Bí Danh:
Mật Mã:
Đăng Ký / Register
Tên Truyện   Tác Giả   Truyện hay Tác Giả
VietSingle - Tìm Bạn Chat - Trò Chuyện Hát Karaoke Xem Phim Video Nghe Nhạc Music Nấu Ăn Truyện & Thơ Từ Điển
Mục Lục
Nghe Truyện Ngắn Audio
Nghe Truyện Dài Audio
Nghe Truyện Ma Audio
Truyện Cổ Tích Video
Học Sinh Cười
Truyện Cổ Tích
Truyện Cười
Truyện Dài
Truyện Học Trò
Truyện Kiếm Hiệp
Truyện Ma (Kinh Dị)
Truyện Ngắn
Truyện Quỳnh Dao
Tất Cả Thi Sĩ
 
Truyện Dài » Đệ Nhất Phu Nhân Trần Lệ Xuân Tác Giả: Hoàng Trọng Miên    
Những Ngày Vận Động

    Sau nhiều ngày chạy vạy tiền bạc của Lệ và xoay xở bài vở của Nhu, tạp chí XÃ HỘI ra mắt.
    Nhu dự định dùng cơ quan này để cổ động cho chủ nghĩa cần lao nhân vị mô phỏng theo học thuyết personnalisme( chủ nghĩa nhân vị) của Pháp, với tham vọng đặt căn bản tư tưởng cho đường lối hoạt động của chàng. Đồng thời Lệ và Nhu liên lạc, tập hợp được một số bạn hữu Công giáo làm ủng hộ viên cổ động cho "chí sĩ Ngô Đình Diệm" về nước.
    Trong các buổi họp ở căn nhà nhỏ đường Ypres. Nhu đem phổ biến các mẩu báo "của anh Thượng" từ Mỹ gởi về, tán dương việc đưa Diệm về Việt Nam cầm quyền.
    Sài Gòn 1953 đang sống trong không khí một thủ đô giữa chiến tranh. Khói lửa khắp Việt Nam tràn lan qua Ai Lao, bùng cháy cả bán đảo Đông Dương. Chính trị xen kẽ với chiến tranh sôi sục khắp nơi. Ba Lê và Hoa Thịnh Đốn chăm chú theo dõi biến chuyển thời cuộc ở Việt Nam.
    Tình hình quân sự kéo dài bất lực trước cuộc kháng chiến dẻo dai của cả một dân tộc đang lớn mạnh, bao nhiêu tướng tài danh của Pháp đã phải thúc thủ. Các chính giới Pháp bắt đầu đề cập việc thương thuyết, lo ngại trước viễn ảnh đe doạ; dù có thắng, Pháp cũng sẽ phải từ bỏ Đông Dương trước áp lực của viện trợ Mỹ và đòi hỏi phải hoàn thành việc trao trả độc lập cho các quốc gia. Các phe quốc gia Việt Nam mà Pháp chỉ muốn lợi dụng để chống Việt Minh cũng đòi cho xứ sở được hoàn toàn độc lập.
    Mặc dầu những quyền lợi lớn lao của các giới tư bản Pháp do sự chuyển ngân đồng bạc, qua viện trợ đô-la của Mỹ, các giới chính trị Ba Lê bắt đầu nhận thấy rõ rệt tám năm chiến tranh mù quáng sắp đưa đến một kết quả tai hại khó tránh khỏi, cần phải sớm chấm dứt gánh nặng ghê gớm, trong khi dư luận báo chí, dân chúng, nghị trường tán thành một giải pháp chính trị để nước Pháp kịp dừng chân trước vực thẳm chiến tranh Đông Dương, phiêu lưu không lối thoát, hy sinh phi lý, điên cuồng.
    Giữa lúc này, Nhu bàn tính với kẻ phụ trách tuyên truyền của phe ủng hộ "chí sĩ Ngô Đình Diệm" là Cao Xuân Vỹ, mang phổ biến những tin tức "chí sĩ họ Ngô sắp về nước" và các bài báo ngoại quốc đả kích Bảo Đại.
    Lệ hỏi chồng:
    - Mình cần tuyên truyền cho việc anh Thượng trở về chớ công kích Bảo Đại làm gì?
    Nhu cười nhạt đáp:
    - Em không rõ, mặc dù Mỹ ủng hộ anh Thượng, song Bảo Đại vẫn là Quốc trưởng, cho nên mình cần phải tạo ra một dư luận: dân chúng không thích Bảo Đại, như vậy, gián tiếp nâng cao uy tín của anh Thượng, để rồi Mỹ sẽ chỉ còn chú trọng đến anh Thượng mà thôi. Bằng đủ mọi cách, mình cần đánh ngã gục ảnh hưởng còn sót lại của Bảo Đại. Đến khi anh Thượng về nước lập chính phủ, càng dễ dàng được dân chúng nghe theo.
    Nhu còn giải thích thêm cho các ủng hộ viên về tình hình nội bộ quốc gia:
    - Hiện giờ các đảng quốc gia cũng như các giáo phái ta không có gì đáng ngại. Trước dân chúng cũng như đối với Mỹ họ đã bị brulés (đốt cháy) vì theo Pháp và Bảo Đại lâu nay, hoặc không có người lãnh đạo đáng kể. Vì vậy, vừa rồi họ tổ chức MẶT TRẬN QUỐC GIA ĐOÀN KẾT rồi tham dự HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC theo ý của Bảo Đại, tôi từ chối không hợp tác và khuyên anh em nên đứng ngoài. Mình phải giữ cho cái carte (lá bài) của phe "chí sĩ Ngô Đình Diệm" không bị dính líu gì đến những "cú" mưu mô lúc này, dễ nói chuyện nay mai. Lúc này, sắp đến thời cơ của anh em chúng ta rồi, cần phải làm cao và có liên lạc với phe phái nào đó cũng chỉ là hợp tác hình thức, giai đoạn mà thôi. Toàn một bọn xôi thịt, tranh giành địa vị, đánh hơi thấy đâu có thể kiếm ăn được, chúng nó nhào tới. Nghe anh Thượng tôi được Mỹ ủng hộ sắp đưa về, chúng nó đang tìm đủ mọi cách phá, đồng thời muốn chìa tay ra hợp tác để mong kiếm chỗ đứng sau này! Không! Tôi không bao giờ chịu đi với bọn đó.
    Nhu ngừng lại rồi nói tiếp:
    - Lúc này một mặt anh em cần làm việc cho dân chúng chờ đợi ở "chí sĩ Ngô Đình Diệm" và một mặt phải hạ uy thế Bảo Đại đối với trong nước cũng như với Mỹ.
    Nhu đưa ra các bài báo ngoại quốc đã định sẵn, in giấy ronéo cho Cao Xuân Vỹ mang đi phân phát.
    Người ta đọc thấy trong các truyền đơn ấy những dòng sau đây:
    "Nếu ở Việt Nam có một vùng Việt Minh và, một vùng Bảo Đại, thật khó khăn mà gặp được một người Việt theo Bảo Đại, trừ ra kẻ ấy có tham dự chính quyền hoặc có lợi lộc gì nhờ đi với Bảo Đại mà thôi. Có một sự kiện hiển nhiên: Bảo Đại đã thất bại ở chỗ Hồ Chí Minh thành công, Bảo Đại tỏ ra bất lực không tập hợp được dân chúng quanh mình. Nước Việt Nam của Bảo Đại càng ngày càng giống nước Tàu của họ Tưởng với những vụ tai tiếng xấu xa và chính khách chuyên quyền. Đây là xứ mà những tài sản của các ông Bộ trưởng tăng lên gấp bội trong vài tiếng đồng hồ, một chứng chỉ y tế cho một thanh niên khỏi bị động viên giá 10.000 đồng. Tất cả những âm mưu chính trị đều biến thành những số tiền kếch xù ở những ngân hàng và cuộc phát động sôi nổi của báo chí chống lại việc hạ giá đồng bạc đột nhiên đứt ngang trước sự đe doạ tố cáo những vụ chuyển ngân mới rồi ở Viện Hối đoái của các nhân vật cao cấp… Chế độ Bảo Đại không có ngoại giao, quân đội lệ thuộc viễn chinh và tài chính thì hoàn toàn do Pháp, chế độ thuộc địa tan rã giống như chế độ Tưởng Giới Thạch. Như vậy gán cho chế độ Bảo Đại có một nếp sống quốc gia, điều ấy hoàn toàn sai. Tự thuỷ chí chung nó là một bộ phận xa lạ với Việt Nam. Nhưng nói về sự tan rã, nó còn vượt xa Quốc dân Đảng Trung Hoa; chế độ của họ Tưởng bị sự thối nát xâm chiếm và làm hư hỏng. Chế độ Bảo Đại do sự thối nát đẻ ra.
    Việc kê khai số Bộ trưởng và tay chân chủ yếu của ông vua sa đoạ chẳng khác nào lật thêm chồng thẻ của Sở Lục Hình Pháp ở Đông Dương ngày trước. Nguyễn Văn Tâm, Thủ tướng - con trai Nguyễn Văn Hinh, Tổng tư lệnh quân đội Bảo Đại trước năm 1947, đã từng làm nhân viên cảnh sát mật thám. Vĩnh Cẩn, anh em họ Bảo Đại. Phan Văn Giáo, Thủ hiến Trung Việt, tướng Xuân, Trần Văn Hữu, hai vị cựu Thủ tướng đứng hàng đầu những kẻ đã chuyển vô khối bạc sang Pháp cao hơn cả Bảo Đại nửa.
    Những phần đất do đạo quân viễn chinh kiểm soát và Bảo Đại "cai trị đều trở lại một tình trạng phong kiến mà chưa hề có một dân tộc Á Đông nào phải chịu đựng đến thế.
    Vài tiểu lãnh chúa đánh giặc thuê được đạo quân viễn chinh mua chuộc để tăng thêm quân số của Bảo Đại, bằng cách trao cho họ một vùng đất đai Việt Nam, với những tính mạng và tài sản dân chúng tại đó.
    Nhưng sự hiện diện của đạo quân này cũng không đủ bảo vệ trật tự, người ta nhờ đến những trại tập trung và đủ mọi hình thức khủng bố phát xít. Một đạo luật của Bảo Đại cho phép bắt giam, không cần phải xét xử, tất cả mọi kẻ bị tình nghi trong một thời gian vô hạn định. Đối với một "sĩ quan của Bảo Đại, kẻ bị tình nghi có thẻ bỏ nhiều tiền ra để lo lót sẽ được trả tự do. Còn công an Bảo Đại thì thôi khỏi phải nói đến!
    Trong chế độ bùn lầy và thối nát lạ lùng này, tất cả đều bán chác, từ tên tuỳ phái đến Quốc trưởng - dĩ nhiên giá cả tuỳ theo cấp bậc, và có vị bộ trưởng đã bán một tài liệu mật của quốc gia cho hai ký giả ngoại quốc với giá chưa đầy 100.000 quan (10.000 đồng bạc).
    Nghĩ rằng dân tộc Việt Nam có thể một ngày kia chấp nhận được chế độ này thật là điều vô liêm sỉ".
    Sau các bài báo trích dịch ở PARIS - PRESSE LES TEMPS MODERNES, Nhu đã kết luận bản truyền đơn bằng lời kêu gọi dân chúng chờ đợi ở một chí sĩ quốc gia sắp sửa từ hải ngoại trở về cứu nước.
    Trong khi đó, nhờ sự giao thiệp với mấy người bạn Mỹ ở Sài Gòn, qua những giới thiệu gởi gắm của các nhân vật đỡ đầu "anh Thượng" tại Hoa Kỳ. Nhu hay tin Pháp đang tính chuyện điều đình với đối phương.
    Trong cuộc hội họp hàng tuần với các đồng chí, Nhu đứng ra trình bày tình hình theo những tin tức đã thu nhận được.
    Tháng hai 1953, Pinay có gởi thơ cho Bửu Hội và Raphael Leygues sang Rangoon để gặp đại biểu của ông Hồ Chí Minh. Lập trường của Việt Minh là chỉ nhận lời tiếp xúc với điều kiện chính phủ Pháp phải có thiện chí thương thuyết rõ rệt và giao phó cho các nhân vật trách nhiệm.
    Pháp lúc này biết mình không thể thắng được trong chiến tranh, mà cũng không muốn mất, nhưng lại không dám quốc tế hoá, vì sợ mất Đông Dương vào tay Mỹ.
    Tâm trạng đó, mới rồi ngoại trưởng Georges Bidault sang Hoa Thịnh Đốn gặp Foster Dulles có nói rằng: "Chiến tranh Cao Ly xong. Chiến tranh Đông Dương đang còn. Phải chấm dứt cả hai cuộc chiến tranh một lúc. Hoà bình hay dễ lây. Mỹ đã chấm dứt chiến tranh Cao Ly vì chú trọng đến dư luận dân chúng. Pháp cũng phải chú trọng đến dư luận dân chúng của mình, Pháp không thể tiếp tục chiến tranh một mình. Pháp không bỏ qua một phương tiện nào để chấm dứt chiến tranh nhưng Pháp không muốn chấm dứt bằng bất cứ phương tiện nào. Đặc biệt là không thương thuyết trực tiếp với ông Hồ Chí Minh". Theo đó, Pháp muốn lôi kéo Mỹ vào.
    Tổng thống Eisenhower vừa xin được quốc hội chấp thuận 400 triệu đô-la "dành để tổ chức một quân đội Việt Nam thực sự". Bảo Đại mới ký sắc lệnh tổng động viên.
    Nhu nhìn qua các bạn, đôi mắt sáng lên:
    - Mỹ càng viện trợ nhiều Pháp phải nhượng bộ thêm. Nghĩa là thời cơ của chúng ta càng gần vì theo tin tôi vừa nhận được sáng nay, anh Thượng đã đi từ Mỹ qua Pháp. Mỹ bỏ tiền ra, tất nhiên Pháp phải nghe theo. Bộ trưởng tài chính Pháp vừa bỏ ra một trăm tỷ quan cho kế hoạch Navarre. Được Mỹ viện trợ, chiến đấu chẳng những không hao tổn mà còn lợi nhiều cho Pháp nữa, vì máu của binh sĩ được trả bằng đô-la, chính phủ Pháp trục lợi được nhiều nhất trong việc chuyển ngân đồng bạc, Pháp vừa đánh sụt giá đồng bạc còn 10 quan cũng vì thế. Tình hình này tiếp diễn, chỉ trong nay mai Pháp phải nghe theo Mỹ sẽ đưa anh Thượng về, Đô đốc Radford, Tổng tư lệnh Hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương vừa ghé qua đây.
    Cao Xuân Vỹ lên tiếng:
    - Thấy báo chí Pháp nói Navarre đang gài một cái bẫy lớn ở Điện Biên Phủ đâu ngoài Bắc, định tiêu diệt quân Việt Minh.
    Nhu mỉm cười nói:
    - Pháp đang muốn kiếm một ưu thế quân sự để cho dễ việc điều đình với Việt Minh. Nhưng nhận xét toàn bộ, ta thấy Pháp muốn tiếp tục chiến tranh, bắt buộc phải nhờ cậy thêm Mỹ, mà muốn điếu đình cũng phải có hậu thuẫn của Mỹ, trong khi Trung Cộng đứng sau lưng Việt Minh. Còn về nội bộ quốc gia, Bửu Lộc vừa lên thay thế chính phủ Nguyễn Văn Tâm, có thể nói Tâm là lá bài chót của Bảo Đại với Pháp. Anh em hiểu ý tôi muốn nói chi không? Bảo Đại lúc này đang ở Cannes, chắc sẽ ở luôn bên Pháp. Vì thực ra, Mỹ cũng như Pháp đều muốn cho ông ta đừng biết gì đến tình hình Việt Nam cả.
    Ngô Đình Diệm sau cuộc du hành cùng người anh Giám mục đi La Mã, rồi sang Ba Lê, Bruxelles, tiếp xúc với các bạn hữu lưu vong tại Pháp và Bỉ, vận động cho địa vị cầm quyền tương lai ở chính trường Việt Nam. Nhờ sự đỡ đầu của Đức Hồng y Spellman, Diệm được giới thiệu vào ở trường dòng Maryknoll Seminaries ở Ossining (Nữu Ước) và Lakewood, New Jersey.
    Trong thời gian lưu vong trên đất Mỹ, Diệm ra sức tuyên truyền cho chủ trương quốc gia chống cộng, chống Pháp thực dân bằng các buổi nói chuyện ở các đại học đường Mỹ. Tổ chức Thiên chúa giáo Hoa Kỳ giúp đỡ nhiều cho Diệm hoạt động, và các trường học ở Michigan, Ohio, New York lần lượt tổ chức các cuộc nói chuyện để mời Diệm đến trình bày đường lối chính trị của mình.
    Diệm đã được giới thiệu tiếp xúc với một số nhân vật Mỹ ở Quốc hội Mỹ chú trọng đến vấn đề Á châu như bác sĩ Watter H. Judd, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, John F. Kennedy.
    Cũng trong thời kỳ này, Diệm làm quen với tổ chức chống cộng của linh mục Raymond de Jaegher.
    Giữa lúc Mỹ chịu hai phần ba tổn phí chiến tranh ở Đông Dương, một phái bộ quân sự Mỹ thiết lập tại Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn sắp cấp thêm ba trăm tám lăm triệu đô-la để trang bị quân đội các quốc gia liên kết. Diệm được tin Pháp đang tính mở cuộc điều đình với Việt Minh trước ngày chiến trận Điện Biên Phủ bắt đầu.
    Sau buổi lễ sáng, Diệm vừa ở nhà thờ ra về, cầm lấy tờ NEW YORK TIMES đọc thấy một bài phỏng vấn ông Hồ Chí Minh của một ký giả Thụy Điển trích ở báo EXPRESSE.
    Lãnh tụ Việt Minh tuyên bố sẵn sàng nghiên cứu mọi đề nghị ngừng bắn nếu Pháp muốn chấm dứt chiến tranh. Diệm gạch bút chì đỏ câu trả lời của ông Hồ Chí Minh: "Cuộc thương thuyết đình chiến chỉ liên hệ đến chính phủ Pháp và chính phủ Việt Nam", rồi ghi một bên: "Mỹ chịu phần lớn tổn phí chiến tranh có để cho Pháp thương thuyết với cộng sản không?"
    Câu hỏi ấy, Diệm thắc mắc đưa ra hỏi mấy nhân vật quen biết người Mỹ có thẩm quyền và đều được trả lời đại khái: "Không, Mỹ không thể cho Đông Dương lọt vào tay Cộng sản!"
    Trong khi đó, ở thủ đô Ba Lê dư luận chính giới phản ánh qua báo chí, đột nhiên nhận thấy gánh nặng chiến tranh ở Việt Nam quá nặng nề, khó mang nổi và viện trợ Mỹ mặc dù hết sức lợi lộc, dồi dào tiếp tế ngoại tệ lớn lao cho Pháp người ta không còn muốn nhận lấy vai trò "tiên phong của thế giới tự do" mà Hoa Thịnh Đốn muốn cho Pháp giữ ở Đông Nam Á. Nhất là tình hình các thuộc địa Pháp ở Bắc Phi đang lộn xộn. Tại Việt Nam, nhiều phản ứng trái ngược nhau. Bảo Đại tuyên bố với đặc phái viên nhựt báo Le Monde: "Những lời của ông Hồ Chí Minh nếu có thật đi nữa cũng ở ngoài thẩm quyền định đoạt của chính phủ và Quốc trưởng Việt Nam".
    Trái lại Thủ tướng đương thời Nguyễn Văn Tâm cho rằng không nên bỏ qua những lời lẽ của ông Hồ Chí Minh do Đài phát thanh Việt Minh đã loan lại, và cần phải đưa ra những đề nghị ràng buộc ông Hồ Chí Minh xác nhận việc hưu chiến.
    Theo dõi tin tức các đài phát thanh và báo chí, cùng tiếp xúc với vài chính khách Mỹ, Diệm nhận thấy khó tránh khỏi một cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Việt Nam. Giữa lúc có tin Mạc Tư Khoa chấp thuận đề nghị của Tây phương, họp hội nghị Tứ Cường tại Berlin, và Anh, Pháp, Mỹ sắp gặp nhau tay ba tại đảo Bermudes.
