Bà Cả rước chân nhang ở đền Mẫu về thờ vào đầu năm, cuối năm linh nghiệm liền. Bà sinh con trai thứ hai đặt tên là Ly. Cậu ấm quý như hòn vàng, nhưng là con cầu tự nên khó nuôi lắm. Quặt quẹo luôn. Bà Cả lại mất sữa nên cậu Ly còm nhom. Cũng may lúc đó tôi sinh cái đĩ thứ năm, đĩ Váy Con, hai bầu sữa của tôi buộc phải chia ra cho hai anh em nó bú. Ở nhà ông lý Cỏn, không biết ai đặt ra lệ, mà lũ trẻ con gọi ba người đàn bà chúng tôi theo cách gọi khác nhau rất lạ. Con tôi và cả con bà Hai đều phải gọi chị cả Cỏn là Đẻ, mặc dù bà ấy không hề đẻ ra thằng Cò, thằng Tũn, thằng Tĩn, thằng Bòi và con đĩ Váy Con. Bà hai Cỏn, thì tất cả bọn trẻ đều phải gọi bằng Mợ (ý chừng theo cách gọi tân thời kiểu thành phố). Còn tôi, bà ba Váy, thì chúng nhất loạt đều gọi bằng U (ý chừng vì tôi là người nhà quê, đặc sệt nhà quê). Cách gọi ấy cũng có cái hay, vì nó phân biệt rất rõ ràng, không gây ra nhầm lẫn. Vả lại cách gọi ấy cũng còn hay, vì trẻ con làng tôi đều gọi mẹ bằng U, nên gọi U rất thân mật, gần gũi. Hơn nữa, ở nhà tôi đông trẻ rất vui, rất xuề xoà, tôi lại là người yêu trẻ nên thằng Long, thằng Ly con bà Cả, thằng Tùng con bà Hai cũng thích đến nhà tôi. Nhất là thằng Ly, nó bám tôi lắm. Mỗi lần tôi cho bú, thằng Ly bám một vú, cái đĩ Váy Con bám vú bên kia. Thằng Ly bú rất nhanh. Loáng một cái nó đã mút cạn bầu sữa. Khi ấy, nó lại bú tranh nốt bầu bên kia, mà lần nào đĩ Váy Con cũng phải nhường. Khốn thay, thằng bé bú nhiều nhưng lại mắc bệnh đi tướt. Thành thử, đĩ Váy Con tuy bú ít nhưng da dẻ hồng hào, chân tay bụ bẫm; còn cu Ly tuy bú nhiều mà da dẻ lại nhăn nheo, người vẫn còm nhom. Bà cả Cỏn bảo sữa tôi không hợp với Ly. Bà thuê vú em cho cậu bé bú, song thằng bé vẫn đi tướt và suốt ngày đòi: "Bú u cơ", nên cuối cùng lại phải trao nó cho tôi chăm sóc. Tôi chăm bẵm thằng Ly hết lòng như con đẻ rứt ruột, nên cuối cùng thằng bé cũng khỏi bệnh và lớn thành người.
Năm thằng Ly lên sáu, cụ Tổ cô gần chín mươi, cụ già quá nên thân thể rệu rã, sắp sửa đến cõi. Cụ dặn đừng làm ma chay linh đình, bởi vì cụ nửa đi đời nửa đi đạo, nếu mang thi thể cụ về nhà ông lý Cỏn làm ma to kèn trống phúng điếu như kiểu bên đời, thì cánh bên đạo nhà ông Liến, Láu sẽ phản đối. Còn nếu làm tang lễ ở nhà thờ, thì cánh họ Vũ Xuân sẽ chẳng bằng lòng. Chi bằng cứ theo di chúc của cụ, đem chôn cụ ở rừng báng đằng sau đền. Rồi dăm năm nữa, con cháu hãy ra Hà Nội, tìm hài cốt cụ cử Phùng chôn ở cánh đồng Bông gần chùa Hà, Cầu Giấy, đem về chôn cạnh cụ - Có như thế mới làm dịu nỗi ân hận của cụ. Cụ thề sẽ không đi bước nữa sau khi ông phủ Khiêm chết. Dù chỉ là sự chấp kinh phải tòng quyền, nhưng cụ đã tái giá tức là đã thất hứa, không phải đạo với người chồng mà cụ kính yêu. Sống không sửa được lỗi lầm, thì khi chết phải sửa lỗi lầm ấy.
Ngày hôm trước khi cụ qua đời, con cháu họ Vũ Xuân lần lượt đến chào cụ. Bà cả Cỏn mang thằng Ly đến từ biệt cụ lần cuối. Chẳng hiểu sao khi trông thấy thằng bé, cụ lại chảy nước mắt và bảo:
- Cụ thương chắt lắm.
Cụ Tổ cô chết được ba tháng, thằng Ly đang khỏe mạnh, đột nhiên ngã bệnh. Ban ngày nó vẫn chơi đùa, ban tối bỗng nổi cơn sốt cao. Sờ trán nóng như hòn than. Gần sáng bụng chướng lên đau quằn quại. Hết đau bụng, sang đi lỏng. Hết đi lỏng, sang sài giật. Bà cả Cỏn cuống cuồng sang cụ tú Cao xin thuốc. Cụ Tú sang thăm bệnh cho cháu nhưng bệnh quá nặng. Thằng bé gầy gò có khuôn mặt tuấn tú đến tối hôm sau mê sảng cứ luôn mồm gọi "cụ ơi!". Chẳng ai biết là cụ nào. Gọi luôn mồm cho đến sáng thì thằng bé đi.
