Anson ngừng lại ở cánh cửa phòng tận cùng trong hành lang dẫn về phía ngôi nhà gần phòng tôi. Ông ta đặt bàn tay lên quả nắm và nhìn tôi.
- Em ông đã tỉnh lại. Thứ thuốc mê đã được dùng để giữ yên ông ấy là một thứ không gây hại, mặc dầu ông ấy có vẻ hơi choáng váng đầu. Ông ấy đã được thông báo sẽ có ông đến thăm. Ông ấy cũng đã được báo cáo tất cả những gì đã xảy ra kể từ khi ông ấy rời khỏi Hoa Thịnh Đốn. Tôi sẽ không vào với ông. Ông ấy còn có ác cảm với tôi hơn cả ông nữa.
Ông ta cười một tiếng ngắn và mở cửa. Tôi vừa bước vào, ông ta đã đóng ngay cửa lại.
Ted đang ngồi trên một chiếc ghế bành êm ái bên cạnh lò sưởi trong một căn phòng giống hệt phòng tôi. Trong lúc tôi bước vào, Ted ngước mặt nhìn tôi một cách mơ hồ.
Tôi lên tiếng trước:
- Kìa, Ted! Tôi đã đi tìm chú suốt nhiều ngày nay.
Ted chống tay lên ghế đứng dậy, run run bước về phía tôi và đưa bàn tay ra. Tôi liền nắm chặt lấy tay của Ted.
Lúc bấy giờ Ted mới nói:
- Chúa ơi, Stuart, em đã làm cho cả hai an hem mình cùng bị nguy hại. Một vụ nguy hại ghê rợn. Tất cả chỉ vì em.
- Ted, chú hãy ngồi xuống đi. Mình cần phải nói với nhau một vài chuyện.
- Em biết anh sắp sửa nói gì: “Edward, chú làm sao đến nỗi lâm vào con đường cùng này?”
- Lúc này không phải là lúc nói chuyện đó, Ted à. Lúc này còn có chuyện trọng đại hơn sự an nguy của chú.
Tôi nhìn sát vào mặt Ted trong lúc Ted ngồi xuống. Tôi có thể trông thấy rõ Ted không mang dấu vết bệnh hoạn nào sau một thời gian dài bị chích thuốc mê. Tóc trên chiếc đầu bị cạo trọc của Ted đã khởi sự mọc lún phún, và tôi thấy một miếng băng nhỏ dán lên vết thương.
Ted bảo:
- Họ đã kể hết cho em nghe.
- Nhưng chắc bọn chúng chưa kể cho chú nghe chúng đang làm trò gì trên Saint Sudra?
- Chưa. Em chưa nghe chuyện đó.
Khi tôi kể xong, Ted nhìn sững tôi với một đôi mắt mở tròn. Mặt Ted vẫn tỉnh, nhưng mắt đẫm lệ. Ted nhắm nghiền lại. Một giọt nước chảy xuống từ khóe trong của con mắt bên trái. Ted chùi bằng lưng bàn tay và dụi mắt. Trông Ted giống như hình ảnh buổi sáng mùa hè năm xưa khi tôi lôi Ted ra khỏi mấy đứa bé đang bị Ted đánh tơi bời vì bọn chúng đã giết chết ba con mèo con.
Ted nói bằng một giọng nghẹn ngào:
Chúa ơi! Thì ra đó là một điều Jacques đang định kể với em. Em cũng không hề hay biết bọn chúng đã giết Jacques, nhưng dù sao cũng đã quá muộn.
Ted gục đầu vào hai bàn tay, cùi tay chống lên hông ghế.
- Chú đã cho Anson biết cách kiện toàn bộ máy vô hiệu hóa hiện tại của y?
Ted ngửng mặt lên.
- Không, Stuart. Em xin thề với Chúa…
Tôi chận lời:
- Chú làm sao biết được? Chú ở trong tình trạng mê man kể từ khi rời khỏi Hoa Thịnh Đốn kia mà.
- Thế thì em làm sao mà…
- Bọn khốn nạn đó có những thứ thuốc khá công hiệu. Bọn chúng đã thí nghiệm với tôi một lần ở Luân Đôn, và tôi đã phải cho chúng biết điều chúng cần, vô phương chống cự.