    Diệm đâm ra luống cuống thêm khi được một người bạn ở cơ quan dọ thám F.B.I cho hay tin Tổng trưởng quốc phòng Pháp René Pleven vừa phái nghị sĩ xã hội Alain Savany đi tiếp xúc với Việt Minh qua ngả Mạc Tư Khoa.
    Rồi tin từ Sài Gòn của Nhu đưa qua cho hay Bảo Đại vừa trở về nước. Các phe quốc gia nhận thấy hiểm họa của một cuộc thương thuyết giữa Pháp và Việt Minh sau bài phỏng vấn ông Hồ Chí Minh đòi hỏi Quốc trưởng thải hồi Nguyễn Văn Tâm và lập một chính phủ quốc gia thực sự, đồng thời đòi Pháp phải sớm kiện toàn nền độc lập.
    Diệm liền đi gặp mấy chính khách đỡ đầu và cố vấn Mỹ để đặt vấn đề mình trở về nước thì được tin Bảo Đại vừa cử Bửu Lộc, Cao uỷ ở Pháp về làm Thủ tướng.
    Trong các chính giới và báo chí ở Hoa Thịnh Đốn lúc này, Diệm nhận thấy nhiều dấu hiệu lo âu trước những lời yêu cầu liên tiếp của Pháp xin viện trợ. Người Mỹ bắt đầu ý thức là Pháp đã kiệt lực ở Đông Dương và kế hoạch mới của tướng Navarre không thấy mang lại triệu chứng gì khả quan, trong khi Việt Minh càng ngày càng thắng thế. Các giới quân sự có ảnh hưởng lớn với đô đốc Redford, Tổng tham mưu liên quân, một người bạn ủng hộ Diệm, và toàn thể phái hữu Đảng Cộng hoà do Tổng thống Nixon cầm đầu đều nhãn mạnh về tính chất nghiêm trọng và lên tiếng hô hào người Mỹ phải ra tay nếu không muốn thấy cảnh Cộng sản tràn ngập xuống Đông Nam Á.
    Diệm mừng rỡ thấy thời vận của mình sắp đến, viết thư về Sài Gòn cho Nhu báo tin sắp từ giã Hoa Kỳ.
    Trong một cuộc họp bàn với các nhân vật đỡ đầu Mỹ, Diệm được nghe những lời đảm bảo ủng hộ nồng nhiệt.
    Trước những sự bất lực của Bảo Đại và các phe quốc gia, cũng như trước bao nhiêu sự thối nát, hư hỏng ở chính trường Việt Nam đương thời, các chính khách Mỹ thành thật đặt tin tưởng ở vị cựu đại thần nhà Nguyễn đang được Vatican và Đức Hống y hết lòng nâng đỡ. Đồng thời có một lực lượng dân chúng Công giáo Việt Nam ngót hai triệu người chắc chắn sẽ sẵn sàng hưởng ứng làm hậu thuẫn.
    Với những triển vọng đầy hứa hẹn ấy, Ngô Đình Diệm đáp máy bay đi Paris.
    Nhìn xuống khoảng không xanh đậm bao la của Đại Tây Dương qua ô kính máy bay đang vượt không gian, Diệm trầm ngâm hồi tưởng lại cả một quãng thời gian vừa sống trên đất Mỹ, rồi những hình ảnh từ thời thiếu niên, những biến cố trên đường hoạn lộ thăng trầm, lưu vong như sống lại qua lời nói đều đều của Diệm kể lại tiểu sử của mình với Richard Thomas, giáo sư đại học đường Michigan, biên tập viên của tạp chí Washington Montly.
    Cùng đi một chuyến sang Âu châu, Thomas đã có lần gặp Diệm trong một buổi nói chuyện ở trường Michigan, nay lại thành bạn đường ngồi cạnh nhau trong chiếc phi cơ của hàng không Mỹ.
    Thomas chú ý đến các vấn đề Á Đông, từ sau khi quả bom nguyên tử đầu tiên ném xuống Hiroshima, và nghiên cứu về tình hình Á châu từ ngày hồng quân Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa Trung Hoa. Việt Nam là một phần quan trọng trong cuốn sách khảo cứu của Thomas đang dự định viết về Đông Nam Á.
    Diệm như bắt gặp được bạn tâm sự khi nghe Thomas nói đến ý định muốn tìm hiểu các nhân vật chính khách Việt Nam, rồi thao thao bất tuyệt nói về mình. Giọng nói của Diệm trầm đều như là kẻ đang xưng tội, rì rầm như tiếng của động cơ máy bay đưa đến tai người Mỹ ngồi bên cạnh.
    Thomas đã viết lại trong cuốn sách phân tích về "chính trị và quân sự về hai miền Việt Nam ghi những lời ở Diệm tự thuật:
    "Tôi sinh ngày mồng 3 tháng giêng năm 1901, trong một gia đình quan lại ở miền Trung, quê quán xã Đại Phương, tỉnh Quảng Bình.
    Thân sinh tôi là Ngô Đình Khả, làm quan đến Thượng thơ Bộ lễ kiêm Nhiếp chính cận thần của vua Thành Thái (1889 - 1907). Ông cụ tôi không chịu ký tên vào việc người Pháp bảo hộ đày hai vua Thành Thái và Duy Tân, được dân chúng truyền tụng qua câu "đày vua không Khả, đào mả không Bài". Ông Bài, tức Nguyễn Hữu Bài, Thượng thư Bộ lại, người đạo gốc, cũng như họ Ngô nhà tôi, là cha đỡ đầu của tôi, đồng thời là cha vợ của người anh cả tôi, Ngô Đình Khôi.
    Ông bà cụ tôi sinh được cả thảy chín người con, sáu trai, ba gái, tôi đứng vào hàng thứ tư, sau người anh cả làm Tổng đốc, người anh thứ hai làm Giám mục, một bà chị thứ ba đã mất.
    Gia đình tôi theo đạo dòng, tổ tiên tôi đã có người tử vì đạo dưới triều vua Tự Đức. Sống trong không khí đạo giáo, khắc khổ từ nhỏ, hồi 15 tuổi ở nhà dòng tôi đã có lần tự nguyện: một là tốt hai là xấu, đối với tôi con người không thể khác hơn. Ngày nay tôi vẫn giữ vững quan niệm: Một là "có tất cả", hai là "không gì hết", chứ không có sự lưng chừng ở giữa. Tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo cộng với Thiên Chúa giáo trong đời sống, tôi chủ trương phải quyết liệt tuyệt đối.
    Khi ông cụ tôi cáo quan về, tôi đến ở nhà người cha đỡ đầu, ông Nguyễn Hữu Bài, bấy giờ đang làm Thượng thư Bộ lại, tôi bắt đầu vào trường Quốc học Huế, nơi 10 năm trước, ông Hồ Chí Minh đã theo học. Sau đó, tôi ra học trường Hậu bổ ở Huế, được tiếng là học trò giỏi. Năm 1921, tôi ra trường đậu đầu trong số 20 thí sinh được bổ làm tri huyện.
    Năm 1929, vào lúc 28 tuổi, tôi được thăng chức Tuần vũ ở Phan Thiết, nơi 8 năm về trước ông Hồ Chí Minh đã dạy học. Cũng tại đây tôi đã đương đầu với đám thanh niên có những tư tưởng mới du nhập từ Hương Cảng, Quảng Đông và Sài Gòn đến. Đó là những phần tử cách mạng quá khích và cộng sản. Trong thời gian cầm quyền cai trị, tôi đã được tiếng là liêm khiết cương trực. Năm 1922, ông Bảo Đại ở Pháp về, muốn thay đổi bộ mặt triều đình quan lại cũ mời tôi về Huế giữ chức Lại bộ Thượng thơ. Vì chủ trương quyết liệt của tôi, người Pháp không bằng lòng, mới sinh ra việc chống báng giữa ông Thượng thơ Bộ học Phạm Quỳnh, người của phủ Toàn quyền Đông Dương, nghịch với tôi, và được Bảo Đại ủng hộ nên tôi mới từ chức.
    Rút ra khỏi quan trường, tôi trở về ở ẩn tại Huế, liên lạc với cụ Phan Bội Châu bấy giờ bị giam lỏng tại Bến Ngự và Kỳ ngoại hầu Cường Để đang ở Nhật. Đó là mấy nhân vật quốc gia có tư tưởng chống thực dân mà ông cụ tôi cũng như các anh tôi đã tiếp xúc, có cảm tình, cùng chung một đường lối phục quốc.
    Năm 1945, Việt Minh nổi lên, anh cả tôi cùng đứa con trai bị họ bắt giết tại Huế. Các em trai tôi trốn thoát được. Bấy giờ tôi đang ở Sài Gòn, ra đến Tuy Hoà thì bị Việt Minh bắt, đưa ra giam ở Tuyên Quang, miền rừng núi Bắc Việt, sau đó thì được lệnh tha. Tôi phải ẩn tránh nhờ các giáo sĩ Gia Nã Đại và chỉ ra mặt sau ngày 6 tháng ba 1946 khi Việt Minh ký hiệp ước sơ bộ với Pháp, rồi phóng thích các nhân vật chính trị đối lập như tôi đã bị bắt giữ từ hồi khởi nghĩa. Tôi trở về Huế thăm gia đình rồi lại trở ra Hà Nội, hoạt động liên lạc với Bảo Đại. Chiến tranh toàn quốc bùng nổ trong khi tôi ở Hà Nội.
    Trung thành với chủ trương hoặc là "có tất cả" hay "không gì hết", tôi cùng mấy anh em tôi, thành lập ở Nam và Trung Việt Nam một đảng chính trị gọi là PHONG TRÀO CÁCH MẠNG quốc gia với chủ trương chống Pháp và chống cả Việt Minh. Chương trình của phong trào kháng chiến này là: "Tổ chức lại và tăng cường lực lượng Công giáo để làm hậu thuẫn cho sự thống nhất và độc lập của Việt Nam". Đến khi phong trào đã vững mạnh rồi, sẽ liên lạc với các nước bạn tự do nhất là Hoa Kỳ để nhờ giúp đỡ về kinh tế và ngoại giao.
    Đối với Pháp, phong trào vẫn giữ thái độ thân hữu, trong khi Pháp còn có thể giúp ích được để chống cộng. Hoa Kỳ sẽ can thiệp để thay thế Pháp không còn đủ sức đảm đương nổi cuộc chiến tranh Đông Dương. Phong trào của anh em tôi sáng lập ra đời sớm quá trong một hoàn cảnh chưa thuận tiện nên không được ảnh hưởng mấy. Tháng tám 1950, tôi cùng anh Giám mục tôi sang Nhật để gặp Kỳ ngoại hầu Cường Để với mục đích phát triển cho phong trào quốc gia kháng chiến. Tôi có xin yết kiến Đại tướng Mac Arthur. Trong lúc bận rộn về chiến cuộc Triều Tiên, cùng các vấn đề chính trị và quân sự, ông Mac Arthur không còn có thì giờ để quan tâm đến các chính khách lưu vong Á Đông. Tuy vậy tôi đã gặp được một số người Mỹ khác tại Đông Kinh như giáo sư trẻ tuổi Wesley Fishel, dạy về chính trị kinh tế học ở Michigan. Trong thời gian hai tháng, 9 và 10 ở Nhật, các bạn Mỹ tiếp xúc với tôi đều khuyên tôi nên sang thẳng Mỹ để trình bày chủ trương tranh đấu cho Việt Nam độc lập.
    Có lẽ lúc bấy giờ người Mỹ sau khi thí nghiệm bất thành ở Đông Dương từ năm 1942 đến 1945, không còn muốn nhúng tay vào đây nữa, nhất là phải chống lại với Pháp.
    Anh Giám mục tôi nhờ quen biết sẵn với Đức Hồng y Spellman, qua hệ thống của Giáo hội, được người lưu tâm đến, hết dòng nâng đỡ và tổ chức Công giáo tiến hành ở Mỹ cũng ra sức ủng hộ cho tôi.
    Chúng tôi mới từ Nhật đi sang La Mã. Anh Giám mục tôi ở lại đây để vận động với các giới thân cận Toà thánh, xin ra mắt Đức Giáo hoàng, trình bày công cuộc hoạt động của anh em chúng tôi, nhờ vào hậu thuẫn lực lượng Công giáo để phát triển đạo Thiên Chúa tại Việt Nam. Rồi tôi qua Ba Lê và Bruxelles, tiếp xúc với các giới người Việt lưu vong, liên lạc cùng với các vị giáo sĩ thuộc hội truyền giáo ở Đông Nam Á.
    Năm 1951, tôi sang Mỹ, trú ngụ ở nhà dòng Maryknoll Seminaries tại Ossining (Nữu Ước) và ở Lakewood, New Jersey.
    Tại Mỹ, tôi đã được dịp trình bày về đường lối của tôi tại các học đường Michigan, Ohio, New York. Chủ trương của tôi là Việt Nam chẳng những chống Cộng sản, mà còn phải vượt khỏi sự chi phối của Pháp. Chỉ có chủ nghĩa quốc gia chân chính mới có thể thành công ở chỗ Pháp đang thất bại. Các giới thính giả người Mỹ, sinh viên, trí thức, chính khách… đều tỏ vẻ xúc động trong các buổi nói chuyện của tôi. Một số nhân vật cao cấp, các nghị sĩ chuyên nghiệp nghiên cứu về Á Đông, như bác sĩ Watter H. Judd, thượng nghị sĩ Mike Mansfield, John F. Kennedy… đã tán thành lập trường của tôi, và cổ võ cho chủ trương của tôi trong chính giới Mỹ. Tôi hy vọng rằng trong tương lai, khi trở về Việt Nam cầm quyền lãnh đạo, tôi sẽ không phụ lòng tin cậy của người Mỹ. Hoa Kỳ đối với tôi là một tổ quốc thứ hai.
    Diệm nói không ngớt, chỉ ngừng lại lúc chiêu đãi viên mang thức ăn uống và thuốc lá đến, rồi lại tiếp tục say sưa, không để cho người lắng nghe nói chen vào.
    Thomas kiên nhẫn nghe Diệm kể về mình và xem chừng nghe mãi đã mệt, mới lên tiếng hỏi:
    - Ông nghĩ sao về tình hình hiện thời ở Việt Nam? Pháp có đánh bại được Việt Minh không?
    Diệm không nghĩ ngợi, đáp liền:
    - Một mình Pháp không giải quyết nổi đâu. Tôi nghĩ rằng để cho Pháp và Việt Minh cùng mệt mỏi trong cuộc chiến tranh kéo dài, đến lúc ấy Mỹ can thiệp vào giúp cho phe quốc gia chúng tôi đứng ra thì mới yên được. Đương đầu với Việt Minh chúng tôi có cả một khối gần hai triệu người công giáo và lực lượng quốc gia chống Cộng, không kể những người đang kháng chiến chống Pháp trong hàng ngũ Việt Minh, mà đa số không phải là cộng sản.
    - Chương trình hoạt động của ông hiện thời như thế nào?
    - Tôi đi Pháp, chờ xem thời cuộc thuận tiện sẽ trở về Việt Nam.
    - Ông sẽ về nước để cầm quyền?
    Diệm ngập ngừng một lúc rồi đáp:
    - Tôi sẽ gặp Quốc trưởng Bảo Đại ở Pháp để bàn tính việc ấy.
    Câu chuyện đứt ngang vì tiếng nói của máy phóng thanh trong phi cơ yêu cầu hành khách thắt lại dây nịt bụng vì phi cơ sắp hạ xuống phi trường Orly. Trong khi dụi điếu thuốc lá đang hút dở, Diệm để ý đến dòng chữ in đậm trên tờ nhựt báo Mỹ nói về chiến sự Việt Nam của đặc phái viên thường trực của hãng thông tấn Associated Press từ Hà Nội điện đi.
    Tướng Cogny tuyên bố: "Bộ chỉ huy Pháp chắc chắn Việt Minh phải thất bại nặng nề ở Điện Biên Phủ. Chúng tôi đang chờ đợi các trận giao chiến ác liệt và lâu dài. Chúng tôi sẽ thắng".
    Giữa lúc Ngô Đình Diệm từ chiếc phi cơ bước xuống Ba Lê, ở một góc núi rừng Việt Bắc, nhà văn Anh Graham Green cũng từ một chiếc máy bay nhà binh Pháp đặt chân lên lòng chảo Điện Biên Phủ.
    Thung lũng này, người Thái vẫn gọi là Mường Thanh, dài mười bảy cây số, rộng năm cây, gồm có lối một trăm bản, dân số độ mười ngàn người ở theo dòng sông Nam Um chảy ngang. Trên các đỉnh núi cao lối 700 thước, rải rác những xóm người Mèo sinh sống bằng cách trồng cây thẩu.
    Pháp đã biến vùng xa xôi yên tĩnh miền rừng núi Việt Bắc gần giáp Ai Lao thành một vị trí chiến lược, cho rằng kẻ chiếm giữ được Điện Biên Phủ sẽ chế ngự cả Việt Bắc, Thượng Lào và một vùng quan trọng Đông Nam Á. Đại tướng Navarre, vị tân Tổng tư lệnh quân đội ở Đông Dương tạo nên pháo đài nơi đây với chủ đích nhử quân địch kéo đến để tiêu diệt. Kế hoạch Điện Biên Phủ được tung ra để chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài từ tám năm nay.
    Cầu hàng không Hà Nội - Điện Biên Phủ chuyên chở binh sĩ, súng đạn, thiết giáp, trọng pháo, thực phẩm, thuốc men, dây kẽm gia biến nơi này thành một pháo dài khổng lồ thách thức đối phương một trận quyết định cuối cùng. Từ Ba Lê đến Sài Gòn, các giới cao cấp quân sự, chính trị Pháp đều đặt tin tưởng vào Điện Biên Phủ nơi xảy ra trận đánh quyết định, mà chiến thắng chắc chắn đã nắm trong tay. Báo chí Pháp in đậm những lời tuyên bố của Bộ chỉ huy Điện Biên Phủ: "Sẽ cho Việt Minh và mọi người biết rõ chúng tôi".
    Nhà văn Graham Green trước khi đến viếng Điện Biên Phủ đã thu thập ghi được những con số chung quanh cuộc chiến tranh ở Việt Nam và nhận thấy từ lúc có triệu chứng Pháp sẽ thua trận, những công ty mỏ, xi-măng, dệt vải, đồn điền cao su đã lần lượt chuyển của cải và cổ phần đi các nơi khác trên thế giới. Số vốn Pháp còn để lại ở Đông Dương không bằng một năm tổn phí chiến tranh: sáu trăm tỷ và 100 thanh niên sĩ quan. Cứ mỗi ba năm phải hy sinh một khoá sĩ quan Saint Cyr vào chiến trường ở Việt Nam.
    Từ ngày khởi chiến đến nay, Pháp đã mất 3 đại tướng, 6 đại tá, 18 trung tá, 69 thiếu tá, 341 đại uý, 1.140 trung uý và chuẩn uý, 2.683 hạ sĩ quan và 6.008 lính Pháp, 12.019 Lê dương, 14.090 quân địa phương, không kể trên 20.000 mất tích, 100.000 bị thương.
    - Điện Biên Phủ sẽ đảo ngược tình thế! Chúng ta đang ở trên một căn cứ tấn công!
    Những lời sôi nổi của đại tá chỉ huy De Castries đưa đến tai Graham Green trong khi bước vào câu lạc bộ sĩ quan.
    Nhà văn Anh đang nhìn những đám mờ trên các ngọn núi chơm chởm bao chung quanh bỗng quay lại vì tiếng đấm bàn của De Castries sau khi quăng tờ báo Le Monde xuống, giận dữ nói:
    - Dám viết rằng Điện Biên Phủ là một cái hố sư tử. Thằng cha Robert Guillain láo thật!
    Trước vẻ thắc mắc của Graham Green, vị chỉ huy Điện Biên Phủ dịu giọng lại:
    - Ông là ký giả. Ông nên biết, nếu ông Guillain còn đến đây, ông ta sẽ không ra khỏi máy bay được đâu. Tôi sẽ cho bốn người cầm súng giữ lại. Thế mà ông ấy uống cô-nhắc của chúng tôi đấy!
    - Đại tá này, tôi có biết Guillain…
    - Viết rằng Điện Biên Phủ là một vận động trường mà Việt Minh chiếm những ghế trên một cái hố nhốt sư tử?