Bà cả Cỏn mất đứa con trai thông minh mà bà rất yêu, đâm suy nghĩ héo hon, rồi sinh bệnh. Cụ tú Cao mang hết sở trường ra chữa cho cháu dâu. Rất lạ! Toàn thuốc tốt thuốc quý mà bệnh của bà lý Cỏn cứ trơ ra không chịu lui. Cụ chánh Thi xót con gái, đón ông lang làng Gồ, ở xa cách kẻ Đình hai chục cây số về chữa cho con gái. Diệu vợi lắm. Phải mang võng đi đón rồi lại đưa về. Tốn công tốn của lắm mà bệnh vẫn chẳng chịu lui.
Bệnh bà cả Cỏn càng ngày càng nặng. Ông lý Cỏn nhà tôi lúc này mới điểm lại tất cả tình hình. Bà cụ Tổ cô chết tháng hai. Thằng cu Ly chết tháng năm. Khi chết thằng bé cứ gọi "Cụ ơi". Vậy nó gọi cụ nào. Rồi sang tháng sáu, bà Lý lại liên tiếp bị bệnh. Như vậy có nghĩa gì? Tại sao họ Vũ Xuân lại bị lắm tai ương như vậy. Chữa thuốc mãi không khỏi... hay là bị ma ám. Cả nhà bàn nhau đến chùa hỏi ông hộ Hiếu. Cụ chánh Thi nói:
- Lão điên ấy hỏi làm gì? Toàn trò bịp bợm để doạ nạt người ta.
Riêng tôi, tôi vẫn nhớ tới chuyện năm xưa họ Vũ Xuân vứt ông Thần Cẩu (con chó đá) xuống hồ Huyền, sau lại phải vớt lên; rồi chuyện ông Tây Pierre mắt mèo bị ma ám, sau được ông Hiếu chữa khỏi. Cho nên tôi vẫn tin ông Hiếu. Một buổi tối tôi lén ra chùa lễ ông Hộ Pháp và xin ông Hiếu cho biết tình hình cõi âm thế nào, tình hình gia đình tôi rồi sẽ ra sao? Ông hộ Hiếu lại lấy bát nước trong vắt bí hiểm của mình ra, đặt trên đó một nén hương nằm ngang, rồi xuýt xoa khấn vái. Cuối cùng ông nói với tôi:
- Đi đi thì hơn... Chị không hiểu à... Tôi bảo chị nên cho các cháu lánh đi ít lâu thì hơn... Thiên cơ bất khả lậu... Nhưng cứ lánh đi... đợi khi yên ổn sẽ trở về. Đây, tôi cho chị mấy lá bùa. Đeo cho mỗi đứa trẻ một cái ở cổ... Bùa trừ tà đấy.
Năm ấy tôi lại sinh đứa con thứ sáu nên ông Hộ cho sáu cái bùa.
Tôi nghe lời ông Hộ, đang đêm mang con về nhà mẹ đẻ bên làng Già. Ông lý Cỏn thấy vắng lũ trẻ hỏi tôi, nhưng nghe tôi nói, ông cũng bằng lòng. Đến khi một cậu em bà cả Cỏn cũng quay ra ốm thì cả chồng tôi và cả cụ chánh Thi đều nao núng lắm. Ông cụ chánh Thi rước ông thầy phù thuỷ làng Gồ về xem số, làm lễ. Ông ta phán rằng:
- Động đến ngài "đại thụ linh thần" ở gốc cây đa rồi. Thần cây đa bắt bà Cỏn về làm quân hầu đầy tớ. Không sửa lễ làm ngài hạ cơn giận dữ, thì ngài sẽ còn giáng tai hoạ cho cả bên nội lẫn bên ngoại.
Người dân làng Đình đổ đến xem đám cúng lễ thần Cây đa đông như hội. Ngài chỉ định bắt một mạng bà Cỏn về làm lính hầu, song gia đình ông Lý nhà tôi giàu có, nên sắm sửa đồ tế lễ khá hậu hĩnh. Đáng lẽ chỉ phải sắm một cô hình nhân thế mạng, nhưng nhà tôi đã sắm hai cô. Đó là hai cô tố nữ bằng giấy. Hai cô đều váy tím khăn nhung đen; chỉ có khác một cô áo đỏ, một cô áo xanh, một cô tay cầm quạt, một cô tay bưng cơi trầu. Hai cô hình nhân thế mạng đều xinh đẹp, mặt trắng, lông mày ngài đen nhánh, mắt phượng, môi son. Đồ bằng nan giấy mà tinh xảo đáo để. Hai cô tựa lưng ở hai bên cột đằng trước cái ngai "đại thụ linh thần". Cạnh ông thần cẩu còn dựng con ngựa bạch và chiếc lọng đều bằng giấy. Còn vàng mã tiền giấy thì một mâm tú ụ. Hôm ấy, gốc cây đa đầu làng bỗng sinh động, tưng bừng hẳn lên vì màu sắc xanh đỏ tím vàng. Lũ quạ ngoài đồng thấy người đông đúc, cũng bay cả đàn về đậu trên ngọn đa nhòm xuống, góp thêm vào sự náo nhiệt bằng những tiếng kêu quạ quạ ồn ĩ.
Việc cúng thần là chính, nhưng ông Lý nhân tiện, làm cả cúng cháo lá đa. Nghĩa là cúng luôn cho cả những cô hồn, những ma đói ma khát, để cho các vong linh phiêu bạt ấy không thể thừa gió bẻ măng gây thêm tai họa. Những chiếc lá đa khoanh hình bồ đài xâu tăm, được rót đầy cháo thí vào, được bày la liệt bên những chiếc rễ đa nổi trên mặt đất, hoặc trong những bụi cây, gốc cỏ chung quanh.