- Nếu bọn chúng đã biết được những gì cần biết về mạch điện còn thiếu trong chiếc hộp đen, anh có tin bọn chúng vẫn để cho em sống tới bây giờ hay không?
- Chú nói cũng có lý. Chú ở đây bao lâu rồi?
- Mới đêm hôm qua. Trước đó bọn chúng đã nhốt em ở một nơi nào em không rõ. Em chỉ nhớ mơ hồ em đã nằm trên một chiếc giường nhỏ trong một kho chứa đồ.
Tôi bảo:
- Có lẽ đó là ở Murra. Nhất định chú đã bị chích một thứ thuốc tương tự Scopolamine1 (Chú thích 1: Scopolamine: một hóa chất có ký hiệu C17H21NO1 lấy từ rễ cây scopolia, dùng chung với morphine sẽ khiến người bị chích ngủ mê man (c.t.c.d.g)) mà không hay biết và mất hết lý trí. Đưa tay tôi xem thử - cả hai cánh tay.
Ted liền cuốn tay áo lên. Tôi xem kỹ những mạch máu lớn chạy qua phía trong của cùi tay. Không có dấu kim chích nào như dấu Matuschek đã để lại trên cánh tay của tôi. Nhưng điều này cũng không hoàn toàn xác nhận Ted không bị chích thuốc mê vào người.
- Anson đã nói chuyện với chú sau khi y đánh thức chú dậy? Sau khi chú tới đây?
- Không nói chuyện anh vừa kể. Y chỉ bảo y sẽ triệu tập một hội nghị các kỹ sư điện tử của y. Em đã đoạn định rằng y định bắt em nói một chuyện gì trong ngành điện tử cho đám này nghe. Nhưng em không hỏi tới.
- Thế nào y cũng dở trò. Y chỉ cần chích một mũi thuốc như đã chích cho tôi, và chú sẽ nói, chú tin tôi đi.
- Stuart, em…
- Chú khỏi lo, Ted, tôi cần rõ ngay bây giờ. Chú hãy cho tôi biết hiệu lực chiếc hộp đen của Ménard như thế nào. Bọn chúng hiện đang sử dụng thứ đó.
Ted dần dần tỉnh trí trở lại.
- Nó vừa đủ hiệu nghiệm để bảo vệ hòn đảo này, căn cứ theo lời anh vừa kể cho em nghe về vị trí của đảo. Tầm hoạt động chỉ dưới bốn mươi dặm, như thế nó không thể có tác dụng gì với một hòn đảo gần nhất trong quần đảo Hebrides. Nhưng hiệu lực của nó sẽ rất ghê gớm từ đây cho tới đó, theo độ cao của nơi này.
- Có cách gì tấn công đảo được hay không? Chẳng hạn tiềm thủy đỉnh?
Ted từ từ lắc đầu:
- Không. Tiềm thủy đỉnh có thể được che chở khỏi bị ảnh hưởng của chiếc hộp đen nhờ có nước ở phía trên, tức là khi còn lặn dưới mặt biển. Nhưng khi đã trồi lên rồi thì không còn có thể hoạt động được nữa. Ngay cả hỏa tiễn Polaris cũng không thể phóng đi. Chiếc hộp đen sẽ làm tê liệt các hệ thống hướng dẫn. Nói tóm lại, nếu hỏa tiễn được bắn ra ở gần, hệ thống hướng dẫn không thể hoạt động. Chắc anh đã biết hỏa tiễn Polaris được bắn ra như thế nào: sau khi lên khỏi mặt nước nhiên liệu mới được đốt cháy. Nhưng chiếc hộp đen lại ngăn chặn sự đốt, như thế ở trong tầm hiệu lực của chiếc hộp đen, một hỏa tiễn Polaris sẽ rơi trở xuống biển ngay sau khi nó vừa phóng lên khỏi mặt nước độ chừng mười thước.
- Còn cách đổ bộ lên bãi biển?
- Anson rất có lý về điểm này. Anh phải đưa binh sĩ đến đây bằng tàu ngầm và cho họ ngồi trên những xuồng cao su. Họ sẽ nhốn nháo như những bầy vịt, dù tiềm thủy đỉnh có thể đưa họ tới nơi đổ bộ. Như em vừa nói, tàu ngầm chỉ có thể được che chở trong lúc đang lặn, nhưng nó bắt buộc phải trồi lên. Và khi đó với tác dụng của chiếc hộp đen, em e rằng nó không sao lặn trở xuống được nữa. Quả thật, nó hủy hoại không chừa một cái gì.