    - Đó chỉ là một hình ảnh thôi. Với lại cũng khỏng hẳn là sai.
    De Castries lại to tiếng:
    - Thế ông cũng như những người khác nữa à? Hãy để cho chúng tôi yên tâm làm việc. Nếu Việt Minh tấn công, ông sẽ thấy chúng tôi đón tiếp ra sao. Tất cả đều sẵn sàng cả rồi. Ông thử lấy một chiếc xe Jeep đi mà xem. Đại tướng Navarre đã tuyên bố trước mặt tướng Ely rằng: "Điện Biên Phủ được chọn với tất cả sự thông suốt về quân sự, và chúng tôi sẽ thắng trận ở đây".
    Trong khi quanh một vòng các cứ điểm phòng thủ, nhà văn Anh nhìn thấy máy bay rải truyền đơn như bươm bướm xuống các khu rừng núi chung quanh. Hỏi ra mới biết là vị chỉ huy Pháp đang khiêu khích đối phương, lặp lại những lời phát thanh từ Bộ tham mưu Điện Biên Phủ ngày đêm liên tiếp loan đi nhắn nhủ Việt Minh: "Các người còn đợi gì nữa mà không đánh nếu các người không phải là quân hèn nhát? Chúng tôi đang đợi đấy. Chúng tôi đã sẵn sàng. Các người đông lắm mà, có giỏi thì lại đây?"
    Ngồi bên cạnh sĩ quan phụ tá De Castries, trên chiếc xe Jeep chạy nhồi như sóng qua các điểm tựa, giữa mùi khói cay nồng của lá cây rừng đất cháy khai hoang lòng chảo Điện Biên Phủ, Graham Green nhớ đến hình ảnh cuộc chiến đấu mà ông Hồ Chí Minh đã mô tả cùng ký giả Mỹ, David Schoenbrun bên lề hội nghị Fontainebleau năm 1946: "Đây sẽ là một cuộc chiến đấu giữa cọp với voi. Nếu con cọp ngừng lại thì sẽ bị voi lấy ngà đâm. Có điều là cọp ban ngày lẩn vào rừng đến đêm lại hiện ra. Con cọp sẽ vồ lấy lưng voi mà cào xé từng mảnh thịt rồi lại lẩn trốn vào rừng. Như vậy con voi sẽ phải chịu chết vì kiệt sức và ra máu.
    Green kể lại rồi hỏi sĩ quan phụ tá Seguins Pazzis:
    - Navarre có lực lượng lớn lao tại đây như voi, song liệu có ngăn được con cọp Giáp đang chực vồ mình không?
    - Ước mơ của đại tá De Castries và toàn Bộ tham mưu là dụ cho Việt Minh xuống lòng chảo này. Nếu họ xuống đây là bị vào tay chúng tôi. Cuộc va chạm có thể gay go, nhưng chúng tôi sẽ chặn đứng họ lại. Rốt cuộc chúng tôi sẽ có một mục tiêu tập trung để đập tan. Đại tướng Navarre cho rằng đây là một cơ hội bất ngờ để tiêu diệt Việt Minh: Sự thắng lợi là một người đàn bà chỉ tự hiến dâng cho ai biết cách chiếm đoạt.
    Vào lúc này, cách Điện Biên Phủ nửa ngày đi, gần con đường nườm nượp những đoàn dân công và binh sĩ sư đoàn 316 đang đi qua, dưới một mái chòi khuất lẩn với lá cây rừng, một người đàn ông ngoài bốn mươi, mặc áo quần nhà binh màu xanh, không mang phù hiệu đang lặng yên chăm chú vào tấm bản đồ lớn treo trước mắt. Mắt không rời địa đồ vòng đỏ quanh chữ Điện Biên Phủ, ông lên tiếng hỏi mấy người chung quanh, những sĩ quan Bộ tham mưu Tổng tư lệnh, rồi lại im lặng.
    - Trận đánh quyết định sẽ xảy ra ở Điện Biên Phủ. Chúng ta sẽ chiến thắng tại đây, với bất cứ giá nào!
    Con người vừa thốt ra câu ấy là tướng Võ Nguyên Giáp, cùng quê quán với Ngô Đình Diệm, cùng vùng cát trắng Quảng Bình.
    Sĩ quan phụ tá ghi vội những lời mật lệnh của Đại tướng Tư lệnh động viên binh sĩ và dân chúng, theo quyết định của Trung ương Đảng.
    Trước đây, khi toàn thể Bộ tham mưu của tướng Võ Nguyên Giáp đều đồng ý về cuộc giao phong ở Điện Biên Phủ, mọi người đều nhận thấy những khó khăn, trở lực về địa thế rừng núi, thiếu đường vận tải. Kinh nghiệm của trận Na Sản vừa rồi nêu lên một câu hỏi lớn: làm sao có đủ lương thực để nuôi được cả sư đoàn và vận chuyển võ khí đến nơi?
    Cục trưởng quân nhu đã không ngần ngại trả lời: "Phải huy động toàn thể nhân dân, kêu gọi đến sự hy sinh của tất cả mọi người; cần huy động năm chục ngàn dân công đàn ông và đàn bà, hàng ngàn con ngựa (mỗi con bằng bốn người gánh) hàng trăm chiếc thuyền chở những tấn gạo và đạn dược, xe cam nhông để chở trọng pháo, một số lớn xe đạp Peugeot đã mua sẵn từ Hà Nội biến thành xe thồ có thể mỗi chiếc chở được ba trăm ký… để đưa gạo và đạn dược đến tận nơi.
    Trước quyết định quan trọng này, Trung ương Đảng đã nhóm họp khẩn cấp giữa các lãnh tụ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp ở một góc rừng Việt Bắc để biểu quyết.
    Lúc ấy Nguyễn Hiền, tham mưu trưởng trung đoàn 57, thuộc sư đoàn 304 đang ở Thanh Hoá, sau những ngày hành quân tính đi bộ đã được lối một ngàn cây số, bỗng nhận được lệnh đi về phía Điện Biên Phủ. Khẩu hiệu mật từ đây phải đổi tên Điện Biên Phủ là Trần Đình, Đại tướng Giáp là Ngọc.
    Cũng vào lúc bấy giờ ở Sài Gòn, Ngô Đình Diệm được tin phái bộ Pleven sang thanh tra tình hình quân sự ở Đông Dương, sau khi ghé thăm Điện Biên Phủ, trở lại Thủ đô miền Nam ngày 19 tháng 2 năm 1954, đã cùng đại tướng Ely ra Cấp. Tổng trưởng quốc phòng Pháp viện cớ đi nghỉ mát ở Vũng Tàu để cùng tướng Ely thảo một bản phúc trình, song sự thực đã hẹn hò gặp đại biểu Việt Minh để bàn bạc về việc chấm dứt chiến tranh.
    Không gặp được người của đối phương gởi đến tiếp xúc, Pleven thất vọng đáp máy bay trở về Pháp, giữa lúc Ba Lê đang đón chờ mùa xuân.
    Nhiều tin tức hốt hoảng truyền miệng sang tai ở trong hành lang quốc hội Pháp, Tổng trưởng quốc phòng Pleven triệu tướng Salan, thanh tra quốc phòng, trao cho xem bản phúc trình rồi hỏi:
    - Có thể làm thế nào để cứu được Điện Biên Phủ?
    Ngô Đình Diệm sau khi ghé Paris được tin trong hậu trường chính trị Pháp nói về cuộc hội nghị Genève đang sửa soạn, vội vã đáp xe lửa đi Bỉ.
    Tại Bruxelles, Diệm đến ở nhà dòng Benedictine tại Saint André des Bruges, trung tâm của các giáo sĩ hoạt động tại Đông Nam.
    Giữa lúc Diệm ráo riết vận động các giáo sĩ, chính khách ở trời âu thì Lệ từ Sài Gòn lên Đà Lạt, đến biệt điện Quốc trưởng. Người hầu cận bảo Lệ ngồi đợi ở phòng ngoài vì Quốc trưởng còn đang bận tiếp khách.
    Những tiếng nói lớn từ bên trong vẳng đến tai Lệ, nghe giọng quen thuộc, khiến nàng không khỏi chú ý, lắng theo dõi:
    - Đ. m! Xin lỗi Quốc trưởng, đ.m! Quốc trưởng phải để cho tôi bắn nát óc Phan Văn Giáo, vì hắn nói tôi là tướng cướp, Bình Xuyên là quân lâu la… Có phải như vậy là hắn phạm thượng, khi dễ cả Quốc trưởng không? Dù sao tôi cũng là thiếu tướng được Quốc trưởng ban cho… Mỗi ngày huê lợi của hai sòng Kim Chung và Đại Thế Giới tôi đều dâng đủ cho Quốc trưởng chi phí về công việc quốc gia. Vậy mà đ.m, thằng Giáo, xin lỗi Quốc trưởng, đ.m, nó dám bảo anh em Bình Xuyên tôi là bọn ăn cướp?
    - Bảy Viễn đừng có nóng. Để ta xử cho. Này, kêu thằng Giáo vô đây ta biểu.
    Sau câu nói của Bảo Đại, Lệ nghe một tiếng "dạ" rồi thấy người hầu cận tất tả đi ra, theo lối hành lang phía bên phải.
    Một lát sau, Lệ trông thấy y trở lại với bà Từ Cung và Phan Văn Giáo theo sau: Lệ lễ phép đứng lên chào bà Từ Cung đi ngang qua và thấy họ Phan liếc nhìn nàng mỉm cười một cách ranh mãnh.
    Từ bên trong khách thính biệt điện, Lệ nghe văng vẳng những câu nói đưa ra:
    - Viễn, đưa cây súng đây cho ta.
    Tiếp theo lời Bảo Đại, tiếng của bà Từ Cung cất lên:
    - Thôi, các con cùng là anh em quốc gia với nhau, đừng có xích mích mà làm buồn lòng mẹ đây. Giáo nó có lỡ lời thì sẵn trước mặt Quốc trưởng với mẹ, xin lỗi Bảy Viễn đi, rồi anh em đừng có sinh sự với nhau nữa.
    - Dạ, đ.m, xin lỗi Đức Bà, đ.m, xin lỗi Quốc trưởng! Tôi xách súng đi kiếm nó suốt cả buổi sáng nay, nếu không có Đức Bà và Quốc trưởng can thì tôi bắn chết mẹ nó rồi! Giáo, sao mày nói tao là ăn cướp trả lời cho tao coi.
    - Thôi, mẹ xin các con! Bỏ qua đi cho rồi. Trước mặt mẹ với Quốc trưởng, đừng có gây gổ nhau nữa!
    - Giáo, Viễn, mẹ ta đã nói rứa, hai người không chịu hoà thuận với nhau răng?
    Sau lời Bảo Đại, Lệ nghe tiếp những tiếng nói nhỏ của Phan Văn Giáo và Bảy Viễn làm lành bắt tay với nhau.
    Mười phút sau, người hầu cận Bảo Đại ra mời Lệ vào gặp Quốc trưởng.
    Lệ được giữ lại dùng bữa trưa hầu ngài ngự, và đến xế chiều, khi từ phòng riêng biệt điện ra về, sau mấy giờ ngả ngớn trong tay Quốc trưởng, Lệ mang theo lời hứa hẹn của Bảo Đại:
    - Được, trẫm sẽ cho Diệm về làm Thủ tướng, nhưng nhớ biểu Diệm phải trung thành với trẫm mới được.
    Vào lúc Lệ thoả thích bước ra ngôi biệt điện Quốc trưởng, lặng ngắm nắng chiều tắt dần trên rừng núi Đà Lạt, sương mờ đang phủ xuống thì ở một ngọn núi xa giữa khu rừng Việt Bắc, một thanh niên dừng bước lại giữa lưng chừng núi, đặng ngắm cảnh bên dưới thung lũng, sững sờ một lúc, rồi quay nhìn xuống phía đoàn người đông đảo đang khó nhọc hì hục kéo đẩy mấy khẩu trọng pháo lên dốc cao, một người thét lên:
    - Điện Biên Phủ kia rồi!
    Gã thanh niên vừa kêu lên, hí hửng khoa tay múa chân, là một chàng trai thuộc loại tếu của Hà Nội đã tham gia kháng chiến, hiện đang ở trong Bộ tham mưu trung đoàn 57. Thành phần tiểu tư sản và trí thức của anh, Nguyễn Hiền, đã làm cho người uỷ viên chính trị phê bình luôn, song đầu óc thông minh của người trai Hà Nội cần thiết cho công tác quân sự của đơn vị, nên Hiền vẫn được trọng dụng, và được phần đông anh em đồng đội chỉ biết "đánh Tây" thích thú.
    Tiếng "Điện Biên Phủ kia rồi!" vừa thoát ra cửa miệng Hiền, như một luồng điện chuyền vào cả trung đoàn xô đẩy mấy "voi" và "trâu (tiếng lóng gọi đại bác lớn và nhỏ) lên dốc núi.
    Mệt nhoài, thèm ngủ luôn mấy ngày đêm liền, thèm một thẻ đường đen hay kẹo chê lam, thèm đủ tất cả, muốn lăn nằm ngay cho bõ bao nhiêu ngày đêm lặn lội khó nhọc băng rừng trèo núi, nhưng Hiền chỉ muốn thức. Anh lấy cuốn sổ tay ở túi áo trên ra ghi: "4-2-1954 đến Điện Biên Phủ".
    Hiền lặng yên ngắm thung lũng dưới ánh trăng lưỡi liềm, với những pháo đài kiên cố dưới đó có 12 tiểu đoàn tinh nhuệ của Pháp đang chờ đợi. Anh chú ý nhất đến ánh đèn quá sáng trên sân bay mà bao nhiêu năm nay anh chỉ thấy ngọn đèn dầu lạc hay bó đuốc trong đêm tối. Bên cạnh ánh sáng hơn cả ban ngày của phi trường Điện Biên Phủ, ngọn đèn nhỏ của Hiền làm bằng chiếc hộp đồng cũ đựng kẹo ho Valda với một ít bông gòn tẩm dầu hôi cùng chiếc van xe đạp làm ngọn bấc để thỉnh thoảng trong đêm hành quân dừng bước, thắp lên để viết nhật ký. Hiền thấy chẳng khác nào con đom đóm với mặt trăng, và không khỏi bật cười khi có ý nghĩ so sánh đó.
    Biết bao gian khổ, ngày đi đêm nghỉ hay ngủ ngày đêm đi, từng chặng từ ba chục đến năm chục cây số, Hiền đã băng rừng, leo núi, lội suối trèo non, đi về phía Điện Biên Phủ. Đi từ hừng đông đến mặt trời lặn, hay từ chập tối đến sáng sớm để tránh máy bay. Hiền tự ví mình như một con kiến trong đàn kiến kiên nhẫn, cần cù, với túi gạo đầy quấn ngang bụng, ống tre đựng muối, bầu nước đeo một bên mình, ba-lô trên lưng, súng vác vai, tay cầm gậy, chân đi dép lốp xe hơi, vượt qua rừng rậm, tiến vào rừng sâu, đi giữa rừng già, bất kể ngày đêm, từng lúc bước nhịp theo tiếng hát quân hành, ăn cơm muối, uống nước suối, đến mỗi chặng nghỉ tự tay đào lấy hầm núp máy bay, quấn mình trong tấm vải ni lông rồi lăn ra ngủ như chết, mặc muỗi cắn, vắt đeo.
    Gặp dòng sông, quãng suối tạm dừng chân, Hiền tưởng chừng như trút được bao nhiêu gánh nặng nhọc của đường dài sau khi ngâm cả người dưới nước lên.
    Tiếng cười đùa hồn nhiên của các bạn đồng đội làm cho Hiến có cảm tưởng toán quân mình là một đoàn hướng đạo sinh đi cắm trại.
    Có khi khúc sông rộn lên vì gặp gỡ các đoàn dân công tải gạo tiếp tế cho mặt trận.
    Đặc biệt, các đoàn xe đạp thổ buộc thêm giá gỗ tre ở khung sắt, có thể chở nặng đến hơn 100 kí-lô, bằng cả chục dân công, ngang với sức của một con voi có thể kéo lên núi đá tai mèo. Hiền nghe nói có đến hai ngàn chiếc xe đạp Peugeot mua từ Hà Nội ra đang dùng để chở những đạn dược, lương thực, theo các con đường mòn đưa đến chiến trường Điện Biên Phủ. Cộng thêm với năm chục ngàn dân công tiếp tế gạo cho binh sĩ các sư đoàn đổ xô về đây.
    Trong cuốn sổ tay hành quân Hiến đã ghi: "Bộ tham mưu Pháp có để ý rằng một chiếc xe đạp ta có thể biến thành một lợi khí chuyển vận được 300 kí-lô gạo hay đạn dược qua rừng núi không? Trường võ bị Tây phương có dạy họ đến yếu tố bất ngờ này không. Họ có nghĩ rằng "lòng tin có thể dời núi chuyển non thì sức người có thể vác cả "voi" từ dưới chân lên tới đỉnh núi không?"
    Khi viết những lời này, đại uý Nguyễn Hiền ở Bộ tham mưu trung đoàn 57 cũng như bao nhiêu chiến sĩ vừa vượt qua đèo Pha Đin, phấn khởi gần kế Điện Biên, vì sắp được tham gia một trận đánh quyết định với Pháp.
    Hò dô ta nào!
    Kéo pháo ta vượt qua đèo.
    Tiếng hát theo gió chiều thổi mạnh vẳng đến tai Hiến, anh không nhìn thấy toán người đang kéo đẩy trọng pháo bên kia triến núi, từ chiều đến giờ, cố hết sức vượt từng tấc một, để vác voi vào ổ đào sẵn trong lòng đá, chĩa xuống lòng chảo Điện Biên.
    Những tiếng phụ hoạ "dô ta nào!" vang dậy lên sau câu hò đưa sức rồi im lặng theo sau. Hiền đoán biết nòng đại bác 105 ly đã đặt vào đích. Anh quay trở lại, về phía tiếng hát thấy các binh sĩ thuộc sư đoàn trọng pháo 351 từ hầm sâu đục trong núi đá chui ra, và đoàn quân 57 của anh đang giơ súng, giơ tay chào mừng đơn vị bạn. Hiền nhận thấy vẻ mặt mọi người biến đổi vì xúc động, và tự nhiên hai mắt anh chớp chớp, không giấu nổi sự cảm kích, rồi im lặng quay đi.
    Điện Biên Phủ kia rồi?
    Tối hôm ấy, sau khi đào xong hầm, Hiền mệt nhoài, song cũng chưa muốn lăn ra ngủ như các bạn chung quanh.
    Dưới ánh trăng lưỡi liềm, anh lần bước đến chỗ cành lá ngụy trang che khẩu đại bác sờ vào nòng thép 105 ly như không tin ở mắt mình.
    Trên dốc đứng 45 độ, khẩu trọng pháo đặt trên bánh xe cao su có thể được chuyển vô ra khoảng hầm đào sâu trong lòng núi đá, không biết đã phải tốn bao nhiêu công sức mới mang lên được đây, mỗi giờ chỉ đẩy lê đi được 50 thước, một ngày không quá nửa cây số, và chỉ di chuyển trong ban đêm vì sợ máy bay quan sát nhìn thấy.
    Hiền nghe kể lại có một chiến sĩ đã lăn xả người ra để chặn bánh xe đại bác khi bị đứt dây kéo bắt đầu lăn xuống dốc núi, và khi giữ được khẩu trọng pháo thì anh ta đã nát bẹp cả người.
    Giờ đây, đứng bên cạnh khẩu đại bác, nhìn xuống khoảng rộng lớn đen tối của lòng chảo Điện Biên Phủ đang phủ sương mờ, Hiền có cảm tưởng như mình đang ở trong tổ loài chim phượng hoàng vẫn làm trên triền núi cao cheo leo, hiểm trở, chân người không đến được.
    Lặng ngắm dưới kia, Hiền nhận thấy hàng rào dây thép gai chằng chịt, các khẩu trọng pháo ngẩng lên trời đen ngòm, rồi bỗng nhiên nhớ đến tờ truyền đơn anh nhặt được ở dọc đường hôm kia, có câu của De Castries, chỉ huy Điện Biên Phủ, nhắn bảo anh và các bạn là "quân hèn nhát".