Ông lý Cỏn thân làm chủ lễ. Ông thầy phù thuỷ mặc áo đỏ đánh trống. Một chú bé phụ lễ đánh cái chập cheng. Ông thầy ê a đọc bài văn cúng. Chồng tôi lễ bốn lạy rồi tiến đến ngai thờ rót rượu. Sau đó ông nhắm mắt lẩm nhẩm van xin:
- Con xin ngài thương chúng con lũ người trần mắt thịt, trót mạo phạm đến oai linh. Con xin ngài có phạt thì cũng giơ cao đánh khẽ. Xin đức ngài mở lượng hải hà tha thứ, xá tội cho vợ con là Nguyễn Thị Lụa, con cụ Nguyễn Văn Thi. Nay gia đình chúng con xin dâng lễ vật ngựa, lọng, mũ mão, hia hốt đầy đủ. Lại xin dâng tố nữ một đôi, hai kẻ hình nhân thế mạng, để thay thế Nguyễn Thị Lụa ngày đêm hầu hạ linh thần...
Sau khi ông Lý khấn, một trận gió to nổi lên cùng với tiếng trống, tiếng chũm chọe hình như cũng rộn ràng hơn trước. Những chiếc lá đa, những chiếc bồ đài bị lật sấp rồi bị gió cuốn theo... Hai cây nến đỏ trên ngai tắt phụt. Dân làng thì thầm với nhau: "Ngài thiêng, ngài nhận đấy". Ông lý Cỏn nhà tôi tay run run châm lại nến. Rồi ông quỳ xuống xì xụp lạy như tế sao. Thầy phù thuỷ khua trống rộn rã để kết thúc cuộc lễ. Dân chúng còn chờ xem đến lúc đốt vàng mã. Ngọn lửa lem lém trên những vạt áo xanh đỏ của hai cô tố nữ. Lửa biến những mảnh giấy màu thành những tàn đen kéo chúng bay vút lên trời...
Cuộc tế lễ linh đình đến như vậy mà cũng không làm sao cứu nổi mạng con người. Bà cả Cỏn nhà tôi cũng chỉ trụ được hai ngày nữa thôi, rồi cuối cùng cũng tắt thở.
Đám ma của chị Cả là cả một câu chuyện rắc rối. Ông Lý nhà tôi cẩn thận nhờ mấy người bấm quẻ để xem giờ nhập quan, giờ phát tang... ngày giờ chôn cất. Cả mấy người đều nói cùng một câu làm ông Lý lo sợ, chạy ngay sang nhà cụ tú Cao:
- Ông ơi! Con biết làm thế nào bây giờ đây?
Trông thấy bộ mặt hoảng hốt của người cháu, cụ Tú ôn tồn:
- Có chuyện gì, anh Lý cứ bình tĩnh nói cho chú xem sao.
- Trùng tang! Tất cả đều nói trùng tang ông ạ.
- Trùng tang ư?
Ông già nhắc lại lời người cháu. Đến lượt bộ mặt ông cụ cũng biến sắc, tái nhợt đi.
- Ông ơi! Cháu Ly ẩn tuổi mẹ nó, hai mẹ con sinh cùng giờ, chết cùng giờ. Hai mẹ con lại chết chỉ cách nhau một tháng. Đúng là trùng tang rồi ông ạ. Đấy là chưa kể cụ tổ nhà mình cũng mới chết. Rồi cậu út bên nhà ngoại con đang bị ốm.
Cụ Tú cố lấy giọng cứng cỏi để an ủi:
- Anh Lý đừng nên tin vào những chuyện mê tín. Tôi đọc sách thánh hiền từ lúc để chỏm, có bao giờ thấy sách nói đến chuyện trùng tang. Đừng nên nghe các ông thầy phủ thuỷ. Đừng nên làm những chuyện rắc rối. Đạo nghĩa vợ chồng cứ thực bụng xót thương, rồi lễ nghi chẳng sơ sài, đào sâu chôn chặt, thế là trọn vẹn.
Ông lý Cỏn nhà tôi sang hỏi bố vợ. Ông chánh Thi gật gù:
- Kể ra lời cụ Tú là đúng với sách. Nhưng suy cho kỹ, thánh hiền vốn ở nơi đâu? Chẳng phải là ở tận bên Tầu hay sao?... Còn ở đây là quê hương chúng ta, vậy, anh Lý cứ nên theo phong tục mà làm. Ngày xưa, các cụ chôn người chết trùng ra sao. Ngày nay, ta cũng làm theo đúng như thế. Thầy cũng đi hỏi rồi. Người ta bảo nhà mình bị trùng nặng chứ không phải trùng nhẹ. Nghĩa là bên nội bị ảnh hưởng, mà cả bên ngoại cũng phải chịu theo. Chuyện này chẳng phải chuyện chơi. Anh phải có bổn phận với bên nội, nhưng cũng phải lo lắng cả cho bên ngoại. Chị Lụa là phận đàn bà. Người ta bảo nữ nhân ngoại tộc. Nhưng không hẳn như thế đâu. Cái sự trùng tang này ghê gớm lắm.
Đã nói đến tục lệ, ai còn dám cãi. Người ta sống ở làng, sống với họ tộc, anh em, cô dì chú bác; ai có thể dám bất cần, dám làm điều gì trái với tình cảm của mọi người. Ngay cả cụ tú Cao, một người đức cao vọng trọng, cụ cũng không dám đi ngược với tục lệ. Nhỡ ra có chuyện gì, cụ làm sao gánh nổi trách nhiệm.