- Được rồi, Ted, chú khỏi lo. Còn về…
Ted bỗng chận lời tôi bằng cách hoa bàn tay phải lên và nói:
- Nếu mình cứ tiếp tục nói chuyện mãi, anh không nghĩ rằng tốt hơn hết, mình nên hét lớn cho bọn nghe lén khỏi mất công.
- Tôi không biết khởi sự như thế nào.
- Để cho em.
Nói đoạn Ted lục soát toàn thể căn phòng, không bỏ qua một nơi nào. Ted nhìn phía sau những bức tranh treo trên tường. Ted nhìn dưới bàn ghế, dưới giường, trong lớp lò xo. Ted tháo tung cả lên và vỗ khắp mặt nệm. Tuy không tìm thấy gì lạ, nhưng trước khi Ted ngồi trở xuống Ted vẫn vặn cho nước chảy ào ào trong bồn rửa mặt.
Tôi bảo:
- Xem bộ chú rành nghề quá.
- Ở RIEC em vẫn thương làm trò này.
- Theo ý chú bây giờ mình có thể an tâm chuyện trò?
- Phải. Em không tin mình đang bị nghe lén, nhưng nếu mình bị thật thì tiếng nước chảy ít nhất cũng sẽ át tiếng nói của mình đi phần nào.
- Bây giờ mình hãy nói về các hỏa tiễn dưới hầm chứa. Chú sẽ cùng đi xem với tôi. Chú có thể cho tôi biết đó là thật hay giả.
- Em tin có thể. Em đã từng thực hiện một vài bộ phận trong các hệ thống hướng dẫn hỏa tiễn.
- Chú có thể cho tôi biết cách phá hoại hệ thống kiểm soát?
- Em đã có dịp tháo ráp các hệ thống điều khiển và kiểm soát. Nhưng mình làm sao có thể phá hoại nổi? Chắc chắn bọn chúng canh phòng rất cẩn mật.
Tôi nói:
- Tôi không biết. Tôi chưa có dự tính đó. Tôi chỉ thả vấn đề này vào trong đáy óc để cho tự nó nảy mầm. Chú cũng nên làm như thế.
Ted lo lắng hỏi:
- Stuart, anh không định làm việc này chứ? Em muốn nói chắc anh không có ý định khuyên Thủ Tướng nên nhượng bộ?
- Chú đừng nên điên rồ thêm nữa. Ở trong tình cảnh này tôi biết làm gì khác hơn? Đây không phải là một chuyện tôi có thể tự ý phán xét. Thủ Tướng phải điên khùng lắm mới không chịu nghe lời. Anson không đùa đâu, đó là điều tôi biết rõ. Tôi chỉ còn một việc có thể làm là xóa bỏ ván bài. Cách hay nhất là phá hủy bộ máy vô hiệu hóa, và tìm cách cho Colin Andrew biết máy đã bị phá hủy. Nhưng mình phải tìm hiểu rõ bọn chúng còn một bộ máy nào nữa hay không. Một vấn đề khác là tìm cho ra Monique de Ménard. Cô ta đang bị lâm nguy một cách trầm trọng.
Ted buồn rầu bảo:
- Cô ta hiện ở phòng kế đây. Bọn chúng đã cho em hay.
Tôi suýt phóng mình ra cửa. Nhưng tôi đã tự kềm chế lại.
- Hay lắm. Tôi sẽ thăm cô ta sau, nếu cửa phòng không có khóa. Bây giờ, chú hãy nghe tôi nói đây, Ted. Thời gian chỉ còn rất ít. Ngày mai là kỳ hạn cuối cùng. Tất cả những gì mình có thể làm là tùy cơ ứng biến, trừ phi bộ óc phân tích của chú sáng tạo được một ý kiến kỳ diệu nào. Mình không biết rõ nơi này. Chú cứ việc làm theo tôi, dù chú nhận thấy việc này không được ổn. Tất cả đều tùy thuộc vào yếu tố bất ngờ. Mình sẽ tìm cách phá hoại hoặc làm cho sai lạc đi. Chú nhớ không được hành động theo ý riêng. Hãy cố kiên nhẫn một lần này. Nếu mình có thể phá hoại đúng và thoát khỏi đảo mình sẽ có hy vọng ngăn chận tai họa. Nhưng dù sao cũng lo phá hoại trước đã.