    Hiền quay về hầm, thao thức không ngủ với ý nghĩ trong đầu, anh đã ghi lại trong cuốn nhật ký hành quân: "Ngày mai đây sẽ thấy rõ ai hèn nhát. Đói, rét không sờn, chúng ta sẽ thắng".
    Trong khi đó, ở trại Điện Biên Phủ như thường lệ, khắp nơi binh sĩ chơi bóng chuyền rồi đi tắm ở sông.
    Vào giờ ăn tối, ở câu lạc bộ chỉ huy, đặc phái viên báo Dépêche du Midi(1) ngồi giữa các sĩ quan uống rượu và nói chuyện về tình hình.
    - Dù sao nếu Việt Minh có trọng pháo…
    - Nên biết rằng phải có cả một trung đoàn để đẩy một khẩu đại bác 75 ly lên một ngọn đồi. Muốn đem đại bác đến đây qua hàng trăm cáy số, phải tưởng tượng là có hằng hà sa số cu-li mới được.
    Sĩ quan Bộ tham mưu De Castries trả lời rồi nói luôn:
    - Nếu không đánh nhau thì sẽ là một bài học. Đây là một cơ hội độc nhất để đè bẹp Việt Minh.
    Đại uý Capeyron chỉ huy đại đội 3, ngực đeo mề đay Lorraine xanh, dấu hiệu danh dự của quân đoàn 18, cất tiếng cười phụ hoạ:
    - Chúng nó chắc có một hai khẩu đại bác gì đó, song phần lớn đại bác không nổ. Toàn nói dóc cả.
    Đặc phái viên tờ Dépêche du Midi, René Mauriès lặp lại nguồn tin nói rằng, Việt Minh mỗi ngày chuyên chở từ năm đến sáu chục tấn tới Điện Biên Phủ và có bắt được ở một tù binh bản đồ một nơi che giấu đại bác, qua sự tiết lộ của tướng Cogny ở Hà Nội.
    Đại tá Berteil tỏ vẻ ngạc nhiên, ngắt lời:
    - Các phi công lái những chiếc Bearcat đã mạo hiểm bay sát sạt các vùng tình nghi đặt giàn trọng pháo, và những tấm hình chụp được không có gì chứng tỏ là có đại bác của Việt Minh cả.
    - Nên phòng ngừa trọng pháo đối phương. Việt Minh có thể sử dụng đại bác như quân Tàu ở Cao Ly dưới các hầm xây tròn khéo che đậy và bắn trực xạ.
    Đại tá Piroth, chỉ huy pháo binh trả lời ngay:
    - Đại tá De Castries đã nghĩ đến rồi, Việt Minh có bộ binh bắn lợi hại thật, song bảo chúng có trọng pháo thì thật là chuyện phì cười. Nếu chúng có trọng pháo và đặt quanh đây, ta sẽ phá tan ngay phát đầu tiên của chúng bắn ra, còn máy bay của chúng ta nữa để làm gì mà không dội bom luôn cho tan? Dù cho chúng có đặt được đại bác đi nữa thì có được bao nhiêu phát đạn để bắn ra? Chỉ đợi cho chúng bắn hết đạn cũng chẳng mấy chốc.
    Tiếng cười của trung tá Gaucher, chỉ huy các tiểu đoàn Lê dương vang lên:
    - Việt Minh có trọng pháo thiệt mà? Song hình như những đại bác 105 ly của chúng đều làm bằng gỗ!
    Ký giả Ren Mauriês kết thúc buổi mạn đàm quân sự bằng câu nhắc lại của Tổng trưởng quốc phòng Pleven vừa ghé viếng Điện Biên Phủ mới đây: "Nước Pháp đang để mắt đến các bạn…".
    Bên tai đặc phái viên Pháp như còn văng vẳng tiếng nói của Pleven trả lời mấy nhà báo tại Nhà Pháp ở Hà Nội vừa rồi.
    Đáp lại Brigitte Fiang hỏi có sợ những khó khăn do tin hội nghị Genève sắp họp không, vị Bộ trưởng Quốc phòng Pháp đã nói rất gọn:
    - Việt Minh không thể nào thắng được đâu, cô ơi! Nếu tôi ở địa vị của Giáp, tôi sẽ hết sức lo âu chính vì tin hội nghị Genève sắp nhóm.
    Ký giả báo Dépêche du Midi cũng liên tưởng đến cuộc họp báo ở Sài Gòn vừa qua của đại tướng Navarre.
    Đặc phái viên nhựt báo Le Monde, Robert Guiltain đã tiết lộ việc bắt được các tin tức của Việt Minh về kế hoạch tiếp tế gạo cho 90.000 người ở Việt Bắc, trong số có 70.000 chung quanh Điện Biên Phủ. Một tin khác nữa của Bộ chỉ huy Pháp nhận được cho hay Việt Minh sẽ tấn công Điện Biên Phủ trong đêm 13 rạng ngày 14 tháng ba 1954. Và lực lượng binh sĩ cùng phương tiện của đối phương biết được là: 27 tiểu đoàn lục quán, 20 đại bác 105 ly, 18 đại bác 75 ly, 80 trọng pháo 37, 100 đại liên phòng không 12 ly 7, không kể số súng cối. Số đạn dược tối thiểu: 5.000 đạn đại bác 75, 15.000 đạn đại bác 105, 44.000 đạn 37 ly D.C.A(2), 24.000 đạn moóc-chê trong số có 8.000 viên cỡ 120, và 200 tấn khí cụ chở tới khoảng từ 8 đến 15 tháng ba này. Về lương thực, mỗi ngày có đến 60 tấn.
    Cục Quân nhu đã tải đến hai tấn thuốc men và nhiều cáng thương binh.
    Trước những con số của Phòng Nhì quân đội viễn chinh Pháp đã tiết lộ nhà báo nêu câu hỏi, đại tướng tư lệnh Navarre, cha đẻ kế hoạch Điện Biên Phủ chỉ lạnh lùng đáp:
    - Việt Minh đã đến cực điểm tham vọng của chúng và vừa chứng tỏ rạng chúng đã vượt quá những khả năng của họ. Điện Biên Phủ đã được chọn làm chiến trường và ta nắm tất cả sự hiểu biết về quân sự, cho nên chính tại đây chúng ta đã chiến thắng.
    Đang lúc đồn luỹ Điện Biên Phủ ở trong thế chờ đợi; sáng rực giữa đêm tối vì những trái hoả châu của máy bay thả xuống như một đám cháy lớn thấy rõ cả ngọn cả lá cây, thì cách đó ba trăm cây số đường thay vào lúc trăng lặn khi 2 giờ sáng đêm mồng 4 rạng ngày 5 tháng tư, phi trường Gia Lâm bị một toán Việt Minh xung phong giả dạng làm phu đột nhập đặt chất nổ phá huỷ lối mười phi cơ vận tải và một xưởng sửa chữa máy bay. Rồi tiếp đến đêm sau, sân bay quân sự ở Cát Bi gần Hải Phòng cũng bị phá hoại mất 4 chiếc B26 và 6 chiếc Morane giữa vòng canh giữ của lính Lê dương.
    Cũng trong hai đêm này, ở Sài Gòn nhân dịp Nhu đi Vĩnh Long gặp người anh giám mục, Lệ đi nhảy suốt sáng với đại tá Trần Văn Đôn, người tình thứ hai trong quân đội, sau tướng Nguyễn Văn Hinh mà nàng hy vọng lôi cuốn để ủng hộ cho ghế Thủ tướng của anh chồng nàng trong nay mai.
    Cùng lúc ấy, ở Ba Lê trời đã sáng - vì cách bảy giờ với Việt Nam - hoàng thân Bửu Lộc, Thủ tướng đương thời gặp ngoại trưởng Bidault để điều đình về việc Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam, ngập ngừng nói:
    - Tôi sang đây để điều đình. Lập trường của Việt Nam trong cuộc thương thuyết này, tôi có thể tóm tắt là: hoàn toàn độc lập, tự chủ toàn diện, rồi liên hiệp với Pháp.
    Trong giờ này, tại vùng ngoại ô Ba Lê, Diệm đang chăm chú đọc nhựt báo Le Monde, bài của đặc phái viên từ Sài Gòn điện về. Từ hôm được tin hội nghị tứ cường nhóm ở Berlin, Mỹ - Nga - Anh - Pháp đồng ý mở hội nghị quốc tế về Đông Dương, Diệm vội từ Bruxelles đi Ba Lê để theo dõi tình hình.
    Qua báo chí và các cuộc tiếp xúc, Diệm nhận thấy rõ là hôm Mỹ tỏ thái độ dè dặt qua lời xác định của Tổng thống Eisenhower không muốn bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tranh toàn diện ở Đông Dương hoặc Đông Nam Á, Pháp càng xúc tiến mở cuộc thương thuyết. Những cố gắng của Thủ tướng Laniel vận động với Luân Đôn và Hoa Thịnh Đốn chấp nhận nguyên tắc tìm kiếm một giải pháp ở Đông Dương, qua sự trung gian của Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa, đã được ngoại trưởng Dulles và Eden chú trọng. Cuộc gặp gỡ tứ cường ở thủ đô nước Đức phân ly trở thành cơ hội tốt cho ông Bidault lôi cuốn Molotov thoả thuận với Tây phương để đem lại hoà bình ở Đông Dương. Hội nghị định họp tại Genève ngày 26 tháng tư, và sẽ mời những đại biểu của Mỹ, Pháp, Anh, Nga, Trung Cộng và các quốc gia liên hệ.
    Bản thông cáo hội nghị tứ cường loan đi thì Diệm đến Ba Lê, được lời hứa hẹn của ngoại trưởng Dulles, đảm bảo vận động cho Diệm về nước làm Thủ tướng, một khi Pháp bắt đầu thoả hiệp với Việt Minh tại Genève.
    Cũng vào lúc ấy, tại Mạc Tư Khoa, phái viên của Thủ tướng Laniel, nghị sĩ xã hội Alain Savany từ Ba Lê qua, gặp đại sứ Việt Minh Nguyễn Lương Bằng, đề nghị muốn tiếp xúc với ông Hồ Chí Minh.
    Nhà du thuyết Pháp chỉ nhận được các câu trả lời mơ hồ:
    - Chủ tịch chúng tôi còn đợi xem tình hình quân sự tiến triển ra sao đã rồi sẽ tiếp chuyện ông.
    Câu nói lạnh lùng như gió tuyết ở Công Trường Đỏ thổi bên tai nghị sĩ xã hội Savany, khiến ông ta thất vọng đứng lên. Nhà du thuyết Pháp không khỏi chua xót nhớ lại lời của ngoại trưởng Bidault mới tháng trước đây đã ngăn cản cuộc hành trình thương thuyết còn văng vẳng:
    - Hồ Chí Minh đã gần đến chỗ phải đầu hàng, chúng ta sắp đánh bại ông ta. Đừng có tiếp thêm sức cho ông ta bằng các tiếp xúc kiểu này.
    Cũng vào thời gian này, tại Hạ nghị viện Pháp, cuộc tranh luận về Đông Dương vừa chấm dứt.
    Thủ tướng Laniel đã được tín nhiệm với 333 phiếu thuận và 271 phiếu chống.
    Bước vào phòng làm việc, Thủ tướng Laniel và Bộ trưởng quốc gia liên kết Marc Jacquet đều nhìn thấy trên bàn giấy tập phúc trình của đại tướng Ely, Tổng Tham mưu trưởng quân lực, đại tướng Blanc, Tham mưu trưởng lục quân, và đại tướng Fay, Tham mưu trưởng không quân vừa đi thanh tra các mặt trận ở Đông Dương và nghiên cứu tình hình quân sự tại chỗ.
    Cả ba vị tướng đều đưa ra một kết luận chung rất rõ ràng: mặc dầu tướng Navarre có những phương tiện quan trọng về hải lục không quân, cũng không thể đạt đến một quyết định quân sự được nữa.
    Quân đội viễn chinh có được tăng cường lớn lao thêm cũng không thể thay đổi được tình thế. Vả lại, nỗ lực quân sự của chính quốc đã hết mức rồi. Tất cả những gì lúc này Pháp có thể mong ước là tạo ra những điều kiện quân sự thuận lợi nhất để giải quyết cuộc chiến tranh bằng một giải pháp quân sự.
    Đại tướng Blanc quyết liệt nhấn mạnh: phải tìm giải pháp cho vấn đề Đông Dương ngay trong năm 1954, vì nước Pháp đã suy kiệt về vật chất cũng như tinh thần, nhất là thiệt hại về sĩ quan và hạ sĩ quan ngày một thêm nặng nề. Tiếp tục chiến đấu ở trung châu, mồ chôn binh sĩ chúng ta, sẽ là một tội ác đối với quân đội chúng ta, cũng như đối với dân chúng không đánh nhau.
    - Theo ý tôi, cần tìm một giải pháp có thể giúp chúng ta rút ra khỏi "tổ ong vò vẽ Bắc Việt" và dồn lực lượng về Ai Lao và phần đất Việt Nam ở dưới con đường Đông Hà - Savanakhet, có thể bình định được. Phải thương thuyết theo giải pháp đó và tôn trọng những cam kết của chúng ta với sự thoả thuận của Việt Nam, quốc gia bên cạnh, vừa duy trì được ưu thế quân sự của chúng ta.
    Tướng Blanc đã nói lên ý nghĩ chung của các vị tướng lãnh cao cấp vừa ở Đông Dương về, phù hợp với đề nghị của Tổng trưởng quốc phòng Pleven vừa phúc trình: cần phải vận dụng tất cả mọi khả năng có thể đưa đến hội nghị Genève để tìm một giải pháp phải chăng cho chiến tranh Đông Dương.
    Thủ tướng Laniel nhận thấy không còn trì hoãn được nữa, đang nhờ có dịp lên tiếng thì gặp ngay cơ hội để quyết định thái độ: Thủ tướng Ấn Độ Nehru đề nghị một cuộc ngừng bắn ở Đông Dương.
    Triệu tập liền Quốc hội, Thủ tướng Laniel đưa ra những điều kiện để ngừng bắn.
    Tổng trưởng Pleven đề nghị thành lập một Hội đồng chiến tranh hạn chế để ứng phó với tình thế. Phải sửa soạn hội nghị Genève trong nội bộ Pháp với Việt Nam và cả Mỹ nữa.
    Nhận được tin Việt Minh chấp thuận những đề nghị của Pháp, Hội đồng chiến tranh nhóm họp phiên quan trọng ngày 11 tháng ba.
    Ông Pleven đề nghị chính phủ phái đại tướng Ely sang Hoa Thịnh Đốn để trình bày về thực trạng quân sự, giải thích cho các giới lãnh đạo Mỹ hiểu rõ tình thế mà đừng đề cập đến Hội nghị Genève với tin tưởng là Pháp còn có thể thắng được trong trận chiến tranh Đông Dương.
    Hội đồng cũng quyết định tướng Ely sẽ yêu cầu Hoa Thịnh Đốn bảo đảm cho không quân Mỹ can thiệp tức khắc một khi đối phương tung máy bay ra chiến trường.
    Trong khi ấy Tổng trưởng quốc phòng Pleven tỏ ý lo ngại:
    - Vài chiếc MIG 15 xuất hiện trên vùng trời Đông Dương có thể làm đảo lộn tình hình trong một tuần lễ, vì hiện giờ chúng ta trông cậy lớn lao ở phi cơ chuyên chở và oanh lạc.
    Sự tăng cường và tiến bộ về cao xạ phòng không của Việt Minh đã có một ưu thế tuyệt đối khiến không quân của chúng ta phải lo ngại.
    Ở Sài Gòn, Bộ Tổng tư lệnh được tin Việt Minh có thể bắn vào lòng chảo Điện Biên Phủ những trái đạn 105 ly bằng phốt-pho do Trung Quốc tiếp viện. Thứ trái phá lân quang này sẽ tạo ra một lớp mây dày đục làm cho khó thở và chảy nước mắt có thể gây nên một phản ứng tâm lý tai hại đối với binh sĩ, tướng Navarre đánh điện cho Cogny báo động với đại tá De Castries và yêu cầu Ba Lê gởi gấp 15.000 mặt nạ phòng hơi ngạt cho Điện Biên Phủ vì ở Đông Dương không có.
    Tại Ba Lê, giữa phiên họp hạn chế của Hội đồng chiến tranh chỉ gồm có Thủ tướng ngoại trưởng, Tổng trưởng quốc phòng và các Bộ trưởng quân sự, đang lúc tướng Fay thốt ra câu: "Đối với tôi ở Điện Biên Phủ, chúng ta đang đi đến thảm hoạ" thì ở điểm tựa Beatrice người ta nhìn qua ống nhòm thấy lính Việt Minh nhảy tránh đạn đại bác 105 ly, rồi đào xúc đất lên để nấp: Khói đạn mù mịt bao phủ bên ngoài mấy cứ điểm đầu.
    - Đào hầm! Chúng nó đào hầm!
    Tin truyền đi khắp các trại, đại tá De Castries gọi điện thoại cho tướng Cogny ở Hà Nội hay dấu hiệu địch sắp tấn công.
    Tướng Navarre ra lệnh cho vị chỉ huy không quân chuẩn bị sẵn 40 chiếc Dakota ở trung châu Bắc Việt và 15 chiếc ở căn cứ Seno để chở ngay 3 tiểu đoàn lính nhảy dù thả xuống Điện Biên Phủ.
    Vào lúc này, 3 trong những hầm nắp rộng bên dưới mặt đất, ở những trạm dọc theo đường tỉnh số 41, cũng như khắp các đơn vị rải rác ẩn núp chung quanh lòng chảo Mường Thanh, khuất dưới lá cây rừng, mọi người đều như thức tỉnh bởi luồng điện kêu gọi: Trận Điện Biên Phủ sắp bắt đầu.
    Tại Ba Lê, trong lúc này, Ngô Đình Diệm và người em út Ngô Đình Luyện theo dõi sát những biến chuyển của tình hình, từ sau khi đọc bản thông cáo của Hội nghị tứ cường ở Bá Linh, thảo một kế hoạch trao tận tay các chính khách Pháp, Mỹ.
    Sau khi trình bày thực trạng của chế độ quốc gia làm thối nát tình hình chính trị, không tạo nổi một quân đội khả dĩ có thể liên minh với Pháp đương đầu lại Việt Minh, anh em họ Ngô kết luận:
    "Yếu tố độc nhất thay đổi được tình trạng suy yếu hiện thời là phải có một chính phủ có khả năng được dân chúng ủng hộ, mang lại một tin tưởng mới cho quân đội quốc gia thực sự. Cần phải tìm ra một nhân vật mới có thể mang lại một luồng sinh khí mới cho Việt Nam, đương đầu với hiểm hoạ Cộng sản".
    Con người hùng của thời đại được gợi ra đây, gián tiếp nhắc đến "chí sĩ Ngô Đình Diệm".
    Ở Sài Gòn, Lệ và Nhu nhận được bản vận động này đúng vào giữa lúc tướng Nguyễn, Tham mưu trưởng quân đội quốc gia vừa đọc xong bản thống kê của Bộ Tư lệnh Navarre: Từ năm 1945 đến mùa xuân 1953, quân đội viễn chinh đã thiệt mất 34.641 binh sĩ, trong số có 28.141 người Bắc Phi và Lê dương, 32.000 người Việt, Miên và Lào bị giết. Chiến tranh đã hao tổn gần 2.000 tỷ. Từ 1952, Mỹ đã cung cấp trên 1.000 tỷ viện trợ.
    Tối hôm ấy, giữa lúc toán xung phong Việt Minh len lỏi vào phi trường Điện Biên Phủ, đặt chất nổ dưới hàng rào sắt để phá sân bay cùng rải truyền đơn bằng chữ Pháp và chữ Đức: "Điện Biên Phủ sẽ là mồ chôn các người" thì Lệ đang uốn éo trong tay tướng Hinh ở một căn phòng điều hoà không khí của khách sạn Majestic, nàng nũng nịu:
    - Anh phải giúp em một tay, tức là giúp nhà chồng em để cầm quyền nay mai. Dĩ nhiên là anh nắm giữ về quân sự, Tư lệnh quận đội quốc gia, Bộ trưởng quốc phòng… anh muốn gì cũng được cả, miễn là anh ở gần em…
    Tướng Hinh chưa kịp trả lời thì đôi môi của Lệ đã bịt lấy miệng chàng, vị tướng trẻ tuổi quên tất cả, đắm chìm khoái lạc với người đàn bà hoả diệm sơn và gật đầu chấp thuận hết.