Người hoảng hốt nhất là ông Lý nhà tôi. Từ lúc nghe hai tiếng trùng tang, người ông tựa như mê mẩn đi. Ông Lý, từ lúc làm người, chỉ thấy mọi sự ở đời đều xuôi thuận với ông. Đây là lần đầu tiên ông gặp điều không như ý, điều gay go. Cũng là lần đầu tiên, một người thân thiết, gắn bó với ông nhất đã ra đi. Con người lanh lợi, mưu mẹo ấy đột nhiên như ngã gục.
Chị Cả nằm thẳng dẵng trên giường. Ông Lý chẳng nhờ ai. Chính tay ông đã vuốt mắt cho bà. Cũng chính tay ông đã lấy chiếc đũa ngáng miệng cho bà. Người đàn bà ấy có lúc hay làm nũng. Chị Cả có lúc hay doạ mách tội ông Lý với cụ chánh Thi. Nghĩ cho cùng, người đàn bà ấy, tiếng là con nhà quyền thế, tiếng là lấy chồng giàu có, song thử hỏi đời chị ấy có sung sướng hay không. Người đàn bà ấy cũng đầu tắt mặt tối quanh năm, chẳng khác gì những kẻ lam lũ. Cũng cơm hẩm, dưa khú như người tá điền. Chị ấy cũng dậy sớm theo tiếng gà gáy sáng, cũng xay lúa giã gạo cho đến lúc trăng gác đầu ngọn tre. Giờ đây, con chị chết mới tròn một tháng, chị đã vội theo con. Chết vào giờ xấu! Chết trùng tang! Chết ai oán gây nên nỗi nơm nớp cho mọi người. Theo đồn đại, sẽ còn những người khác đi tiếp. Sau bà, sẽ là ai đây? Lão thần trùng sẽ còn bắt những ai? Thật lạ lùng. Biết lão thần trùng là mối nguy chính nhưng chẳng ai dám nhắc đến chữ "Thần trùng". Ai cũng tránh, cũng kiêng gọi tên ấy. Cứ như thể nhắc đến chữ ấy là lão ta sẽ hiện ra ở ngay sau lưng, cả gia tộc nhà chồng tôi cứ như mê đi. Mọi người lặng lẽ, kẻ nào việc nấy. Ít nói là tốt nhất. Gia đình chúng tôi đang làm một việc rất lạ. Chúng tôi biết mười mươi đây là một đám trùng tang, nhưng mọi người cứ phải thản nhiên coi đây như một đám tang thường. Chúng tôi đang cố tình đánh lừa thứ ma ác, đánh lừa lão thần trùng quỷ quyệt.
Cái Thắm rất thương mẹ. Con bé mới chừng mười ba, mười bốn mà đã đảm đang chẳng khác gì chị Cả. Nó chẳng nhờ dì Hai, chẳng khiến dì Ba. Nó tự tay đun nước ngũ vị hương, rồi quây màn làm lễ mộc dục lau rửa cho mẹ sạch sẽ, rồi thay quần áo mới cho bà tươm tất.
Thầy phủ thuỷ làm lễ phạt mộc, yểm bùa. Ông cầm nắm hương đọc phù chú, lấy con dao dựa chém nhẹ vào những tấm ván của chiếc áo quan bằng gỗ vàng tâm để đuổi lũ tà ma còn ẩn náu trong đó. Sau đó yểm bùa. Yểm cả trong áo quan, yểm cả những xó xỉnh tối tăm trong nhà.
Lễ phạm hàm mới thật thảm thương. Ở trường hợp chết bình thường người ta dùng ba đồng chinh đã mài sáng loáng và một bát gạo. Người hộ tang hô ba lần: sơ hàm, tái hàm, tam hàm. Mỗi lần hô, người ta bỏ vào miệng người chết một đồng chinh và một thìa gạo. Riêng ở trường hợp này, vì chị cả Cỏn chết trùng tang người ta không dùng đồng chinh và gạo. Vật bỏ vào miệng người chết lúc này là một nắm kim nhọn hoắt. Tiếp đó là việc làm khủng khiếp. Ông thầy phù thuỷ lại múa hương, lại thét, lại đọc phù chú. Sau đó, ông lấy kim khâu, chỉ chắc, khâu kín hai môi người chết lại. Cái kim đâm vào môi sừn sựt, không hề có máu chảy ra. Tôi nhìn mà sởn tóc gáy, mắt nhắm nghiền lại. Cái Thắm thương mẹ quá, khóc rãy lên, rồi nằm ngất thẳng cẳng.
Tiếp đến làm lễ khâm liệm cho chị Cả. Người ta dùng những tệp giấy bản kê đầu, chèn đầu, rồi bó người chết bằng những tấm vải liệm dài. Người chị Cả cuối cùng được gói lại gọn ghẽ, vuông vức trông như chiếc bánh chưng dài...
Trong cuộc lễ khâm liệm ấy, mấy người đàn bà yếu bóng vía trong nhà bị ngất. Cái Thắm bị ngất lâu nhất. Đến như chị hai Cỏn vốn kình địch với chị cả Cỏn mà cũng phải lả người đi, khóc không thành tiếng. Ông lý Cỏn chồng tôi có lẽ là người thương xót chị Cả nhất. Cứ tưởng ông ít đằm thắm với chị Cả là vì ông ít yêu thương chị. Hoá ra không phải. Cứ nhìn ông mà xem. Ông ngơ ngơ ngác ngác, nước mắt chảy ròng ròng, sụt sịt như một đứa trẻ. Người ta gọi ông cũng chẳng thưa, cứ như kẻ mất hồn...