Lần này tôi trông thấy Ted mỉm cười trong lúc trả lời:
- Giống hệt thời xa xưa. Được rồi, em sẽ cùng chơi trò này với anh.
- Tốt. Bây giờ tôi qua phòng bên cạnh.
Nhưng tôi không đủ thời giờ. Có tiếng gõ cửa vang lên. Khi tôi mở ra, Matuschek đứng đó, tay cầm một khẩu tiểu liên. Một người lạ mặt đứng phía sau lưng y.
Y giới thiệu:
- Ông Dunbar, đây là giáo sư Karl Kalwitz. Giáo sư sẽ đưa ông đi xem khu vực hỏa tiễn. Mời ông vui lòng đi ngay.
Tôi hỏi Kalwitz ở cổng vào căn cứ hỏa tiễn:
- Chỉ có một người gác?
Ông ta đáp với nụ cười lơ đãng:
- Cần gì phải canh gác cho nhiều? Có ai lạ vào đây đâu? Nhưng cũng còn một người khác. Anh ta đi tuần ngoài hàng rào chung quanh căn cứ, đúng ra chỉ có ba mặt hàng rào. Gần như không cần thiết.
Ted làm bộ vô tình hỏi:
- Hàng rào điện?
Kalwitz gật đầu.
- Có thể truyền điện vào, nhưng chúng tôi chưa bao giờ cần tới.
Ted đưa mắt nhìn tôi. Tôi lắc đầu. Ted vẫn thường hung hăng lao đầu vào bất cứ chuyện gì. Đó là một trong những lý do người ta đã khuyên Ted hãy bỏ môn túc cầu và tập trung vào môn cầu hồi Ted còn học Đại học đường Virginia. Ted ghét trò lấy banh một cách lịch sự.
Kalwitz dẫn chúng tôi vào trong nhà. Đó là một căn phòng dài, hẹp, xây bằng gạch chịu lửa, trần thấp và soi sáng bằng những ngọn đèn ống. Một dãy gồm mười hai cái tủ điện thẳng hàng trên mặt trong của bức tường tiếp giáp căn cứ đặt hỏa tiễn, phía dưới những khung cửa sổ kiên cố. Tôi trông thấy Ted chăm chú nhìn các tủ điện.
Rồi Ted hỏi Kalwitz:
- Tại sao mỗi hỏa tiễn phải có một tủ điện riêng? Phối hợp làm một đâu có khó khăn gì?
Kalwitz trả lời:
- Đúng thế. Nhưng hệ thống chúng tôi đang dùng là một hệ thống hoàn toàn mới do chúng tôi sáng chế ra. Mục đích đầu tiên là làm cho các hỏa tiễn độc lập đối với nhau, như vậy nếu một tủ điện nào bị trúng đạn của kẻ địch – tuy đây là chuyện tối vô lý – hỏa tiễn sẽ tự động phóng lên. Một mục đích khác nữa là công việc thay đổi chương trình hướng dẫn của mỗi hỏa tiễn sẽ được dễ dàng và nhanh chóng. Ông đến đây để tôi chỉ cho xem.
Tôi nhìn quanh căn phòng trong lúc Ted và Kalwitz cúi xuống quan sát một tủ điện. Tôi bước dọc theo chiều dài của căn phòng, trông thấy máy điện thoại móc trên tường, rõ ràng để liên lạc với những cơ sở khác trên đảo. Ted có vẻ u buồn hơn lúc tôi trở lại nơi hai người đang đứng.
Ted nói với tôi:
- Ông ấy nói đúng.
Đoạn quay sang Kalwitz.
- Tôi đoán loại hỏa tiễn này dùng nhiên liệu đặc.
- Đúng thế. Một loại đặc biệt chế tạo tại Đức. Ở đây chúng tôi không thể dùng lox1 (Lox: oxygen hóa lỏng để dùng để hỗn hợp với nhiên liệu cho hỏa tiễn – c.t.c.d.g) vì nó không được bền. Bây giờ các ông hãy tới đây với tôi. Tôi có chỉ thị cho các ông xem đầu đạn. Tất cả đầu đạn, nếu các ông muốn. Nó chỉ khai hỏa khi nào hỏa tiễn được phóng đi.