    Cũng trong giờ này, tại Điện Biên Phủ, cha tuyên uý Trinquard tai còn váng vì những phát đại bác 105 ly đầu tiên của Việt Minh bắn vào sân bay suýt trúng chiếc phi cơ chở tướng Cogny đến thanh sát cất cánh trở về Hà Nội làm cháy hư hết hai chiếc Morane đậu ở trên san.
    Trong buổi họp tối giữa các vị chỉ huy những điểm tựa, chung quanh đại tá De Castries, linh mục hay tin vào lúc 5 giờ rưỡi chiều một chiếc Bearcat bị đạn cao xạ của đối phương bắn trúng, và số tổn thất từ hôm thiết lập đồn trại ở Điện Biên Phủ đến nay: 7 sĩ quan, 19 hạ sĩ quan và 125 người bị giết, 2 sĩ quan, 9 hạ sĩ quan và 70 người mất tích, 29 sĩ quan, gần 100 hạ sĩ quan và 675 người bị thương.
    Vị linh mục tự hỏi: Họ chết cho ai và hy sinh vì mục đích gì?
    Cha tuyên uý điểm tựa Isabelle nhớ chủ nhật tuần trước trong buổi lễ đã đọc đến câu trong Kinh Thánh: Circum cludere me gemi tus morlis (những tiếng kêu than của chết chóc đang vây quanh ta)…
    Giờ đây, đang tối thứ sáu, đến sáng ngày kia mới chủ nhật có lễ, linh mục Trinquard muốn kêu lên:
    - Exsurge, Domille, adjava nos ét liberu nos! (Xin Chúa đứng lên để cứu vớt chúng tôi và giải thoát chúng tôi).
    Mùa Phục sinh chưa tới, song ý nguyện của cha tuyên uý đã hướng về sự cứu rỗi bằng đau khổ và chết chóc vì nghe nói Việt Minh thường bắt đầu các cuộc đánh lớn vào tối thứ bảy. Hơn nữa, linh tính như báo cho linh mục ở Điện Biên Phủ tiên cảm những đau thương ghê gớm sắp xảy ra. Trăng thượng tuần đã lặn sớm sau rặng núi, những đêm sắp tới phấn lớn đều tối, dễ bề cho đối phương hoạt động.
    Sau câu nói bế mạc buổi họp của đại tá chỉ huy De Castries: "Các bạn, đến mai, 17 giờ!", các sĩ quan chia tay nhau, qua những lời lẽ bâng quơ, tin là chưa có chuyện gì đáng ngại, cha Trinquard trở về phòng riêng nằm thao thức.
    Linh mục Trinquard trông nom một nhà thờ nhỏ ở Meaux, từ Pháp mới qua Đông Dương, làm cha tuyên uý cho đoàn quân Lê dương thứ 13.
    Nghĩ đến sự cuồng nhiệt của binh sĩ đối phương lao mình vào lửa đạn đại bác, súng liên thanh, trái phá, bom lửa, linh mục tuyên uý tự hỏi không biết sức mạnh gì thúc đẩy họ hy sinh như vậy? Phải chăng họ đổ máu, phơi xương, làm phân bón cho những mùa màng sắp tới vì mùa lúa sẽ do dân chúng gặt hái chứ không thuộc về đám quan lại nữa? Họ lăn xả vào cuộc chết vì không muốn vùng ruộng đất Thái Bình - Nam Định bao la chỉ nằm trong tay mười ba địa chủ?
    Nhưng còn những thanh niên học thức, con cháu nhà giàu, quan lại tri thức, ở trong hàng ngũ Việt Minh, có cả những người Công giáo, Phật giáo, tin tưởng ở Chúa, Phật, chắc chắn là họ không ưa được Cộng sản rồi, vì Cộng sản nhất định không thích gì họ, nhưng tại sao họ cũng ở trận tuyến bên kia?
    Cha Trinquard bấy lâu gần kề bên cái chết mỗi ngày, lại thắc mắc không hiểu những binh sĩ đủ màu da trong quân đội viễn chinh mang thân đến chốn hẻo lánh rừng núi xa xôi này bởi lý do gì? Những danh từ đẹp đẽ, văn minh, tự do… không chứng minh được. Bao nhiêu đau thương, bi thảm ghê gớm đưa đến cho con người trong lửa đạn chiến tranh.
    Chúa đã đổ máu, xả thân, chịu đóng đinh trên thập tự giá vì chỉ muốn cứu rỗi, chuộc tội cho loài người, muốn cho con người yêu thương nhau. Còn ở đây, con người là chó sói cắn giết lẫn nhau, trong này với ngoài kia, rình rập bắn giết nhau, quyết tâm hạ thủ nhau, tại sao…?
    Đang lúc vị linh mục tuyên uý thao thức băn khoăn cho đến khi trời rạng sáng, mơ màng thiếp ngủ, bỗng choàng người dậy vì những phát đại bác rung chuyển cả lòng chảo Điện Biên Phủ.
    Tiếng gà rừng vừa gáy sáng, vượn hót ở đầu núi, vẳng xuống thung lũng đang im lìm trong sương mờ thì trọng pháo Việt Minh bắt đầu nhả đạn tràn lấp hết mọi âm thanh rừng núi hừng đông bằng những tiếng trái phá 105 ly.
    Phi trường Điện Biên Phủ mặc dầu được một lớp khói nhân tạo thường xuyên che khuất vẩn bị những phát đạn đầu tiên phá huỷ tại chỗ hai chiếc Dakota. Hai phóng viên của Sở Thông tin Tư lệnh Pháp mải mê chụp cảnh cháy chiếc Curtis Commando của hãng Aigle Azus sắp cất cánh bỗng bị một loạt đạn moóc chê. Nhiếp ảnh viên Martinoff chết tại trận, điện ảnh gia André Lebon mất một bên chân được đưa đến bác sĩ Grauwin cưa tại chỗ và chở ngay về Hà Nội trong khi chiếc Dakota thứ ba bị bốc cháy.
    Phi trường và máy bay trên sân lòng chảo nằm dưới lằn đạn, chiếc Bearcat đầu tiên cháy như một ngọn đuốc rớt xuống gần điểm tựa Béatrice. Năm chiếc Morane, một trực thăng và sáu phi cơ săn giặc trên đường bay Điện Biên Phủ không cất cánh được vì xăng trong bình lẫn với nước.
    Trọng pháo ở các vị trí trong lòng chảo bắn ra vu vơ vì không tìm được những ổ bắn của đối phương đã khéo che đậy ở trong lòng núi. Mưa phùn mờ mịt lại ngăn trở những khu trục cơ và oanh tạc cơ Pháp ở trung châu bay lên tiếp ứng.
    Trọng pháo từ mấy phía núi rớt xuống, nhắm vào sân bay, các cứ điểm kiên cố mang những tên mỹ miều của các thiếu nữ Pháp biến lòng chảo Điện Biên Phủ thành một thung lũng khói lửa đỏ rực trong những tiếng nổ long trời lở đất.
    Cha tuyên uý Trinquard ở trong hầm nấp điểm tựa Béatrice váng óc vì đạn đại bác rung chuyển cả mặt đất, đếm từ 15 đến 18 phát nổ mỗi phút xé toang cả chung quanh, không còn nghe ở máy phóng thanh những lời gì rõ rệt hơn là tiếng "chết" và tin các cứ điểm Béatrice, Gabrielle, Anne - Marie bị trúng đạn, bị bốc cháy hoặc không trả lời nữa.
    Một loạt đạn 105 ly dội tung đất lên, đèn điện tắt ngấm, linh mục Trinquard ôm lấy bờ hầm, đến khi ngẩng lên nhìn thấy qua ánh đèn bấm, một bóng người trắng như ma, tựa vào cánh cửa, áo quần tả tơi đầu tóc rũ rượi, mặt mũi đầy đất bụi như kẻ vừa ở địa ngục chui ra: đại tá Vadot, tham mưu trưởng đạo quân Lê dương, phều phào nói:
    - Chỉ huy trưởng đại tá Gaucher chết rồi!
    Cha Trinquard bò ra khỏi hầm, lần mò đến trạm cứu thương thấy bác sĩ Grauwin cùng cha tuyên uý Heinrich đang vuốt mắt cho đại tá Gaucher, chỉ còn một cánh tay, mình đầy máu. Vị chỉ huy toàn thể các tiểu đoàn Lê dương của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo số phận của ba sĩ quan phụ tá chết tại chỗ, trong giờ đầu trận đánh.
    Bên tiếng đạn réo nổ không ngừng ở phòng mổ, bác sĩ đại uý Grauwin mình cởi trần, đang cúi xuống cưa chân, mổ bụng, xẻ óc cho các thương binh. Hàng trăm người bị đạn, kêu rên chung quanh.
    Nhà xác cạnh đó đã chất đầy binh sĩ tử thương.
    Nhìn ra ngoài, lửa bốc đỏ rực trời, lửa cao ngọn trên đường sân bay soi sáng lòng chảo như miệng núi lửa, rồi bỗng chốc kho xăng và bom xăng đặc nổ cháy bùng lên giữa cảnh lửa đạn ầm ĩ, lẫn những tiếng hét rùng rợn của lớp lớp sóng người vượt qua mưa đạn, tràn ngập các cứ điểm phía bắc, sau những tiếng nổ bộc phá đánh vỡ toang hàng rào dây kẽm gai.
    Dưới ánh sáng chói loà của hoả châu do máy bay thả xuống ba điểm tựa Béatrice, Gabrielle, Anne Marie chế ngự hệ thống phòng thủ phía bắc Điện Biên Phủ lần lượt bị các đợt tấn công Việt Minh tràn chiếm.
    Các giàn trọng pháo ở lòng chảo phản công vô hiệu quả, vì không tìm ra đại bác đối phương chôn giấu phía nào ở triền núi vây quanh. Đại tá Piroth chỉ huy lực lượng pháo binh thấy tất cả sự bất lực của mình, ứa nước mắt uất hận trước mặt đại tá nhảy dù Langlois, nghẹn ngào nói:
    - Hỏng rồi! Tôi đã báo với De Castries phải thôi. Chúng ta đã đi tới chỗ bị tàn sát, do lỗi tại tôi.
    Rồi giữa không khí kinh hoàng, hoang mang của hầu hết binh sĩ, qua trận đánh đầu tiên thất bại chua cay, đại tá Piroth về phòng riêng, rút lựu đạn cài ở lưng ra, lấy răng mở rồi đặt ở một bên tim.
    Trong lúc vị chỉ huy pháo binh tự sát, lòng chảo vẫn không một phút nào ngừng tiếng súng, đại tá chỉ huy De Castries ngồi ở hầm tư lệnh viết thư cho vợ để gởi theo chuyến bay sắp cất cánh: "Quân Việt tấn công bọn anh từ hôm qua. Tình hình trái hẳn với sự mong muốn của bọn anh. Trọng pháo đang rót vào. Một trung tâm kháng cự đã bị mất vì vị chỉ huy bô mạng. Thời tiết xấu, phi trường bị đặt dưới hoả lực của địch. Nhiều máy bay bị cháy và vì thế nên không có một chiếc nào dám hạ xuống".
    Trong khi ấy đại tướng Navarre, Cao uỷ Đông Dương Deanjean cùng các Bộ tham mưu ở Hà Nội và Sài Gòn không giấu vẻ nghi ngờ gì nữa: trận đánh thua mất rồi! Trừ ra có một sự can thiệp mạnh mẽ từ bên ngoài, không thì Điện Biên Phủ chẳng còn hy vọng gì nữa!
    Tại Sài Gòn, nghe thấy dư luận xôn xao, lo ngại, Lệ vội tìm đến tướng Hinh để hỏi thăm tin tức. Nàng được người tình cho hay:
    - Ông Deanjean vừa gặp đại sứ Mỹ và phái bộ quân sự Mỹ để xin gởi gấp mấy máy bay thả bom, săn giặc, và chuyên chở (B26, F8F, C47) thả bom napalm xuống chung quanh Điện Biên Phủ. Muốn cứu nơi này, cần phải có thêm nhiều máy bay để đánh phá phía sau địch, cắt đứt các đường đưa đến Điện Biên Phủ, ngăn trở sự tiếp tế, dội bom xuống các kho của chúng, phá nát các giàn đại bác, giữ chặt quân địch một chỗ dưới đất, bằng cách tưới napalm chung quanh lòng chảo…
    - Như vậy là Pháp cần nhờ đến Mỹ lúc này lắm phải không?
    - Pháp cần nhờ đến máy bay Mỹ để giải cứu Điện Biên Phủ cũng không có gì đáng vui, tại sao trông toa có vẻ hí hửng như vậy?
    Lệ cười nhoẻn miệng nói:
    - Toa không hiểu là Pháp càng cần đến Mỹ bao nhiêu thì ước mong của moa càng sớm thực hiện bấy nhiêu.
    Tướng Hinh ngây người ra, lắc đầu tỏ vẻ ngạc nhiên trước câu nói của Lệ khiến nàng phá lên cười một cách thích thú như đã đưa ra được một bài toán khó giải đáp.
    - Toa muốn moa cắt nghĩa thì phải chịu cho moa cái gì nào?
    Hinh nhìn Lệ, cười cười nói:
    - Thì moa chịu "mở luôn hai mặt trận" liên tiếp với toa hôm nay, có được không?
    Lệ ứ lên một tiếng, véo vào vai Hinh, rồi nghiêm mặt nói:
    - Toa cứ có thói hay bỡn cợt trong lúc moa nói chuyện đứng đắn, ghét mặt toa lắm? Toa ngốc, mới không hiểu Pháp cần nhờ đến Mỹ, tất nhiên phải nghe theo Mỹ, chịu điều kiện của Mỹ đặt ra mới giúp. Như vậy là lá bài của anh chồng moa sắp đưa ra đánh rồi.
    Hinh chợt rõ ý nghĩa thái độ hớn hở của Lệ, bèn mở lời trêu chọc:
    - Anh chồng toa có được Mỹ vận động cho về làm thủ tướng, thì toa ăn thua gì vào đó?
    - Sao lại không?
    - Moa vẫn không hiểu toa muốn nói gì.
    Lệ đang lúc hứng khởi, không dè dặt nói:
    - Thì anh chồng moa về làm thủ tướng, chồng moa sẽ ở bên cạnh, tất nhiên là phải có moa.
    Tướng Hinh cố lấy vẻ mặt trịnh trọng bảo Lệ:
    - Nếu thế thì moa sẽ đấu súng với anh chồng toa, thủ tướng tương lai…
    Hinh ngừng lại thấy Lệ thắc mắc nhìn mình, đằng hắng rồi lên giọng:
    - Moa nhất định sẽ đấu súng với anh chồng toa, một khi y về đây, toa không hiểu tại sao à? Toa mong cho y về làm thủ tướng như vậy mà không đoán được hả? Vì moa ghen ghê lắm! Ghen với toa!
    Lệ ngầm hiểu lời nói châm chọc, nhảy xô lại cấu véo vào đùi Hình đang vận quần cụt, miệng không ngớt nói:
    - Đểu! Toa đểu lắm!
    Trong lúc tướng Hình đùa bỡn với Lệ ở văn phòng Tổng tham mưu tại Sài Gòn thì tại Buôn Mê Thuộc cách dinh nghỉ mát Quốc trưởng bên hồ Hoàng triều cương thổ lối một giờ voi đi, tại cánh đồng rừng cỏ cao ngập đầu người, Bảo Đại cùng người đẹp Mộng Điệp ngồi trên bành voi, bảo người nài Thượng cho voi dừng lại, nổ súng bắn ngã một con bò rừng cách ba chục thước.
    Trên lòng chảo Điện Biên Phủ giờ ấy, chiếc Dakota chở tướng Cogny bay vòng muốn đáp xuống sân bay đang ở dưới lằn đạn của Việt Minh, đành phải quay trở về Hà Nội. Vị tướng chỉ huy Bắc Việt muốn nhảy dù xuống để mang lại tinh thần cho binh sĩ 12 tiểu đoàn trọng pháo đài bị bao vậy, song lại sợ bị kẹt, vì phi trường - ngõ thoát độc nhất - đã bị hoả lực bất ngờ đối phương chế ngự đặt ở các cứ điểm chiếm được ngay từ lúc đầu trận đánh. Phi cơ chở thương binh cũng không cất cánh được và bao nhiêu máy bay còn lại đều lần lượt bị bắn cháy, đường bay bị đạn trái phá cày nát. Trọng pháo của Việt Minh, đại bác 105 ly, súng cối hạng nặng 120 ly, cao xạ 37 ly, và đại liên làm thành một vòng lửa đạn khép chặt lấy Điện Biên Phủ.
    Giữa lúc vị tướng sắt đá Cogny nuốt nước mắt uất hận trên đường về Hà Nội thì đại tướng Ely từ Ba Lê bay sang Hoa Thịnh Đốn xin cứu viện, đang ngồi ở văn phòng Ngũ giác đài, đối điện với đô đốc Radford, vị tư lệnh hạm đội hùng mạnh nhất thế giới ở Thái Bình Dương, bạn thân của Tổng thống Eisenhower, con người say sưa chú trọng đến chiến trường Đông Dương từ sau ngày chấm dứt chiến cuộc Triều Tiên.
    - Tôi đề nghị cho không quân can thiệp Điện Biên Phủ. Lối sáu chục chiếc oanh tạc cơ hạng nặng B29 từ căn cứ Clarkfleld (gần Manille), với 150 khu trục cơ trên hàng không mẫu hạm của đệ thất hạm đội hộ tống, sẽ có thể đè bẹp Việt Minh ở Điện Biên Phủ: mỗi lần oanh tạc được 450 tấn bom.
    Tướng Ely ngần ngại hỏi:
    - Bắt đầu từ ngày nào?
    - Để tôi nghiên cứu ngay.
    Sau câu trả lời cương quyết của đô đốc Radford, tướng Ely vội trở về sứ quán Pháp, đánh điện mật báo động với thủ tướng. Trong đầu óc Ely lúc lấy giờ, đề nghị của đô đốc Radford về những phi cơ B29 có nghĩa là sẽ liệng xuống núi rừng Điện Biên Phủ thứ bom A, mà mười năm trước đã bắt Nhật phải đầu hàng, chiến dịch chưa có tên, và tướng Ely không hay là mình đang trở về Ba Lê giữa mùa xuân ướt lạnh với một con chim kền kền đậu ở trên vai.
    Tại Ba Lê, Ngô Đình Diệm đi gặp ngoại trưởng Geoges Bidault, lãnh tụ Mặt trận Bình dân (MRP) của phe Công giáo Pháp, để nhắc nhở về sự ủng hộ của lực lượng này dùng áp lực với Bảo Đại để cho mình được về cầm quyến, trước ngày mở hội nghị Genève.
    Ở toà lầu đường Orsay(3) ra, Diệm đi thẳng về nhà trọ thấy Ngô Đình Luyện cũng vừa đi về.
    - Em vừa gặp một người bạn ở văn phòng Quốc trưởng cho hay là đầu tháng tư này Bảo Đại sẽ qua đây.
    Diệm nói:
    - Anh cũng vừa gặp ông Bidault cho biết thế nào ông Bảo Đại qua đây, ông ta cũng vận động cho anh về làm thủ tướng. Lần này thì chắc chắn rồi.
    Rồi Diệm kể lể:
    - Ông Bidault có khuyên anh nên làm sao đừng có sự trở ngại về phía ông Bảo Đại. Lần Nguyễn Văn Tâm thôi, đáng lẽ anh lên làm thủ tướng chớ có phải Bửu Lộc đâu. Theo đề nghị của ông Bidault, song ở bên nhà, chú Nhu với anh Giám mục làm sao để ông Bảo Đại nghi kỵ là anh muốn vận động các giáo phái Cao Đài Hoà Hảo và cả Bình Xuyên nữa, đưa anh lên cầm quyền chống lại ông ta. Anh nghĩ có lẽ là chú Nhu không khéo léo sao đó, để cho mấy phe quốc gia gần ông Bảo Đại ngầm xúc xiểm phá anh. Vậy lần này, sẵn chú có quen biết với mấy người ở văn phòng Quốc trưởng tại đây, chú nên nói khéo với họ, để họ đừng phá mình, đâm thọc với ông Bảo Đại.