Tại sao, lúc khâm liệm chị Cả lại phải làm những chuyện khác thường như bỏ kim vào miệng và khâu môi như vậy? Trong đám tang tôi không dám hỏi, mãi về sau mới biết.
Người ta bảo rằng chết trùng tang rất độc. Không làm theo đúng tục lệ, sẽ làm chết nhiều người khác trong họ tộc. Có gia đình bị trùng tang chết liền nhau tới chục người. Cái kẻ ác độc gây ra tang tóc ấy chính là thần Trùng. Đó là một ác thần. Nó thường biến thành một con rắn đến mộ người chết trùng, rồi nằm cạnh xác chết. Nó đe doạ vong linh người chết, hành hạ, tra khảo xác chết. Nó buộc người chết phải khai ra tên họ, ngày sinh tháng đẻ của những người thân còn sống, để rồi sẽ về bắt tiếp những người đó. Trường hợp này phải bỏ kim vào mồm và khâu miệng lại. Khâu như vậy cốt đề phòng. Nhỡ ra, người chết bị thần trùng tra khảo đau quá, cũng không có thể há miệng ra mà khai với vị ác thần những điều mình biết.
Người hộ lễ là cụ tú Cao. Cụ là người từng trải, lịch lãm, nắm vững mọi thủ tục, công việc tang lễ. Cụ cắt đặt công việc cho từng người trong nhà rất khéo. Người nào đúng việc nấy. Đáng lẽ ra ông lý Cỏn nhà tôi phải làm tang chủ, nhưng từ lúc chị cả Cỏn mất ông như người mất hồn. Tôi phải đưa ông về nhà, bắt ăn, rồi bắt ngủ một lúc, ông mới đỡ, tuy nhiên vẫn còn ngơ ngác không điều khiển được mọi việc. Thằng cháu Long con chị cả Cỏn phải đứng ra làm tang chủ. Thằng Long kém thằng Cò con tôi một tuổi, nhưng về thế thứ nó là anh thằng Cò, lại là con đẻ chị Cả nên làm tang chủ là phải. Thằng bé mười sáu tuổi, khá lanh lợi và xót thương mẹ. Lúc chị Lụa tắt thở, nó cầm chiếc áo cánh của mẹ leo lên nóc nhà để hú hồn hú vía:
- Ba hồn chín vía bà Nguyễn Thị Lụa ở đâu có nghe thấy tiếng con trai là Vũ Xuân Long, thì hãy về với con với cháu.
Nó hô ba lần, vừa hô vừa khóc. Thằng bé suýt ngất xỉu trên mái nhà. Ông thầy phù thuỷ bảo:
- Xin gia đình cứ làm lễ đúng như lệ thường, như mọi đám ma khác. Nếu không làm khéo đánh động tới người (ý nói thần Trùng), sẽ rất bất lợi.
Ý ông phù thuỷ, như tôi đã nói, là phải thật khéo để đánh lừa thần Trùng. Cứ làm như thể gia đình không biết chị Lụa đã bị chết trùng tang.
Cụ Tú phải thay mặt gia đình sang có lời với cụ đồ Tiết nhờ họ Đinh giúp đỡ một số việc. Nghĩa tử là nghĩa tận, cụ đồ sai Trịnh Huyền đến thổi kèn giúp cho việc hiếu được nghiêm trang, long trọng.
Tiếng kèn lâm khốc lúc phát tang của ông Huyền làm cho cả làng Đình phải nôn nao, kéo nhau đến đám tang. Ông Cỏn làm việc quan, lại giàu có, nên khách khứa đông nườm nượp. Cái sự trùng tang là việc riêng trong nhà, cụ Tú giấu biệt, lại cấm tiệt con cháu không được hở ra. Hơn nữa, họ Vũ Xuân gia pháp rất nghiêm, nên lúc ấy trong làng không ai hay biết; người làng rủ nhau đến thăm hỏi như đám ma thường. Ngoài các vị chức dịch trong vùng đến viếng, còn thấy mặt cả hai ông chủ đồn điền: ông Pierre và ông Julien. Từ khi ông Philippe chết, bà vợ đầm của ông không bén mảng sang đồn điền nữa. Người ta bảo bà ấy sợ cái xứ sở này. Người ta còn nói bà thề rằng sẽ không bao giờ đặt chân lần thứ hai tới đất Cổ Đình. Tiếng là đồn điền thuộc về cả hai ông chủ Tây, nhưng ông Pierre chỉ ham mê vẽ vời không thích bận bịu công việc, nên tất cả công việc đều ở trong tay ông Julien. Dân Cổ Đình bảo hai ông Tây này rất khôn. Một ông là võ một ông là văn. Ông Julien thì nhanh nhẹn tháo vát nhưng tính tình nóng nảy. Ông Pierre, ngược lại với ông em, là người văn vẻ nho nhã. Ông ta được dân trong xóm mến. Nhờ ai đứng làm mẫu cho vẽ thì trả tiền tử tế. Có những bà chỉ gánh đôi quang gánh nhẹ, đi đi lại lại trước mặt ông chừng một lúc, thế mà cũng được ông trả công cho một hào, bằng tiền công làm việc vất vả cả ngày. Thỉnh thoảng ông còn chia kẹo cho trẻ con. Cái nhà ngang nhà thím ba Pháo bỏ không, đem cho ông Pierre thuê để đồ vẽ cũng được đồng bạc mỗi tháng. Ông ta lại chẳng hề khinh rẻ cái phận nghèo hèn làm mõ của thím Pháo - vì vậy, dân bảo chắc kiếp trước ông Tây này là người Nam và tu đạo Phật nên mới thế.
