nhìn kỹ hàng chữ đó. Rồi bà quay lại ngó ông, muốn nói gì đó; ông nghe bà nói:
    - Đau khổ dễ gì mà quên được.
    
    
     Chú thích:
    1. Thợ mỏ thay phiên nhau làm suốt ngày đêm, mỗi phiên tám giờ, kể như một ngày công. Ba si-ling một phiên tức là tiền công một ngày.
    2. Đảng phái kỳ thị chủng tộc, chủ trương đàn áp người da đen.
    

Xem Tiếp Chương 3Xem Tiếp Chương 10 (Kết Thúc)

Khóc Lên Đi, Ôi Quê Hương Yêu Dấu ( Phần II )
  » Xem Tập 1
  » Đang Xem Tập 2
  » Xem Tiếp Tập 3
  » Xem Tiếp Tập 4
  » Xem Tiếp Tập 5
  » Xem Tiếp Tập 6
  » Xem Tiếp Tập 7
  » Xem Tiếp Tập 8
  » Xem Tiếp Tập 9
  » Xem Tiếp Tập 10
 
Những Truyện Dài Khác
» Liêu Trai Chí Dị
» Pie Đệ Nhất
» Thiên Thần Và Ác Quỷ
» Tuyết Bỏng
» Cuộc Đời Của Pi ( Phần II )
» Mao: The Unknown Story
» Con Lừa Và Tôi
» Trái Tim Không Cần Lý Lẽ
» Tình Ca Giáo Viên Miền Núi
» Cuốn Sổ Lớn
» Chuyện Tình New York
» Những Kẻ Điên Rồ Phải Chết
» Đau Thương Đến Chết ( Phần I )
» Hai Chị Em
» Giữa Cơn Gió Lốc
» Chỉ Một Lần Yêu
» Đi Qua Hoa Cúc
» Tình Trên Đỉnh Sầu
» Tôi Có Thể... Nói Thẳng Với Anh