    Diệm lại nói tiếp:
    - Vẫn biết rằng anh được hậu thuẫn mạnh của các phe Công giáo Mỹ và Pháp, cùng các nhân vật trọng yếu của hai nước này, nhưng dù sao cũng phải qua sự uỷ nhiệm chính thức của ông Bảo Đại mới ra lập chính phủ được. Lúc này, bằng đủ mọi cách, làm sao cho ông Bảo Đại đừng nghi ngại từ chối.
    Luyện lên tiếng:
    - Em có nói với bà Trần, với tư cách nghị sĩ Liên hiệp Pháp, và quen biết trước với ông Bảo Đại, sẽ xin gặp riêng để nói vào thêm cho anh.
    - Vừa rồi, thư thím Nhu gởi qua cũng nói được gặp ông Bảo Đại ở Đà Lạt, có nhắc đến việc anh, ông Bảo Đại tỏ ý thuận. Anh chỉ ngại ông Bảo Đại vốn không ưa anh từ hồi anh từ chức Thượng thơ Bộ lại và hay nghe mấy người chung quanh, nhất là mấy tay chính trị lăng xăng ở Sài Gòn, sợ anh ra thì họ mất quyền lợi nên cố vây quanh ông Bảo Đại để cản trở cho ông ta đừng nhận anh. Song lần này, anh tin là ông Bảo Đại cũng khó từ chối.
    Diệm nói tiếp bằng một giọng cả quyết:
    - Pháp đang bị kẹt ở Điện Biên Phủ, đúng vào lúc đang cần có một thế mạnh quân sự, để dự hội nghị nay mai ở Genève, đã phải cầu viện Mỹ, Mỹ định can thiệp trực tiếp vào Đông Dương, gởi phi cơ ở các căn cứ Phi Luật Tân, Đài Loan, Nhật Bản và hạm đội thứ bảy đến Việt Nam giải vây cho Pháp ở Điện Biên Phủ, Mỹ lại vừa giúp thêm một ngân khoản 500 tỷ quan cho chiến trường ở Việt Nam, Mỹ cung cấp tiền bạc và vật liệu, dĩ nhiên họ phải có tiếng nói mạnh.
    Tướng O Daniel quen biết anh hồi ở bên Mỹ, sắp cầm đầu một phái bộ đặc biệt sang nước mình. Ông Bidault cũng vừa cho anh hay là cứ theo tình hình tiến triển hiện nay, Mỹ không đứng ngoài lâu được nữa và sớm muộn gì Mỹ cũng phải nhảy vào giúp Pháp để ngăn chặn Cộng sản tràn xuống phía Nam.
    Như vậy, nước cờ chính trị ở Việt Nam phải thay đổi, chắc chắn là anh ta lập chính phủ mới…
    Trong lúc anh em họ Ngô tiếp tục bàn đến viễn ảnh cầm quyền tương lai thì Hội đồng chiến tranh Pháp triệu tập phiên khẩn cấp để quyết định về CHIẾN DỊCH KỀN KỀN, cứu nguy Điện Biên Phủ.
    Các yếu nhân lãnh đạo chính phủ và các tướng hiện diện đều nhận thấy rằng theo chủ trương để không quân Mỹ trợ lực tham chiến thì đây là hành động trực tiếp can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Đông Dương có thể lôi cuốn theo một phản ứng dữ dội của Trung Cộng, đưa đến những "rắc rối quốc tế" song không còn có cách nào để cứu được pháo đài bị bao vây, và theo lời của tướng tư lệnh Navarre, chỉ còn có một điều kiện độc nhất là can thiệp lớn lao cấp tốc bằng không quán Mỹ mới có thể vãn hồi tình thế ở Điện Biên Phủ.
    Hội đồng chiến tranh tán thành chiến dịch Kền Kền cử ông Maurice Schumann đi triệu đại sứ Mỹ Doulas Dillon ở Matignon. Đến 11 giờ rưỡi đêm, Thủ tướng Laniel tiếp đại sứ Mỹ, trước sự hiện diện của ngoại trưởng Bidault, nhân danh chính phủ Pháp, nhờ ông Dillon xin với chính phủ Mỹ cho máy bay hạng nặng có thể chở 2.000 ký hoặc hơn nữa can thiệp gấp để cứu pháo đài Điện Biên Phủ.
    Tại Hoa Thịnh Đốn, tham mưu trưởng đô đốc Radford và ngoại trưởng Dulles vận động các nhận vật trong chính phủ và thuyết phục các nghị sĩ chấp thuận giải pháp dội bom xuống Điện Biên Phủ, song bị các lãnh tụ Quốc hội cương quyết từ chối, và Tổng thống Eisenhower cũng không tán thành.
    Sáng hôm sau, ngoại trưởng Bidault tiếp được điện trả lời của ngoại trưởng Dulles: Mỹ không thể hành động tham chiến ở Đông Dương, nếu không có thoả thuận chính trị với Pháp và các nước khác, và không có sự chấp thuận của Quốc hội.
    Giữa lúc chiến dịch Kền Kền bị gạt bỏ ở Hoa Thịnh Đốn thì tại Mạc Tư Khoa nhà du thuyết Alain Savany, nản lòng chờ đợi dấu hiệu của ông Hồ Chí Minh để khai mào cuộc thương thuyết, lên đường trở về Ba Lê. Tin tức báo chí và hành lang chính trị cho nghị sĩ xã hội Savany nhận thấy rõ là nhiệm vụ của ông đã bắt đầu trễ quá rồi, và trong lúc này mọi việc đều đang đánh cuộc tại Điện Biên Phủ.
    Ở lòng chảo Điện Biên Phủ, cha tuyên uý Heinrich làm lễ ở trong hầm núp trước một số binh sĩ thất thần, quần áo lấm láp, râu không cạo, mặt mũi hốc hác, thảm hại:
    - Xin Chúa hãy đoái thương đến tôi vì tôi đã kiệt sức rồi, vì xương tôi đã rã rời và linh hồn tôi bối rối đến cực điểm!
    Trong những đường hào đưa đến bệnh viện đám tàn quân Algérie và Marocain đã chạy thoát các cứ điểm Eliane và Dominique, đang tụ tập quỳ ở trong bùn. Bác sĩ Grauwin nghe tiếng họ kêu than, từ phòng mổ bước ra:
    - Thưa đại tá, ngài là cha chúng tôi, chúng tôi đến để hầu ngài, giúp ngài làm y tá, làm bồi. Đối với chúng tôi thế là hết rồi. Ở trên kia, có nhiều người chết quá. Tại sao? Vợ chúng tôi, con chúng tôi cần chúng tôi ở quê nhà.
    Bác sĩ Grauwin thấy lòng se lại, dịu dàng bảo họ trở về các đơn vị cũ Nhưng các đơn vị của họ ở đâu? Phần lớn các sĩ quan chỉ huy họ đã bị loại khỏi vòng chiến.
    Grauwin trở lại với các dụng cụ giải phẫu, bước qua những xác thương binh người ta đẩy đến bàn mổ, bỗng nghe tiếng nức nở, người nữ hộ tá bị mắc kẹt từ ba hôm nay, Geneviève de Galard đang đứng tựa cửa hầm nấp nức nở.
    Các phòng mổ đầy thương binh và xác chết. Mùi máu tanh lợm giọng. Các y tá phải hút thuốc để cho khỏi nôn. Những xương hàm gãy những con mắt lòi, những đùi bị xé đứt, những bả vai lìa, những tiếng kêu rên đau đớn giữa lũ ruồi xanh bấu vào vết thương và dòi bò nhung nhúc khắp nơi.
    Đứng giữa cảnh bi thảm ngổn ngang này, nhà bác sĩ khỏe mạnh như không còn đủ sức lực chịu đựng được nữa. Đau khổ đã trở thành bánh ăn, nước uống. Bầu không khí nồng thối làm cho mọi người nghẹt thở. Đây không phải là chiến tranh nữa mà là con đường đưa xuống hoả ngục.
    Trong thung lũng nước mắt, đau thương và chết chóc này, Grauwin chỉ còn biết kêu cầu với Chúa, nhưng ở hoả ngục không thương xót này, Chúa có đến không? Trong lúc Điện Biên Phủ ngày đêm các sĩ quan ngủ ngồi ở lỗ hầm, bên cạnh những xác chết binh sĩ chất đống, mùi thối xông ra ghê gớm, và dòi, lằn, ruồi xanh sinh nở khắp các chiến hào đầy phân, nước tiểu, những mảnh thịt người mổ xẻ bỏ đi… tại Hà Nội cuộc xung đột ngấm ngấm giữa hai tướng Navarre và Cogny bùng nổ.
    Những tin tức từ lòng chảo Điện Biên Phủ đưa về đặt các Bộ tham mưu trước một thực trạng bi thảm. Tai hoạ gây nên cần phải có kẻ chịu trách nhiệm.
    Chiều hôm ấy, vào lúc bốn giờ hơn tại biệt thự của Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở cạnh Hồ Tây đang chìm đắm dưới mưa phùn. Cogny đến gặp Navarre ở văn phòng.
    Tướng Navarre gượng cười mở đầu:
    - Chúng ta đã viết cho nhau nhiều điều khó chịu rồi. Bây giờ phải bình tĩnh mà tranh luận.
    Sự tức giận dồn ép bấy lâu ở tướng Cogny, tư lệnh chiến trường Bắc Việt như gặp dịp bùng lên:
    - Tôi không muốn làm việc dưới quyền ông nữa, tuỳ ý ông quyết định cất chức tôi ngay cũng được. Ông là Tổng tư lệnh trận đánh, Điện Biên Phủ mở ra do ý muốn của ông. Thế mà ông bảo tôi phản ông bằng cách tố cáo những lỗi lầm của trận đánh này với các nhân vật cao cấp sang đây. Thậm chí lại để cho vợ ông mang bức thơ ông viết về tôi để khoe với mọi người trong một khách thính ở Ba Lê, là: "Thằng khốn kiếp Cogny phản tôi luôn luôn…". Có bà tướng Catroux làm chứng việc ấy.
    Cogny nói như hét lên:
    - Nếu ông không phải là đại tướng bốn sao thì tôi cho bàn tay này vào mặt ông rồi.
    Tướng Navarre tái mặt. Phòng bên cạnh người nữ thơ ký nghe tiếng cãi lẩy ồn ào, song không còn có ai ngoài hai vị tướng lãnh.
    Cogny trở lại bình tĩnh. Navarre nói:
    - Tôi yêu cầu ông giữ kín việc này giữa hai chúng ta.
    - Tôi cho đó là một bổn phận của tôi.
    Cogny trả lời rồi khép chân lại chào.
    Chiếc máy bay bốn động cơ riêng của Bảo Đại chở đội chó boxer từ Đà Lạt về Sài Gòn để theo Quốc trưởng đi Pháp.
    Lệ muốn tiễn đưa nhắn gởi thêm về việc anh chồng nàng song lại ngần ngại vì Nhu có vẻ không ưa, và từ hôm nghe tin Bảo Đại về Sài Gòn, thỉnh thoảng chàng nhìn Lệ một cách khó hiểu, hỏi nàng đi đâu mỗi khi thấy vợ ra ngoài.
    Sáng hôm ấy, Lệ đang trang điểm, Nhu đưa cho nàng xấp điện văn báo chí ngoại quốc của một người bạn thường ngày cung cấp cho Nhu biết rõ tình hình, Lệ đọc phần Nhu đã gạch bút chì đỏ một bên của đặc phái viên tờ PARIS SOIR.
    "Sài Gòn 10 tháng tư 1954.
    Hoàng đế Bảo Đại lên đường đi Pháp để chứng tỏ ngài là hiện thân của tất cả lực lượng trong nước.
    Người ta có cười được tấn hài kịch chính trị dẫn dắt đến thảm kịch chết chóc không? Chỉ có Cao uỷ Pháp, chính phủ và một tham mưu của hoàng thượng mới biểu lộ hay làm ra vẻ biểu lộ sự kính trọng đối với Bảo Đại.
    Từ ngày có tin hội nghị Genève sắp nhóm, quân đội Bảo Đại bước vào tình trạng tan rã. Những lệnh gọi nhập ngũ không được thi hành. Chỉ có mặt những thanh niên không trốn thoát hoặc những sinh viên chắc chắn thành sĩ quan, hy vọng được địa vị tốt.
    Trong 94.000 lệnh gọi nhập ngũ năm nay, chỉ có 5.400 người trình diện. Để lấp vào chỗ trống, người ta mở cuộc ruồng bắt ở thôn quê và trong thành phố, chở những thanh niên lượm được đến các trại huấn luyện. Nội đầu tháng tư 1954, đã có 3.848 kẻ đã đào ngũ trong quân đội Bảo Đại.
    Trong các cuộc chiến đấu, tỉ số binh sĩ mất tích gấp năm lần số chết và bị thương, trong khi ở hàng ngũ quân đội viễn chinh, có đến 63.000 người Việt Nam, số đó chỉ có 10 phần trăm. Sáu tháng sau khi thành lập các tiểu đoàn khinh binh, một phấn tư quân số đã tan biến. Binh sĩ của quân đội Bảo Đại đi chết cho ai?
    Các tướng của Bảo Đại đi xe hơi Hoa Kỳ và mở tiệc tùng không màng đến số phận của xứ sở họ đang lâm nguy. Họ oán ghét Cộng sản bởi sợ mất những quyền lợi đang được hưởng thụ: bơ sữa, gái, tiền bạc.
    Một bộ trưởng duy nhất không có tiền chuyển ngân gởi ở ngân hàng ngoại quốc đã thú thật với một số sĩ quan cao cấp Pháp: "Tôi chán sống lương thiện lắm rồi".
    Ừ, ngoài ra những Cao uỷ Pháp và những bộ trưởng chính phủ theo đuổi bơ sữa, chuyển ngân, có ai dám tin rằng người ta có thể xả thân cho hoàng đế Bảo Đại?".
    Lệ đọc xong, thấy chồng còn ngồi nhìn mình, như đang dò xem phản ứng, liền nói:
    - Anh chàng phóng viên này chắc không được hối lộ nên mới gắt gao như vậy.
    - Em cho là những nhận xét ấy không đúng à?
    - Em không đồng ý về việc phê bình ông Bảo Đại. Thử hỏi nếu ở vào địa vị của ông ta, thì có thể làm gì được hơn, vì tất cả đều do người Pháp nắm giữ hết. Tất cả lỗi lầm đều là tại Pháp?
    Trong lúc ấy, tại Hoa Thịnh Đốn, ngoại trưởng Dulles nhất quyết chủ trương "hoà bình bằng võ lực" đưa ra kế hoạch liên hợp Pháp, Mỹ, Anh, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan và Phi Luật Tân để hành động chống lại bước tiến của Cộng sản tại Đông Nam Á. Trước Uỷ ban ngoại giao Hạ nghị viện bàn về chương trình ngoại viện, ông Dulles lên tiếng về vấn đề Đông Dương:
    - Trước hội nghị Genève, Cộng sản đang nỗ lực để đánh tan tinh thần chiến đấu của Pháp và các nước Đồng Minh, thế giới tự do phải tỏ ra đoàn kết và chú trọng đến quyền lợi sinh tử ở vùng này. Nước Pháp và các quốc gia liên kết đừng nghĩ rằng họ cô độc trong giờ phút quyết định này. Mưu toan Cộng sản sẽ vấp phải một quyết định chung, và nếu cần đến một hành động chung.
    Để lôi cuốn Quốc hội cho phép can thiệp trực tiếp vào Đông Dương, ông Dulles nhấn mạnh ràng sự tham gia của Trung Cộng ở Điện Biên Phủ "giống ghê gớm" một sự can thiệp trực tiệp vào chiến cuộc sự có mặt của đại tướng Ly Chen Hoa ở Tổng hành dinh của Giáp gần Điện Biên Phủ, với một nhóm hai chục cố vấn chuyên môn, nhân viên Trung Cộng thiết lập và sử dụng hệ thống điện thoại của Việt Minh, những súng cao xạ 37 ly có ra-đa của Việt Minh đều do Trung Cộng điều khiển, 1000 cam nhông của Việt Minh trong vùng đều do tài xế Trung Cộng lái v.v…
    Rồi ông Dulles kết luận: "Những phản ứng của Mỹ trước sự can thiệp của Trung Cộng ở Đông Dương sẽ không chỉ giới hạn ở vùng này mà thôi".
    Lời cảnh cáo hứa hẹn đưa đến một cuộc chiến tranh rộng lớn đã gây nên nhiều nỗi lo âu ở Pháp và Anh, bộc lộ qua báo chí. Hội đồng chiến tranh Pháp họp ngay cứu xét đề nghị thiết lập nhóm phòng thủ Đông Nam Á của ông Dulles, và Ba Lê quyết định từ chối, trong bộ Tổng tham mưu Pháp ở Sài Gòn lên tiếng đính chính là Điện Biên Phủ không nhận thấy có một cố vấn quân sự, một chuyên viên, một thương binh, một tử sĩ, một tù binh nào là người Trung Cộng.
    Bảo Đại đặt chân xuống Ba Lê vào lúc ngoại trưởng Mỹ Dulles có mặt tại thủ đô Pháp để bàn tính cùng hai ngoại trưởng Bidault và Eden về chiến thuật đối phó với hội nghị Genève sắp khai mạc.
    Ngô Đình Diệm xin gặp Foster Dulles, được xác nhận lời hứa của Mỹ ủng hộ: Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, Donald Heath, đã được chỉ thị sang dự hội nghị Genève, sẽ gặp riêng Bảo Đại để vận động trao chức thủ tướng cho Diệm.
    Tin này được truyền miệng trong giới người ủng hộ họ Ngô với hy vọng được đền bù sự cộng tác vận động bằng một địa vị xứng đáng trong chính phủ nay mai.
    Tại Sài Gòn, vợ chồng Lệ cùng người anh Giám mục được tin do người thân tín từ Ba Lê về, càng xúc tiến việc tuyên truyền và vận động trong các giới, hứa hẹn để lôi cuốn các phần tử ủng hộ "Ngô chí sĩ về nước".
    Vài nhà giàu có con đang học ở Pháp, bỏ tiền ra cho vợ chồng Lệ mượn để hoạt động với hy vọng sẽ được họ Ngô trả ơn bằng chức giám đốc, bộ trưởng cho con cháu.
    Ngôi nhà nhỏ của Lệ ở đường Ypres bỗng trở nên chật chội vì khách khứa lui tới, từ ngày có tin loan truyền bán chính thức là "chí sĩ Ngô Đình Diệm" sắp về làm thủ tướng.
    Lệ đột nhiên thấy mình trở nên quan trọng, được nhiều người ngọt ngào chào đón, và nhất là tiêu xài tiền bạc không phải dè dặt tính toán nữa.
    Nước hoa, phấn son được nhiều bà đem biếu, số áo dài của Lệ mỗi ngày một tăng thêm, treo đầy cả tủ kính. Thuộc hạ trung thành, Cao Xuân Vỹ, càng tỏ ra đắc lực trong công cuộc tuyên truyền miệng cho "chí sĩ họ Ngô" đưa về một chiếc xe hơi bóng lộn của một bác sĩ "đồng chí ủng hộ Ngô chí sĩ" cho Lệ mượn đi hoạt động.
    Huế, Sài Gòn, Vĩnh Long… ba anh em họ Ngô ở ba tỉnh này được một số người đánh hơi thời cuộc xúm lại bàn tán, hội họp, vỗ ngực tình nguyện: "tranh đấu ủng hộ chí sĩ Ngô Đình Diệm" về nước cầm quyền.
    Lệ giao du càng rộng, từ ngày nàng học lái xe hơi, từ sáng đến khuya bận rộn hẹn hò, gặp gỡ, giao thiệp với các sĩ quan cao cấp trẻ tuổi mà nàng bảo là đã lôi cuốn được họ, mang quân đội quốc gia làm hậu thuẫn cho "Ngô chí sĩ".