Ông Pierre ở xứ ta đã lâu, am hiểu lệ tục xứ mình, lại biết nói tiếng ta. Tuy giọng còn lơ lớ chút ít, nhưng đứng trước linh cữu bà Lý, ông ăn nói thật nghiêm trang, văn vẻ chẳng khác gì người ta:
- Đồn điền chúng tôi biết tin bà Lý quy tiên. Chúng tôi đến phúng viếng, mang hoa đến chia buồn cùng tang quyến.
Quản Láu mặc đồ đen bưng mâm trên có chai rượu, nắm hương, bó hoa đặt lên hương án trước linh tọa. Nhạc kèn lâm khốc của Trịnh Huyền cất lên ai oán. Trai gái trong nhà, nam tả nữ hữu ngồi xệp hai bên rập đầu xuống đất khóc ô hô, khi hai ông Tây cúi đầu vái lễ.
Thằng Long, thằng Xuân, thằng Cò, thằng Tũn, Thằng Tĩn chống gậy vông, mặc áo xô đáp lễ. Hai ông Tây vái bốn vái. Lũ con trai sụp xuống đất đáp trả lễ ba lần.
Sau đó cụ Tú và ông Lý phải ra tiếp khách. Ông Lý ngơ ngác, đi loạng choạng. Tôi phải dìu chồng tôi ra đứng bên bàn nước. Ông Tây Julien đưa con mắt sắc sảo ra nhìn chung quanh. Rồi ông chăm chú nhìn ra đám kèn trống, nhìn chằm chằm vào ông Trịnh Huyền với bộ mặt sứt sẹo quái gở. Tôi cứ nghĩ rằng bộ mặt nửa thực nửa hư, nửa hiền nửa ác, nửa đẹp nửa đáng ghê sợ của ông dễ làm người ta chú ý. Mà cũng đáng chú ý thật, vì khi ông Huyền thổi kèn những vết sẹo bên nửa mặt trái của ông đỏ lựng lên, giữa đống thịt đỏ lựng ấy lại có những vết tím bầm. Ông Huyền cũng có ý tứ, ông ngồi khuất sau người đánh trống cơm và cố nghiêng phần mặt xấu xí đi chỗ khác. Song, ông đã như thứ người bị trời đánh dấu, chúi vào đâu được để che đậy nổi con người mình. Càng cố che giấu càng dễ bị nhận ra. Tôi chợt thấy thương và lo cho ông khi con mắt soi mói của ông Tây Julien chợt ngẩng lên và hỏi chồng tôi:
- Cái người... thổi kèn kia... là ai?... Có phải... Trịnh Huyền... đó không?
Chồng tôi như cái máy đáp lại:
- Dạ dạ...
Người Tây lại hỏi:
- Có phải... cái người này... mở lớp... dạy học không?
Chồng tôi ngơ ngác rồi đáp bằng những câu như vô hồn:
- Dạ không.
- Ông Lý biết không... Phải cẩn thận... Phải rất cẩn thận...
Ông Tây hoạ sĩ Pierre, vì am hiểu phong tục, thấy hỏi những chuyện như vậy có lẽ không hợp trong lúc gia chủ đang có tang nên đưa mắt ra hiệu cho ông Tây em.
Lúc đó, ông Julien mới như giật mình nhìn sang ông cụ có chòm râu lơ thơ vào đôi mắt rất sáng đang nâng chén nước trà bốc khói cho ông. Cụ Tú hiền lành nhìn vào mắt hai người Tây và nói:
- Xin mời các quan lớn.
Ông Tây anh đỏ mặt đỡ lấy chén nước:
- Xin cụ đừng gọi tôi như vậy. À quên, xin giới thiệu với em đây là cụ tú Cao. Còn đây là ông Julien em tôi. Con rể cụ Tú chính là bác sĩ Alexandre mà anh em ta có dịp tiếp kiến ở nhà cha xứ.
Julien giơ cả hai tay niềm nở nắm lấy bàn tay dài và gầy guộc của ông già. Người Tây sôi nổi ấy không chú ý đến ông già, nhưng cụ Tú tỏ ra rất quan tâm tới anh ta. Ông cụ đã quan sát không bỏ sót một cử chỉ nào của Julien, từ lúc anh bước chân vào nhà mình.
Đêm xuống, khách viếng đã hết. Cả làng đến nghe ông thợ kèn thổi kèn giải. Đêm trước hôm đưa đám ma, ở làng tôi, người ta thường thi khóc: cháu khóc cô, con khóc mẹ, chị khóc em, chồng khóc vợ... Người khóc thường là đàn bà, tóc xõa rũ rượi, ngồi bẻ quặt chân trên đất nức nở khóc... Tiếng khóc là những lời kể lể về tính nết hiền thục, hay lam hay làm, rồi những kỷ niệm với người đã khuất... Nay người ra đi, âm dương cách trở, chẳng còn nhìn thấy mặt nhau để thương để nhớ để sầu cho người còn sống... Tiếng kể lể, tiếng khóc ơ hờ, tiếng nấc, tiếng gọi... thỉnh thoảng tiếng kèn lại dấy lên lâm li thống thiết làm mọi người ngồi dưới cây rơm, ngồi trên sân gạch bặt lặng cúi đầu.
Ai không biết khóc thì thuê thợ kèn khóc giúp. Người nhà quê chúng tôi vẫn như vậy, đã đành là phải sống bằng miếng cơm ăn, nhưng cũng không thể sống mà thiếu hội hè. Vui có hội vui, mà buồn cũng phải có hội buồn. Thổi kèn giải là một đêm hội buồn. Trong khi cánh đàn ông đốt đèn sáng trưng trong nhà, xúm xít nhau quanh đám tổ tôm hoặc đám chắn, thì những người đàn bà, trẻ con chúng tôi ngồi dưới ánh trăng và nghe kèn giải.