Ông ta dẫn chúng tôi trở qua khung cửa duy nhất và đi quanh tới cổng hàng rào. Ông ta mở ỗng khóa vĩ đại và xoay cánh cửa qua một bên rồi bảo:
- Mình bắt đầu với hỏa tiễn gần nhất.
Tới bên cạnh cái nắp hầm hình tròn, ông ta sờ vào một nút bấm trên một tấm bảng gắn cách mặt đất chừng một thước trên một cột sắt. Tôi nghe một tiếng gầm vang lên từ phía dưới đất. Nắp hầm đường kính độ hai thước rưỡi, từ từ mở ra, xoay quanh bản lề. Tôi có thể trông thấy ngay phía dưới miệng hầm, cái mũi bằng của hỏa tiễn với hình dáng thật xấu xí. Kalwitz cúi xuống, hai bàn tay loay hoay một lát bên đầu hỏa tiễn. Cái mũi bằng từ từ mở ra cho đến khi chúng tôi có thể từ chỗ đang đứng trông thấy được những gì ở bên trong. Ted ngồi chồm hỗm xuống và nhìn kỹ. Kalwitz liền bật mấy ngọn đèn ống ở chung quanh mép hầm. Ông ta không nói một tiếng. Lúc này không cần phải nói gì. Mặt của Ted tái mét khi Ted đứng trở dậy.
Ted bảo:
- Được rồi. Như thế là đủ. Tôi đã thấy rõ.
Tôi nói theo:
- Tôi cũng vậy.
Kalwitz vẫy tay quanh một vòng.
- Các ông có muốn xem những cái khác?
Ted lắc đầu:
- Tôi tin lời giáo sư. Có phải tất cả đều được trang bị để đốt cháy không khí?
- Đúng vậy. Với chiều cao độ chừng một ngàn tám trăm bộ1 (1800 bộ (feet) = 540 mét).
- Giống như Nagasaki và Hiroshima?
Kalwitz đáp:
- Tương tự như thế. Nhưng thứ này mạnh hơn nhiều.
Ông ta nhún vai và nhăn mặt. Tôi hiểu rằng ông ta không hứng thú một chút nào với công việc này. Trong một thoáng, tôi chợt nghĩ cách lợi dụng sự chán chường của ông ta. Nhưng hy vọng tiêu tan ngay khi ông ta trả lời câu hỏi cuối cùng của Ted.
Ted nói:
- Tôi muốn hỏi giáo sư những thứ này được chế tạo tại đâu. Nhưng tôi không hy vọng giáo sư sẽ trả lời.
Kalwitz tỏ vẻ buồn rầu:
- Phải. Tôi không được phép trả lời câu hỏi đó, vậy xin ông đừng hỏi nữa. Nhưng ông chắc phải nhớ rằng người Hoa Kỳ đã từ lâu không còn giữ độc quyền nữa. Không phải người ta đã đánh cắp những tài liệu mật. Khi mình đã cho công khai nổ tung một trái bom như thế và cho thấy nó có thể được chế tạo, thì sự bí mật kể như không còn nữa. Bất cứ một nhà vật lý học giỏi nào cũng có thể làm ra được. Và hiện giờ có rất nhiều phương pháp dễ hơn xưa. Khoa học kỹ thuật về khối lượng mà ông thường dùng ngay nay đã lỗi thời. Hiện giờ, ngay cả Do Thái cũng có thể làm bom.
Tôi bảo Ted:
- Ông ấy nói đúng. Một nhà vật lý học Đức mà chúng tôi đã giải thoát khỏi một trong những trại tù binh ở Nagasaki đã nói chuyện đó với tôi hồi tháng Tám 1945.
Chúng tôi không nói gì nữa trong lúc Kalwitz lái xe đưa chúng tôi trở về lâu đài. Vẻ xanh xao, tiều tụy vẫn còn hiện rõ trên khuôn mặt của Ted. Mới cách đây hai mươi phút Ted đã nhìn vào trong cửa địa ngục. Ted đã trông thấy cánh cửa mở ra một chút rồi đóng lại. Ted hiểu rằng lần sau khi đã mở ra được rồi nó sẽ không đóng lại nữa, và Ted phải chịu một phần trách nhiệm. Tôi cũng đã trông thấy, và thật là đau đớn khi biết rằng chính mình đã tiếp tay nối giáo cho giặc.
|
|
|