    Mỗi khi thấy vợ trang điểm lộng lẫy, một mình lái xe hơi đi, Nhu có hỏi thì Lệ cười rất tươi trả lời:
    - Em đi giao thiệp vận động cho anh Thượng. Điểm chính yếu trong kế hoạch của Nhu là gây ảnh hưởng với các cấp chỉ huy quân đội Bảo Đại. Lệ đã tỏ ra đắc lực, làm quen với tướng Nguyễn Văn Hinh, tham mưu trưởng đại tá Đôn, chỉ huy một binh đoàn trấn giữ Sài Gòn. Tài ngoại giao khôn khéo của Lệ có thể tạo nên một lực lượng đáng kể sẵn sàng hưởng ứng với chính quyền họ Ngô.
    Lệ đã thu hút các tướng tá bằng cách nào, Nhu cũng không dè, tưởng là tiếng tăm của "Ngô chí sĩ" đã lôi cuốn được cảm tình ủng hộ.
    Trong những ngày hoạt động đầu tiên, Lệ cũng không ngờ nàng đã đóng góp một vai trò đắc lực, mang thân xác ra để gầy dựng uy thế chính quyền họ Ngô.
    Giữa lúc Lệ đắm mình trong các cuộc ái ân ngoại giao, vận động, thì Nhu nằm bên bàn đèn thiết lập kế hoạch để sửa soạn cho ngày anh trở về cầm quyền.
    Trong thời gian đó, những tin tức dồn dập từ Sài Gòn đưa qua Ba Lê báo động rằng pháo đài Điện Biên Phủ đang ở trong một tình trạng tuyệt vọng. Ông Foster Dulles ghé lại Ba Lê trên đường đi phó hội Genève gặp ngoại trưởng Pháp Bidault trao cho xem một bản thông điệp của tướng Navarre, nói rằng nếu không phát động chiến dịch Kền Kền ngay thì Điện Biên Phủ không còn chống giữ được nữa, trung châu Bắc Việt cũng mất theo ngày Genève nhóm.
    Tình hình nguy ngập như vậy bắt buộc Pháp phải tìm đủ mọi cách gấp rút để ngừng chiến. Tuy nhiên, mọi việc còn có thể cứu vãn được nếu chính phủ Mỹ quyết định cho máy bay B29 đang ở Phi Luật Tân can thiệp vào.
    Trong bữa tiệc tối thứ bảy 24 tháng tư 1954 hôm ấy do Bộ Ngoại giao Pháp đãi, ông Dulles mời riêng ngoại trưởng Anh sang phòng bên, cho hay:
    - Chúng tôi đã sẵn sàng can thiệp bằng quân sự ở Đông Dương vào giữa tuần tới, lục quân Mỹ sẽ đổ bộ lên để quốc tế hoá cuộc chiến tranh tại Đông Nam Á. Hai hàng không mẫu hạm Boxes và Essex của Đệ thất hạm đội đã chực sẵn ở vịnh Bắc Việt, Pháp đã yêu cầu, chúng tôi chỉ còn đợi sự đồng ý của Anh là bắt đầu chiến dịch Kền Kền…
    Nghe tiếng chiến dịch Kền Kền, ông Eden hoảng hốt nghĩ ngay đến bom nguyên tử và chiến tranh thứ ba, với tất cả những hậu quả tai hại cho quyền lợi còn lại của Anh ở Đông Nam Á, vội nài nỉ:
    - Khoan đã, xin ông chớ ra lệnh hành động gì hết, trước khi có sự thoả thuận của chúng tôi.
    Rồi ngay đêm ấy ông Eden vội vã bay về Luân Đôn. Nội các Anh họp phiên bất thường vào sáng chủ nhật hôm sau với sự có mặt của các tướng lãnh tham mưu.
    Ngoại trưởng Anh ghi lại trong hồi ký về ngày lịch sử "trên bờ vực thẳm" chiến tranh thứ ba:
    "Điện Biên Phủ không còn có thể cứu được nữa. Hôm qua đô đốc Radford đã nói như thế với tôi trước mặt ngoại trưởng Dulles. Các nhà chuyên môn quân sự Anh cũng không tin là cuộc oanh tạc có hiệu quả vì địa thế chiến trường trắc trở, mà dội bom xuống hậu cứ Việt Minh lại càng không kết quả nữa. Chiến dịch Kền Kền mang lại hậu quả đầu tiên là phá cuộc ngưng chiến ở Đông Dương, và chỉ làm cho chiến tranh lan rộng, Pháp và Mỹ trong lúc này lại không sẵn sàng để thắng được. Trong những điều kiện đó, chính sách thiết thực duy nhất là tìm kiếm ngay ở Genève một thoả hiệp ngừng chiến".
    Bữa chiều, Eden đáp máy bay đi Genève.
    Hôm sau, đại sứ Pháp Massigli được chỉ thị của Thủ tướng Laniel, vận động một lần cuối cùng với Thủ tướng Churchill: Mỹ đã sẵn sàng can thiệp cứu Điện Biên Phủ và chỉ còn đợi Anh đồng ý.
    Lão chính khách miệng không rời điếu xì gà ngắt ngang câu chuyện: ông không muốn biết đến khía cạnh quân sự của vấn đề.
    Rồi liền sau đó, Churchill đi thẳng đến Hạ nghị viện đang xôn xao vì những cuộc vận động tới tấp của các yếu nhân Pháp và Mỹ liền mấy hôm nay:
    - Chính phủ hoàng gia không sẵn sàng cam kết bất cứ một điều gì trong vấn đề hoạt động quân sự ở Đông Dương trước khi biết những kết quả của hội nghị Genève.
    Tại Ba Lê, Ngô Đình Diệm mua ấn bản giờ chót của nhựt báo France Soir, đọc bức điện tín của phái viên ở Luân Đôn nói về sự từ chối của Anh không chịu tán thành đề nghị liệng bom A xuống Điện Biên Phủ, bực tức nói với Nguyễn Bửu Lộc, anh vợ Nhu:
    - Thằng Anh sợ mất thị trường Trung Cộng mà nó đã nhìn nhận năm 1950 cùng sợ mất lòng Ấn Độ nên mới phản lại Đồng Minh như vậy.
    Cùng hôm ấy, toàn thể đường bay Điện Biên Phủ mất hẳn. Ba trung đoàn Việt Minh chiến đấu trong một tháng trường nay đã chiếm nốt ba điểm tựa còn lại ở lòng chảo.
    Trước đó mấy hôm, tướng Cogny nói chuyện bằng vô tuyến với đại tá Castries báo tin cho vị tư lệnh Điện Biên Phủ được vinh thăng chức tướng.
    - Tôi gởi cho ông hai sao và rượu uống mừng. Cả thế giới đang nhìn về ông. 52 ký giả quốc tế hiện ở Hà Nội để theo dõi ông.
    Binh sĩ được lệnh lục lọi tất cả những đồ thả dù xuống trong các vị trí song không tìm thấy hai sao tướng ở đâu, nghĩ là đã theo với phần lớn đồ tiếp viện rơi về phía bên địch. De Castries ra lệnh giũa hai ngôi sao tại chỗ, trong một xưởng thợ máy Lê dương. Rồi trong khi nâng cấc rượu nhạt để mừng được phong tướng, De Castries nghe đài Việt Minh phát thanh là vừa nhận được các hộp đựng Bắc đẩu bội tinh mế đay, huy chương, sao, với những chai rượu cô nhắc.
    Điệp khúc đĩa hát "Du Kích" tiếng Pháp lại văng vẳng lên với nhịp hoà ca của quân sĩ Việt Minh hát theo.
    Bạn ơi có nghe tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen.
    Trên đồng bằng.
    Bạn ơi có nghe tếng kêu âm thầm của xứ sở.
    Bị xiềng xích…(4)
    Điệu hát ngày đêm chập chờn trên thung lũng sặc mùi chết chóc và chiến bại. Người ta không còn đủ sức chôn lấp những xác chết mà xô đẩy ra ngoài chiến hào, đùn xuống những hố đạn cho rửa thối. Mùi thối ghê gớm của bao nhiêu thây ma sình nát bốc lên theo ngọn gió Lào phừng phực như lửa len lỏi toả ra khắp nơi.
    Những đại uý, trung uý của đoàn quân viễn chinh phải bó gối ngủ ngồi trong hầm từ hơn nửa tháng nay, ngày đêm bị ám ảnh bởi những tiếng cuốc xẻng đào đất của đối phương đang bao vây tiến sát chung quanh. Trong những trạm giải phẫu và cứu tế tiểu đoàn, các y sĩ không còn đủ sức giết những con dòi bọ nhung nhúc khắp mọi chỗ.
    Cho đến trong giấc ngủ hốt hoảng họ cũng thấy những đoàn dòi bò khấp vách, khắp giường bệnh và băng ca, bu đầy lên vết thương của quân sĩ nằm đơ như đã chết rồi.
    Trước ngày 12 tháng ba 1953, khi chưa giao chiến, quân số có gần 11.000 người, sau đó thả dù thêm bốn tiểu đoàn, và mỗi ngày thêm một trăm binh sĩ nhảy dù xuống nữa để lấp những lỗ trống.
    Song giờ đây mới có một tháng mấy ngày giao tranh, còn được bao nhiêu người đủ sức đương cự? Trung tá nhảy dù Langlais kiểm điểm lại quân số mà rùng mình, nhìn thấy trong tất cả những chiến hào đưa đến bệnh viện, những toán quân thảm hại giẫm lên xác những bạn đồng đội khuất nửa người ở dưới bùn lầy, những kẻ bị thương không lên được nữa, không một ai còn có thể trông nom đến, đành xem như là bỏ đi, đành vùi xác chưa chết ở trong bùn lẫn nước tiểu, phân, thây ma. Lòng gã sĩ quan nhảy dù đã từng chinh chiến ngang dọc trên nhiều chiến trường, vừa được vinh thăng đại tá, bỗng nổi lên căm hận lạ lùng; muốn gào thét lên nỗi nhục nhã tột độ của đạo quân viễn chinh:
    - Vinh quang của Điện Biên Phủ mà báo chí thế giới tự do không ngớt lời ca ngợi, vinh quang chiến đấu trên vũng lầy thối tha đầm máu nhất ở Á Đông, nhân danh Tây phương và nhân danh tình yêu các thiếu nữ xinh đẹp đã đưa tên đặt cho các vị trí không còn nữa.
    Đại tá Langlais đến xưng tội với linh mục Heinrich:
    - Chúng ta đang đi đến thảm hoạ.
    - Phải nhận lấy điều đó để đền bù lại những tội lỗi của chúng.
    - Không phải thế? Con không yêu cầu cha an ủi theo lối đó. Cha hãy bảo là con lầm, chúng ta còn có hy vọng. Cần đến, cha hãy xin một phép lạ.
    Gần đây, cha tuyên uý Trinquard lo cho những toán quân đến xin giải tội và chịu lễ sát bên bệnh viện, đứng ở dưới hầm làm dấu thánh giá, kêu lên: không phải chiến thắng đang đến, mà là cái chết!
    Tại hầm bộ chỉ huy, tướng Castries nói qua vô tuyến điện với vợ: "Em đừng lo. Anh đã từng bị bắt làm tù binh rồi. Anh sẽ có cách xoay xở…".
    Ở Sài Gòn và Hà Nội, đại tướng Tổng tư lệnh Henri Navarre và tướng chỉ huy Bắc Việt René Cogny vẫn tiếp tục trao đổi điện tín đổ trách nhiệm cho nhau về chiến trường Điện Biên Phủ và tự hỏi Điện Biên Phủ còn chống giữ được bao lâu nữa trong khi chờ đợi các phi đoàn B29 mang bom A đến giải cứu. Phép lạ mà đại tá nhảy dù Langlais ở Điện Biên Phủ mong mỏi cũng giống như điều mà hai vị thượng tướng chỉ huy dàn quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương đang ngong ngóng đã không bao giờ đến.
    Tướng Partridge, chỉ huy không quân Mỹ ở Viễn Đông và tướng Calsera ở phòng Hành quân Bộ tham mưu không quân Mỹ với những phi dội B29 chở mỗi chiếc 8 tấn bom đã sẵn sàng cất cánh từ phi trường Clark (Manilla) bay thẳng đến Điện Biên Phủ nhưng không bao giờ có lệnh khởi hành.
    Con Kền Kền mang bom nguyên tử đã bị Thủ tướng Churchill nhốt vào lồng ở Luân Đôn. Ở Hoa Thịnh Đốn, Tổng thống Eisenhower chấm dứt thẳng chiến dịch nguy hiểm này bằng một lời tuyên bố rõ rệt trước Hội đồng an ninh:
    - Chính phủ Mỹ đợi xem kết quả hội nghị Genève ra sao trước khi có sáng kiến mới giúp Pháp ở Đông Dương. Mỹ không muốn làm hư những cơ hội có thể đưa đến một thoả hiệp chấp nhận được tại Genève.
    Lời tuyên bố của Thủ tướng Anh và Tổng thống Mỹ như một hồi chuông báo tử pháo đài Điện Biên Phủ giữa lúc những trận mưa rào tràn ngập cả chiến hào, đoàn quân viễn chinh ẩn núp trong nước bùn ngập tới đầu gối.
    Bộ chỉ huy Pháp hoang mang, tính chuyện rút binh sĩ khỏi châu thổ Bắc Việt trước khi bị đối phương bám sát để tiêu diệt. Các báo xuất bản tại Hà Nội đăng tít lớn, lời Bảo Đại phản đối dự định rút khỏi Bắc Việt của quân đội viễn chinh và tố cáo nước Pháp phản bội, trong khi Cao uỷ Pháp vẫn một mực cả quyết không bao giờ có vấn đề đó.
    Đúng là một nghệ thuật dối gạt đến cực điểm.
    Tại Ba Lê, bản tuyên bố chung Pháp - Việt được đưa ra. Pháp và Việt Nam (chính phủ bù nhìn) khẳng định sự thoả thuận giải quyết những liên lạc giữa hai nước trên căn bản hai hiệp ước cơ sở.
    Hiệp ước thứ nhất nhìn nhận nền độc lập hoàn toàn và chủ quyền trọn vẹn của Việt Nam. Hiệp ước thứ hai thiết lập một sự thân hữu Pháp - Việt trong Liên hiệp Pháp, căn cứ trên sự bình đẳng và nhằm phát triển sự hợp tác giữa hai nước. Trong khi bản hiệp ước này chưa được ký kết, vào ngày hôm ấy, 29 tháng tư 1954, bên bờ hồ Leman, hội nghị Genève bắt đầu họp, khởi bàn về vấn đề Triều Tiên.
    Trước những tin tức hậu trường chính trị quốc tế, bàn tính chia cắt Việt Nam theo kế hoạch của Anh, văn phòng Bảo Đại ở Ba Lê đưa ra một bản thông cáo cho hay rằng trong lúc này chính phủ Việt Nam quyết định không ký kết hai hiệp ước Pháp thừa nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập và Việt Nam gia nhập Liên hiệp Pháp, vì không nhận được những lời cam kết cụ thể đảm bảo cho sự thống nhất và độc lập của Việt Nam. Đồng thời tố cáo những kế hoạch nhằm chia cắt Việt Nam, và cuộc thương thuyết sắp tới giữa Pháp với những kẻ nghịch lại quốc gia Việt Nam hay với các cường quốc thù ghét Việt Nam, bỏ rơi hoặc hy sinh các quốc gia liên kết cùng Pháp, trái với nguyên tắc của Liên hiệp Pháp.
    Còn đối với Hội nghị Genève, bản thông cáo khẳng định rằng:
    "Quốc trưởng cũng như chính phủ Việt Nam sẽ không nhìn nhận bị ràng buộc bởi những quyết định đi ngược với nền độc lập và thống nhất của xứ sở".
    Ông Bộ trưởng quốc gia liên kết Jacquet đến Cannes mở cuộc vận động riêng; Bảo Đại vẫn tỏ vẻ ỡm ở không cho biết là có nhận lời tham dự hội nghị Genève không.
    Qua những cuộc nói chuyện bằng điện thoại, nhẫn nại, bực tức chờ đợi, một hôm sau ngày hội nghị Genève, ông Bidault vội phái Đổng lý văn phòng Pierre Falaise đi Cannes, yêu cầu Bảo Đại cử ngay một phái đoàn và trả lời về sự thừa nhận Việt Minh ở hội nghị.
    Đại sứ Mỹ ở Việt Nam, ông Donald Heath, có mặt bên cạnh Bảo Đại lên tiếng đề nghị ủng hộ của Pháp.
    Sau một hồi nhũng nhẵng, Bảo Đại đặt điều kiện:
    - Việt Nam sẽ đi Genève để thảo luận về Việt Minh tham dự hội nghị nếu có giấy mời của ba cường quốc Tây phương, mà phái đoàn Việt Nam muốn có một cuộc hội kiến trước.
    Thì giờ gấp rút, ông Bidault giục giã nhưng Bảo Đại vẫn làm ngơ nhắc lại:
    - Trong khi chưa nhận được thư mời của Pháp, Anh, Mỹ không có một người của quốc gia đến Genève.
    Lời yêu cấu được chấp thuận, Trưởng phái đoàn Nguyễn Quốc Định qua Thuỵ Sĩ ngày mùng 10 tháng năm, và sau đó hội họp riêng với ba ngoại trưởng Pháp - Mỹ - Anh.
    Ông Bidault tin là hội nghị Genève có thể nhóm liền, trước cuối tuần, bỗng nhận được lời yêu cầu "làm sáng tỏ" và "đảm bảo" sự thống nhất Việt Nam của Bảo Đại, nghi ngờ Pháp đang hướng tới giải pháp chia cắt. Sốt ruột về tình hình hấp hối ở Điện Biên Phủ cần sớm họp để nói chuyện với Việt Minh về vấn đề những binh sĩ bị thương đang mắc kẹt, ngoại trưởng Bidault đành phải nhận lời viết thư cho Bảo Đại, cam kết: "Chính phủ Pháp sẽ thường xuyên hội ý với chính phủ Việt Nam ở Genève. Hiện thời Pháp không tính tìm kiếm tại đây một sự giải quyết chính trị vĩnh viễn, nhiệm vụ của chúng tôi, như bản thông cáo của hội nghị Bá Linh đã tiên liệu là thiết lập hoà bình ở Đông Dương.
    "Mục đích của chúng tôi nhằm đạt đến một sự ngưng bắn trong khuôn khổ một cuộc đình chiến mang lại những đảm bảo cần thiết cho ba quốc gia ở Đông Dương, nước Pháp và các cường quốc Đồng Minh mà quyền lợi chung đều gần bó với nhau ở Đông Nam Á. Cuộc đình chiến này không được tiên liệu sự giải quyết vĩnh viễn có thể sẽ đề cập đến sau này, khi đã có đủ những điều kiện hoà bình và tự do để tổ chức tổng tuyển cử.
    "Ngay từ bây giờ, tôi có thể xác nhận với Hoàng thượng rằng không có gì trái ngược hơn với ý định của chính phủ Pháp là chuẩn bị thiết lập hai quốc gia có tính cách quốc tế, bất chấp sự thống nhất của Việt Nam…"
    Giữa lúc không khí sôi nổi chung quanh hội nghị Genève về Đông Dương sắp mở màn, ở Điện Biên Phủ, những trận mưa đầu mùa xối xả ngày đêm biến bãi chiến trường này thành mót lòng chảo bùn, và các trận tấn công cuối cùng của Việt Minh diễn ra sau những cơn vũ bão sắt và lửa, cả trọng pháo những ngừng tưới xuống mấy cứ điểm còn lại. Những lời kêu cứu rộn ràng của lực lượng Pháp vang lên trên những đường điện thoại giữa bộ chỉ huy và các điểm tựa, trong khi ở phía Việt Minh những tiếng reo hò ca hát thắng trận vang dội.
    Mặt lòng chảo rung chuyển dội tung lên vì cả ngàn tấn chất nổ của mìn Việt Minh công phá vị trí cuối cùng. Tất cả binh sĩ đoàn binh viễn chinh đang ở trong tình trạng hoảng sợ tuyệt vọng giữa những tiếng cuốc xẻng đào đất của Việt Minh ngày đêm siết gần, thắt chặt vòng váy. Bỗng họ dậy lên hy vọng khi nghe những tiếng đạn réo kéo dài một cách khác thường.
    Hy vọng đột nhiên hoà lẫn với kinh hoàng khi họ thấy những loạt đạn đầu tiên rơi về phía vị trí mình. Có những tiếng mừng rỡ kêu lên: "Quân Crèvecoeur!"