Đám kèn giải còn kéo dài tới lúc nửa đêm, tức là giờ các cụ làm lễ chuyển cữu. Tôi không biết các cụ cắt nghĩa lễ chuyển cữu ra sao, chứ đám đàn bà chúng tôi cho rằng chuyển cữu tức là giở mình cho người chết. Ôi chao! Nằm dài mãi trong áo quan cũng mỏi lắm chứ, người dưới cõi âm chắc cũng phải giở mình như người cõi dương.
Song còn lâu mới tới nửa đêm, lúc này chỉ có đèn nến sáng trưng ở bàn thờ linh tọa, còn tất cả mọi người đều ngồi chìm trong bóng đêm trăng. Nó sáng mờ mờ đủ che khuất khuôn mặt kỳ dị của Trịnh Huyền. Hàng tháng nay, tôi bận bịu với công việc trong nhà nên không có thì giờ mà nghĩ tới ông ta nữa. Nghĩ cho cùng, ông Lý nhà tôi, dù có bị mất bà vợ cả thì cũng vẫn còn bà Hai và tôi tức bà Ba. Còn Trịnh Huyền thì sao? Ông ta sống cũng phải sống trong nỗi nơm nớp lo sợ. Và điều buồn nhất là ông ta chẳng có người đàn bà nào sống bên cạnh để chăm lo cho, để nâng giấc an ủi những khi ốm đau, hoạn nạn...
Tôi ngồi ở chân cây rơm thở dài nghĩ như vậy. Tôi cúi đầu xuống, lắng nghe tiếng kèn ai oán của ông lẩn quất trong lùm tre, mái rạ. Nó làm cho tôi rưng rưng muốn khóc. Nó làm cho tấm lòng mộc mạc của tôi thổn thức, xốn xang. Hai bố con ông Trịnh Huyền thổi kèn và ngâm khóc khéo lắm. Ngày trước, đám hội hiếu bên làng Già sang giúp thường kết thúc đêm kèn giải bằng một điệu múa sinh tiền. Người ta bảo sống gửi thác về. Chết tức là về ngôi nhà chính của mình. Vậy nên chết cũng nên tiễn bằng điệu múa vui.
Hai bố con ông Trịnh Huyền không làm như vậy. Họ lại kết thúc đêm kèn giải bằng một khúc hát. Ông Huyền lúc này không thổi kèn. Ông đánh cây đàn trong tiếng bập bung nhè nhẹ của chiếc trống cơm. Cháu Nhụ ngồi dưới chân ông. Hai bố con hát một bài hát rất lạ. Bài hát sầu thảm, chẳng hề giống một làn điệu nào, nhưng lại phảng phất tất cả nghe vừa quen vừa lạ. Nó nức nở cái hơi làn thảm, nó lâm li như kèn lâm khốc. Tôi gục đầu xuống đầu gối, cứ thấy rờn rợn gai gai. Về sau, tôi mới biết đó là bài khóc của ông năm xưa khi người vợ ra đi, lúc ông xa quê, lúc con bé Nhụ còn bé tí. Ngày xa xưa ấy, cháu Nhụ chưa biết hát; còn bây giờ, chính cháu Nhụ đang cất tiếng bằng cái giọng ai oán giữa đêm khuya. Nó hát rằng:
Con thương mẹ, con trèo lên núi
Chẳng thấy mẹ đâu
Chỉ thấy vượn mẹ bồng con
Ạ ời... vượn khóc nỉ non.
Con thương mẹ, con lội xuống khe
Chẳng thấy mẹ đâu
Chỉ thấy ếch nhái kêu sầu
Sầu suốt đêm thâu.
Con thương mẹ, con lên hỏi trời
Trời chẳng trả lời
Chỉ thấy mây mờ giăng mùng
Sương rơi như khóc.
Con thương mẹ, con xuống hỏi đất
Đất chẳng trả lời
Đất rì rầm khẽ hát lời ru
Ru rằng:
Âm dương cách trở đôi đường
Mẹ đi để nhớ, để thương, để sầu.
Mẹ đi để héo giàn trầu
Để thui giàn bí, để đau hàng cà.
Thì ra đây là câu khóc mẹ của cháu Thắm. Con bé thưởng cho phường kèn những ba xu, bảo ông Huyền hát dâng cho mẹ nó một câu hát nào hay nhất mà cũng sầu thảm nhất.
Trong câu hát này, cái Nhụ cũng cảm thấy như chính nó đang khóc mẹ, người mẹ mà nó hầu như không còn nhớ mặt. Vì vậy giọng nó rưng rưng đầy nước mắt. Còn ông Trịnh Huyền, nghe giọng đứa con hát, nghe tiếng khóc thê thảm của cháu Thắm, mà ông lại đang diễn cái bài hát do tự tay ông đặt ra, mượn miệng đứa con để nói lời chia biệt, cho nên tiếng đàn của ông khác hẳn lúc thường. Nó làm cho mọi người trong đám tang im phăng phắc. Đám tổ tôm trong nhà cũng bỏ chơi, kéo ra thềm, kẻ đứng người ngồi, chau mày nghe lời tiễn biệt.