    Trên vẻ mặt phờ phạc thất sắc, tuyệt vọng của những binh sĩ trong hầm bùn lầy ngập tới đầu gối, bỗng lóe lên tia sáng vui mừng, mọi người đều như nín thở chỉ chực reo hò lên. Họ tin là dàn quân tiếp viện của đại tá Crèvecoeur liên lạc vô tuyến điện với pháo đài từ nhiều ngày nay, từ phía thượng Lào tiến tới giải vây, đã từ núi rừng xuất hiện đổ xuống thung lũng với những tiếng súng mở đường kinh dị hét vang lên khủng khiếp. Quân sĩ Pháp không biết nên kêu thét lên hay oà khóc vì sung sướng. Nhiều người chui ra khỏi miệng hầm, những kẻ hăng hái vượt chạy đi đón đoàn quân cứu viện bị mưa đạn réo lên quật ngã, cày nát những ổ cầm cự cuối cùng.
    Không phải đoàn quân Crèvecoeur phép lạ của mọi người mong đợi mà là những "phong cầm Staline". Việt Minh lần đầu tiên sử dụng thứ trọng pháo gồm mười ống khạc phi đạn mang tên nhịp nhàng của nhạc khí để bắn phá cứ điểm trung ương và dọn đường cho cuộc tấn công cuối cùng.
    Những cứ điểm mang tên thiếu nữ Gabrielle, Anne Marie, Béatrice, Dominique, Huguetle, Françoise, Claudine đã lần lượt lọt vào tay Việt Minh. Đến lượt Eliane, cứ điểm cuối cùng sau bản hoà tấu lửa đạn của cây phong cầm tuôn ra những âm thanh phi đạn, những đám người ẩn núp trong rừng núi chung quanh, từng lớp trùng trùng điệp điệp, đông như đoàn kiến xanh, như lá cây rừng, như nước lũ đổ xuống tràn ngập khắp ngọn đồi Eliane, trong tiếng hò reo chiến thắng rung chuyển cả lòng chảo lầy lội, nồng thối mùi thây ma, xác chết vắt ngang rào kẽm gai tràn ngập các chiến hào, chồng chất thành gò đống.
    Những mảnh vải trắng cắm vào đầu sậy nổi lên khắp mọi phía, giữa vài tiếng súng nổ lẻ loi cầm cự vào giờ chót. Một lá cờ trắng to lớn kéo lên phấp phới trên hầm Bộ chỉ huy De Castries trong ánh chiều đang phủ xuống thung lũng Điện Biên Phủ.
    - Giơ tay lên?
    - Chúng đến rồi!
    Những âm thanh bất ngờ vang lên giữa chiến trường bắt đầu im tiếng súng.
    Vào lúc 17 giờ 15, tại Bộ chỉ huy, tướng De Castries liên lạc vô tuyến điện với tướng Cogny tư lệnh Bắc Việt lần cuối cùng:
    - Giờ phút chót đang tới gần rồi. Chúng tôi chiến đấu đến cùng. Chúng tôi sẽ phá huỷ đại bác và vô tuyến điện. Xin chào trung tướng.
    Tiếng Cogny ở đầu dây sôi nổi:
    - A lô! A lô! Castries? A lô? Castries?
    - Trung tướng nói gì?
    - Này ông bạn ạ, phải chấm dứt lúc này, chắc hẳn như thế rồi.
    - Nhưng, có điều chắc chắn là tất cả những gì ông bạn đã làm cho đến giờ đây đều tuyệt cả. Đừng có làm hỏng hết bằng cách kéo cờ trắng lên. Bị đối phương tràn ngập, nhưng không có đầu hàng, không có kéo cờ trắng.
    Castries ngập ngừng một lúc, trả lời bằng giọng thảm hại:
    - Thưa trung tướng, thế à, vâng. Song, tôi muốn giữ cho những thương binh.
    Chiếc cờ trắng to tướng đã kéo lên rồi, trong lúc các vị chỉ huy đang chờ đợi đối phương đến dẫn đi.
    De Castries thay áo sơ mi, quần dài, mang một dãy huy chương trước ngực, không đeo khí giới đứng trong hầm Bộ chỉ huy, miệng ngậm thuốc lá, đầu đội ca-lô đỏ, đợi chờ. Khi thấy binh sĩ Việt Minh đẩy cửa hầm vào, súng tiểu liên chĩa thẳng vào ngực mình, vị tướng tư lệnh Điện Biên Phủ kêu lên: "Xin đừng bắn tôi", rồi ngoan ngoãn đi theo kẻ chiến thắng ra xe Jeep đưa đến phòng quân báo đối phương.
    Vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ sáu mồng 8 tháng năm năm 1954, trong khi bóng tối phủ dần xuống lòng chảo Điện Biên Phủ, tất cả mọi tiếng súng cầm cự đều ngưng bắn. Một không khí im lặng khác thường bao trùm khắp nơi chỉ còn nghe tiếng kêu rên của những kẻ bị thương trong bóng tối, lập lòe trong ngọn đuốc.
    Trên trời, vài chiếc máy bay đảo lộn quanh vùng, chực thả hoả châu hay bom xuống lòng chảo vì chưa hay tin pháo đài Điện Biên Phủ đã đầu hàng.
    Qua đêm đầu tiên được yên lành thở khí trời, mười ngàn binh sĩ sống sót, sau 57 ngày đêm ở Điện Biên Phủ nhìn thấy ánh sáng hồng đầu ngọn núi chung quanh mình, không còn nghe tiếng súng nữa. Tại Ba Lê, do thì giờ cách biệt, vào lúc gần 17 giờ, Thủ tướng Laniel lên diễn dàn Quốc hội, cố giữ giọng bình tĩnh, loan tin: Điện Biên Phủ đã thất thủ.
    Nỗi kinh hoàng chiến bại đè nặng lên thủ đô nước Pháp. Những điện tín từ Sài Gòn gởi đến tới tấp. Nhựt báo France Soir ra một án bản đặc biệt, kéo dài tin kinh động trên 8 cột: "Điện Biên Phủ đã mất". Báo Le Monde loan tin chiếc phi cơ của Bảo Đại vừa thoát khỏi một tai nạn ở Côte d Azur, trách Quốc trưởng kéo dài cuộc nghỉ mát, làm chậm trễ cuộc thương thuyết chở thương binh ở Điện Biên Phủ từ mấy hôm nay.
    Sáng ngày thứ bảy, từ Sài Gòn, một hãng thông tấn đánh điện lời tuyên bố của tướng Nguyễn Văn Hinh:
    "Hồ Chí Minh và chung quanh không biết là giờ lâm nguy của họ đã điểm vì Việt Minh đã bị rất nhiều thiệt hại trong trận đánh Điện Biên Phủ, sẽ khó tránh khỏi thất bại nặng nề trong các chiến dịch thu đông sắp đến… Điện Biên Phủ đã đảo lộn thế quân bình lực lượng có lợi cho chúng ta".
    Cùng một lúc với nhật lệnh đại tướng Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Navarre chính thức báo tin pháo đài Điện Biên Phủ do tướng De Castries chỉ huy phải ngừng chiến đấu với 56 ngày giao chiến liên tiếp. Nhật báo France Soir đăng một bản tin đặc quyến của phái viên ở Hồng Kông điện về Ba Lê: "Cuộc giao chiến ở Điện Biên Phủ kéo dài từ 13 tháng 3 đến 6 tháng năm 1954, trong 56 ngày đêm, toàn bộ hệ thống phòng ngự 49 đồn và 2 sân bay trên một khu vực 12 cây số bề dài và 6 cây số bề ngang đã bị tan rã.
    Theo những tin tức đầu tiên Việt Minh đã loại ra ngoài vòng chiến 17 tiểu đoàn bộ binh và nhảy dù, 3 tiểu đoàn pháo binh và nhiều đơn vị thiết giáp, công binh, vận tải, không quân… tổng số trên 21 tiểu đoàn và trên 10 đại đội gồm trên 16.000 binh sĩ.
    Số quân ở pháo đài lúc đầu có 12 tiểu đoàn bộ binh và nhảy dù và 3 tiểu đoàn trọng pháo, được tiếp viện thêm về sau 5 tiểu đoàn nhảy dù, tăng quân số ở Điện Biên Phủ lên 21 tiểu đoàn và 10 đại đội.
    Toàn bộ tổng chỉ huy Điện Biên Phủ, ba bộ chỉ huy ba tiểu khu, ba bộ chỉ huy ba đoàn quân lưu động và những chỉ huy trưởng tất cả các tiểu đoàn đều bị bắt làm tù binh, bị thương hay bị giết.
    Thiếu tướng De Castries, tư lệnh pháo đài Điện Biên Phủ bị bắt làm tù binh.
    Số sĩ quan cao cấp Pháp bị giết hay bị bắt gồm 16 đại tá và 353 thiếu uý, trung uý, đại uý, thiếu tá, 1396 hạ sĩ quan, bị giết hay bị bắt làm tù binh. Tổng số tù binh có lối mười ngàn người Pháp, Việt, Đức Bắc Phi, Sénégalais, Thái, Miên… thuộc quân đội viễn chinh Pháp.
    Điện Biên Phủ thất thủ bao trùm Paris và Genève trong một không khí bi thảm, giữa nắng ấm mùa uấn. Trong các chính giới người ta bàng hoàng nhắc đến Waterloo, Stalingrad, lo ngại rằng thất bại lớn lao ở Điện Biên Phủ báo hiệu sự sụp đổ của đế quốc Tây phương.
    24 giờ sau, hội nghị Genève khai mạc, ngoại trưởng Pháp Georges Bidault nghẹn ngào lên tiếng đề nghị ngừng chiến ở Đông Dương.
    Trong khi ấy, ở Sài Gòn, Lệ đang ngồi ở trên đi-văng nhà riêng tướng Hinh, mở đầu cuộc thuyết phục:
    - Moa biết toa có nhiều liên lạc mật thiết với Pháp, dân Tây vợ đầm, xuất thân từ trường võ bị Pháp, và địa vị toa ngày nay cũng do sự tín nhiệm của người Pháp. Nhưng toa cũng nên hiểu, dù sao toa cũng là người Việt, trong người toa chảy một dòng máu Việt Nam… Như vậy, thật tình toa muốn phụng sự Việt Nam hay nước Pháp?
    Tướng Hinh không trả lời, lặng lẽ nâng ly rượu whisky lên uống.
    Lệ như được trớn nói tiếp:
    - Vì tình cảm với toa, nên moa mới chân thành đặt vấn đề với toa. Toa phụng sự cho Việt Nam không ai có thể buộc tội là toa phản bội nước Pháp. Moa cũng theo quốc tịch Pháp nhưng bổn phận chính đáng của moa là phải làm cho Việt Nam. Moa đề nghị toa nhận chức Bộ trưởng quốc phòng, trong chính phủ của anh Diệm sắp thành lập, toa nghĩ sao?
    Tướng Hinh đứng lên, ngồi lại gần một bên Lệ, nhìn thẳng vào mặt nàng, thong thả nói:
    - Toa muốn đóng vai bà mẹ phải không? Người như toa không nên nhúng vào việc chính trị. Toa đến với moa vì chính trị hay vì thích moa?
    Lệ mỉm cười:
    - Có lẽ cả hai. Nhưng tại sao toa lại phản đối moa bàn đến chính trị? Toa cũng đã rõ anh chồng moa cũng sắp về tổ chức chính phủ, moa đề nghị với toa giúp một tay, cũng như toa giúp moa vậy, toa từ chối hay sao?
    Tướng Hinh ậm ừ đáp:
    - Trong lúc này, chúng mình nên bàn chuyện khác hay hơn, vì moa muốn toa hơn là muốn địa vị của toa vừa nói.
    Nói rồi tướng Hinh ôm choàng lấy Lệ hôn và quật nàng lên đi-văng, mặc cho tiếng điện thoại reo trong gian phòng đã khép kín cửa.
    Vào lúc ấy tại Ba Lê, Ngô Đình Diệm vừa nghe một chính khách Việt Nam thuật lại lời bàn tán của một nhân vật ngoại giao Mỹ nói về mình, nhân việc vận động về làm thủ tướng của Diệm.
    - Ông Diệm và người anh Giám mục hồi qua Mỹ có đến Bộ Ngoại giao nói chuyện với chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy nên để ông Giám mục làm chính trị, và để ông Diệm làm Giám mục thì dúng hơn.
    Diệm nghe kể lại, giận sôi lên, song nhớ đến lời đảm bảo che chở của ngoại trưởng Dulles trong chuyến qua Ba Lê vừa rồi, Diệm lại vững lòng tin cậy, nói:
    - Nhờ ơn trên phù hộ, tôi chắc chắn sắp trở về nước chấp chính, chỉ còn đợi sự chấp thuận của Quốc trưởng nữa thôi.
    Diệm bộc lộ ý nghĩ thầm kín trước tình thế:
    - Điện Biên Phủ thất thủ đã giúp tôi rất nhiều.
    Trước sự ngạc nhiên của người đối thoại, Diệm trầm tĩnh nói:
    - Pháp thua ở Điện Biên Phủ, không còn đủ sức một mình đương đầu với Việt Minh nữa, bắt buộc phải thương thuyết ở Genève. Nhưng ở vào thế yếu, sợ đối phương bắt chẹt, Pháp cần phải nhờ đến Mỹ ủng hộ, để có một thế ngoại giao mạnh. Chính Bidault đang vận động với Mỹ nhận lời "đe doạ can thiệp vào chiến cuộc Đông Dương, nếu Việt Minh không tỏ ra biết điều". "Cho Việt Minh nghè "tiếng sấm dậy" mà không để rơi tiếng sét xuống đầu họ" như lời của Bidault nói với ông Bedell - Smith, trưởng phái đoàn Mỹ Genève. Mỹ nhận giúp Pháp với điều kiện, Pháp phải nghe theo lời khuyên của Mỹ, trong đó có việc tôi ra làm Thủ tướng. Mỹ muốn có một người cương quyết chống Cộng sản để đương đầu với tình thế Việt Nam đang suy sụp.
    Trong giới chính trị Việt ở Ba Lê và Sài Gòn, tin Ngô Đình Diệm sắp về chấp chính được loan truyền sau ngày Bidault ngỏ lời với Bảo Đại đề nghị cử họ Ngô làm Thủ tướng.
    Từ Evian trở về lâu đại vương giả Thorence ở bờ biển Cannes, Bảo Đại nghe ngoại trưởng Pháp rồi đến đại sứ Mỹ ở Việt Nam tiến cử cựu thần họ Ngô, tỏ vẻ không vui, vắn tắt đáp:
    - Để tôi xét lại đã.
    Ngỏ lời với các thuộc hạ, Bảo Đại lo ngại họ Ngô sẽ không trung thành với mình, và thắc mắc nghĩ đến vùng săn bắn lý tưởng của Hoàng triều cương thổ, những nguồn lợi thu ở các sòng bạc Kim Chung và Đại Thế giới, khu chứa gái Vườn Lài.
    Mặc dầu số lớn tiền của đã chuyển ra nước ngoài từ lâu gởi ở những ngân hàng chắc chắn, Bảo Đại cũng ngần ngại trước kẻ bề tôi mà ông đã cho là "có đôi mắt không thẳng thắn".
    Thái độ do dự của Bảo Đại trước áp lực vận động của cả Pháp lẫn Mỹ kéo dài trong mấy hôm liền, khiến họ Ngô ở Ba Lê trông ngóng tin tức hết sức sốt ruột.
    Diệm bàn tính cùng mấy người bà con cậu em út Ngô Đình Luyện, anh cột chèo của Nhu luật sư Nguyễn Hữu Châu, chú vợ Nhu, bác sĩ Trần Văn Đỗ… rồi nói thẳng với nhân vật Mỹ:
    - Quốc trưởng chúng tôi có lẽ muốn có một sự đền bù cụ thể mới chịu chấp nhận đề nghị cử tôi về làm Thủ tướng.
    Chính khách Mỹ, vốn thực dụng trong các cuộc mặc cả chính trị, gật đầu trước nhận xét hợp lý của Diệm, vội điện hỏi ý kiến Hoa Thịnh Đốn, và tức tốc về Ba Lê đi Cannes.
    Thế rồi trong khi cuộc thương thuyết kéo dài ở hội nghị Genève, tại lâu đài Quốc trưởng Việt Nam trên bờ biển Pháp, một nghi lễ long trọng cử hành trước sự hiện diện của Hoàng hậu Nam phương, nhiều nhân vật quốc gia, các chính khách Pháp, Mỹ.
    Trong bộ quốc phục, Ngô Đình Diệm đội khăn đóng, khoác áo rộng xanh, lạch bạch tiến lên trước mặt Bảo Đại và Hoàng hậu, quỳ xuống, trịnh trọng thề:
    - Trước mặt Quốc trưởng Hoàng đế và Hoàng hậu, thần xin long trọng thề hết lòng trung thành và nguyện bảo vệ ngôi báu cho Đông cung Thái tử Bảo Long, quyết một lòng một dạ tận trung báo quốc trong khi thần còn được cầm quyền Thủ tướng do Quốc trưởng uỷ thác, cấu xin ơn Trên phù hộ và chứng minh cho lời của thần.
    Diệm đứng dậy, vòng tay toan sụp lạy Bảo Đại và Nam phương thì được khoát tay miễn lễ.
    Sau buổi lễ thề nguyện trung thành với vị hoàng đế cuối cùng triều Nguyễn, Ngô Đình Diệm được chính thức uỷ nhiệm làm Thủ tướng Việt Nam.
    Giữa lúc tại hội nghị Genève, phái đoàn quốc gia của chính phủ Bửu Lộc bỗng thấy mình bơ vơ lạc loài như một đứa con vô thừa nhận, đang bị hy sinh cho ván bài quốc tế, các Đồng Minh Pháp phản bội, Anh bỏ rơi, Mỹ lạnh lùng.
    Công việc đầu tiên của Diệm là về ngay Ba Lê đánh điện về Sài Gòn cho vợ chồng Nhu hay tin, rồi cử người em út Ngô Đình Luyện làm cố vấn phái đoàn đi Genève với bác sĩ Trần Văn Đỗ, giữ chức ngoại trưởng tân chính phủ, và luật sư Nguyễn Hữu Châu, anh vợ của Nhu.
    Ông bà Trạng Trần Văn Chương, bố mẹ vợ Nhu cũng được Diệm mời đến, nhờ giữ chức đại sứ nay mai ở Mỹ.
    Nắm được uỷ nhiệm thư thành lập chính phủ mới, Diệm nghĩ ngay đến việc loại bỏ những người quốc gia bấy lâu Diệm vẫn không ưa thích và lo chọn người cộng tác trong số bà con, thân hữu, hoặc do các linh mục giới thiệu.
    
    Chú thích:
    (1) Tin vắn buổi trưa.
    (2) súng phòng không
    (3) Quai d Orsay: có nghĩa là Bộ ngoại giao, chứ không phải bến Orsay
    (4) - Ami, entends tu le voix des corbeaux.
    Danslaplaine?
    Ami, entends - tu le cri sourd du pays qưon enchaine?

Xem Tiếp Chương 11Xem Tiếp Chương 12 (Kết Thúc)

Đệ Nhất Phu Nhân Trần Lệ Xuân
  » Xem Tập 1
  » Xem Tập 2
  » Xem Tập 3
  » Xem Tập 4
  » Xem Tập 5
  » Xem Tập 6
  » Xem Tập 7
  » Xem Tập 8
  » Xem Tập 9
  » Đang Xem Tập 10
  » Xem Tiếp Tập 11
  » Xem Tiếp Tập 12
 
Những Truyện Dài Khác
» Liêu Trai Chí Dị
» Pie Đệ Nhất
» Thiên Thần Và Ác Quỷ
» Tuyết Bỏng
» Cuộc Đời Của Pi ( Phần II )
» Mao: The Unknown Story
» Con Lừa Và Tôi
» Trái Tim Không Cần Lý Lẽ
» Tình Ca Giáo Viên Miền Núi
» Cuốn Sổ Lớn
» Chuyện Tình New York
» Những Kẻ Điên Rồ Phải Chết
» Đau Thương Đến Chết ( Phần I )
» Hai Chị Em
» Giữa Cơn Gió Lốc
» Chỉ Một Lần Yêu
» Đi Qua Hoa Cúc