Vì là đám ma trùng tang, nên ông chánh Thi, người đứng đằng sau chỉ đạo đám ma con gái, bắt mọi nghi thức tang lễ đều phải hoàn hảo. Ông Chánh muốn hồn ma và thần Trùng buộc phải bị quyến rũ, buộc phải mê mẩn đi, để bị hút theo tiếng kèn, tiếng đàn, tiếng trống. Chính vì vậy, ông Trịnh Huyền phải trổ hết tài nghệ, làm sao tiếng kèn của ông phải làm người ta bật khóc. Tiếng kèn đầy ma lực quyến rũ ấy quả thật đã làm đám tang như trở thành một cuộc lên đồng. Ở đây, cả làng đã bị cuốn hút, tất cả mọi người đều đã biến thành những con đồng. Như thế, đám ma mới ra đám ma. Trịnh Huyền cũng thực chẳng ngờ rằng tiếng kèn của mình lại có thể làm mê hoặc, đánh lừa được cả thần Trùng, ma quỷ.
Ngày hôm sau, đưa đám lúc mặt trời lên. Đây là cuộc đánh lừa thần Trùng có tính toán rất kỹ lưỡng, tính trước cả đường đi lối về. Đường đi của linh cữu, đặc biệt khác lệ thường. Con đường phải ngoắt ngoéo, rắc rối, bất ngờ. Bảo rằng để cho hồn ma khó nhận ra đường, sẽ quên mất lối, kẻo lại dẫn thần Trùng quay trở về nhà. Người ta không đi theo cửa chính. Gia đình xé rào, mở một lối đi ở bên luỹ tre giáp đồng. Khi đám ma qua trổ tre ra đồng, lập tức con đường ấy bị lấp lại ngay. Người ta lấy rong gai lấp đầy, bịt kín lại. Rồi đóng cọc buộc chặt, thậm chí sai đầy tớ trồng ngay những gốc tre mới. Chỉ vài tháng nữa, chỗ này sẽ xanh um, sẽ chẳng ai có thể nhận ra nơi đây đã có một lối đi chỉ dành riêng cho đám ma ấy nữa.
Khi ra ngoài đồng, bốn chàng trai lực lưỡng cầm bốn hình nộm gọi là bốn ông phương tướng dẫn đầu. Bốn hình nhân mặt mày dữ tợn ấy là bốn tướng trừ tà ở bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Bốn bộ mặt đen, trắng, đỏ, xanh. Bốn ông thần dữ tợn cầm bốn thứ binh khí, chuỳ, đao, giáo, kiếm. Bọn trẻ trong làng đông nghịt chạy theo bốn hình nhân do bốn trai đinh lực lưỡng vác, họ hò hét và nhảy nhót.
Đáng lẽ đám tang qua đồi, rồi vượt sông sang khu rừng bên kia bờ, nhưng bốn ông phương tướng lại dẫn ra hồ Huyền. Vẫn là mưu mẹo để đánh lạc đường. Người ta cho linh cữu lên thuyền bơi ra vùng nước bao la sau đó chui vào đám sương mù dày đặc buổi sớm. Tiếng kèn ai oán của ông Trịnh Huyền vang xa trên mặt nước mênh mông sương trắng. Ra đến giữa hồ thì sương mù dày đặc kết thành những hạt nước nhỏ.
Đoàn người đưa tang ướt sũng, khi thuyền cập bờ bên kia. Đám ma vượt mấy quả đồi sim, qua khu rừng trám, thì đến quả đồi hoang nơi đào huyệt. Huyệt đào theo bậc tam cấp. Thầy phù thuỷ đội mũ đầu hổ theo bậc đất xuống đáy huyệt. Đó là thần hổ trị huyệt. Bốn ông phương tướng bằng giấy được cắm ở bốn góc. Thần hổ tức thầy phù thuỷ cầm hương, đọc chú, khử tà, yểm bùa. Có lúc ông đọc lầm rầm, có lúc ông quát, ông thét để đuổi lũ ma quỷ tránh xa khỏi nơi đây.
Thầy phù thuỷ bảo trường hợp này trùng nặng nên không chôn quan tài xuống dưới đất. Phải chôn bán âm bán dương, đợi cho đủ ngày mới chôn hẳn. Người ta đặt ngang trên huyệt hai tấm ván dày rồi đặt quan tài lên đó. Phía trên, ông Chánh sai dựng một túp lều lợp tranh để che nắng che mưa.
Tôi thắp ba nén nhang cắm trước ngôi nhà mồ của chị cả Cỏn mà khấn rằng:
- Chị Cả ơi! Em về nhà ta, làm phận nàng hầu. Em cam phận lẽ mọn nàng hầu, chẳng bao giờ dám ăn ở quá với cái số kiếp hèn mọn của mình. Em chẳng bao giờ dám tự ỉ vào chuyện có nhiều con mà làm điều gì trái với phận của mình. Em vẫn luôn một lòng cung kính, và hầu hạ chị. Lũ con của em, tiếng rằng em sinh ra, nhưng thực chúng là con của chị. Chị sống khôn chết thiêng hãy thương lấy chúng nó, để giữ gìn cho dòng dõi ông Lý, chồng chúng ta, càng ngày càng đông cành xanh ngọn... Em cắn cỏ lạy van chị. Xin hãy thương lấy đàn con của chị. Xin hãy thương lấy dòng giống của nhà ta. Em cắn cỏ em lạy van chị...
Tôi cứ rối rít van xin như thế. Tôi đầm đìa, ròng ròng nước mắt. Tôi thực sự tin rằng những lời cầu khẩn thành thật của tôi sẽ làm cho người đàn bà nhiều uy quyền đã ra đi ấy sẽ động lòng, sẽ không bao giờ quay trở về cõi dương để làm xáo trộn cuộc sống của chúng tôi, những người còn sống.
|
|
|