Trong lúc thay quần áo sau khi cạo râu xong, tôi đứng ngắm vịnh Battlement từ cửa sổ phía trước phòng của tôi. Hôm nay là một ngày u buồn, với một màn sương mỏng trong không khí. Tòa lâu đài như được phủ dưới một tấm khăn, nhưng vẫn không che giấu được vẻ đen tối. Giữa lúc đó một chiếc tàu thấp, dài từ từ cập bến. Nó có một cây cột radio cao và một hình dáng quen thuộc một cách kỳ lạ, nhưng tôi chưa kịp nhớ ra thì nó đã cập hông vào bến tàu. Trên tàu chỉ thấy bóng dáng hai người đàn ông. Một trong hai người khom mình về phía một chiếc cột trên bến tàu để buộc dây. Người kia vẫn đứng ở bánh lái. Về phía mũi tàu có mấy cái giá kỳ lạ thẳng đứng, rõ ràng để đặt súng. Ở giữa tàu là mấy dàn phóng thủy lôi nhưng không mang sẳn thủy lôi. Chiếc tàu rõ ràng là một ngư lôi đỉnh không trang bị vũ khí.
Ngay khi tôi nhận thấy điều này, tên của chiếc tàu chợt nẩy ra trong trí tôi. Đó là một chiếc ngư lôi đỉnh S của quân đội Đức, còn được gọi là ngư lôi đỉnh E trong cuộc Thế Chiến. Tôi có thể liệt kê các đặc tính của nó căn cứ theo ký ức : trọng tải độ sáu mươi tấn, bề dài chừng tám mươi thước, trang bị hai dàn phóng ngư lôi 500 ly, hai đại liên có đầu nặng nửa ký lô, một trung liên hai mươi ly, dàn động cơ dầu cặn M.A.N. có tốc độ lớn hoặc động cơ chạy xăng Daimler-Benz có thể cho một tốc độ khoảng chừng ba mươi lăm gút.
Một trong hai ngươi ngồi chồm hổm sau tấm kiếng chắn gió để đốt ống điếu. Y chưa đốt xong thì người kia đã bước lên cầu tàu. Trong giây lát tôi đã hiểu vì sao. Y vừa trông thấy Monique đi ra khỏi khách sạn. Nàng sải bước băng qua đường, theo sau là người gác cửa mang hành lý cho nàng.
Gã đàn ông từ chiếc ngư lôi đỉnh đi xuống gặp nàng ở giữa đoạn đường trên cầu tàu và lấy hành lý khỏi tay người gác cửa. Y xoay gót một cách nhanh nhẹn và trở về tàu. Monique nói một câu gì đó với y. Nàng quay lại để thưởng tiền cho người gác cửa trong lúc gã đàn ông xách hành lý của nàng vẫn tiếp tục đi không nhìn lui. Người gác cổng kéo nhẹ vành mũ để chào nàng. Monique lại bước về phía chiếc tàu. Tôi ước mong nàng quay lại và nhìn lên nhưng nàng không hề trông lui và vẫn bước đều.
Một lúc sau tôi nghe tiếng cánh cửa trước của khách sạn đóng mạnh. Rồi tôi trông thấy một người thấp nhỏ chạy ra ngoài, băng qua đường về phía bến tàu. Đó là Matuschek. Y nói lớn một chuyện gì với người đàn ông trên tàu. Tôi không thể nghe rõ. Bọn chúng đợi y. Một trong hai gã đưa một bàn tay cho y để kéo y lên, rồi quay sang đưa tay cho Monique. Nàng nhìn y không nói và bước lên một cách dễ dàng, rồi nhanh nhẹn nhảy vào trong tàu.
Tôi chăm chú nhìn bọn chúng tháo dây và cho động cơ lên tốc độ, quay tàu ra cửa bến. Hình ảnh cuối cùng của Monique mà tôi còn được thấy là một cánh tay đưa lên phía trên khuôn mặt nàng lúc này chỉ là một vết mờ màu trắng.
Người gác cổng nói với tôi :
- Bây giờ không phải là mùa thích hợp với một cuộc ngoạn cảnh chung quanh đảo. Tại sao ông không đi chuyến tàu hơi nước cho tiện? Ngày mai nó lại khởi hành.
Tôi bảo :
- Không được. Có lẻ tôi phải trở về Glasgow bằng chuyến tàu đó, nhưng tôi muốn xem qua Murra trước đã.
- Ồ, được chứ. Tôi chỉ có thể giúp ông một ý kiến là hãy gọi điện thoại cho Archibald MacLeod. Mặc dầu tôi không thể biết chắc cậu ấy có chịu đi hay không, bởi vì chỉ thỉnh thoảng cậu ấy mới cho mướn xuồng máy. Cậu ấy đang chuẩn bị xuồng sẵn sàng cho mùa hè sắp tới. Ông có thể gọi điện thoại đến Lâu đài Battle và hỏi thử xem.
Một giọng nói đàn bà cho tôi hay Archibald MacLeod không có mặt ở nhà. Bà ta cho tôi số điện thoại xưởng tàu ở Lingay, về phía bên kia vịnh, nơi anh ta đang lo tô điểm cho chiếc thuyền buồm.
Chiếc Ailsa tiến vào bến tàu lúc gần mười hai giờ trưa với mấy cây cột trơ trụi và chỉ chạy một động cơ phụ nhỏ. Đó là một xuồng máy xinh đẹp chỉ dài độ mười thước. Một trong hai thanh niên rất trẻ trèo lên cầu tàu và đưa bàn tay cho tôi, rồi nói ngay :
- Tôi là Archibald Sinclair MacLeod. Đây là em tôi, tên Eric.
Archie vào khoảng hai mươi hai tuổi, còn Eric mới độ chừng mười tám. Cả hai đều sạm nắng dường như suốt ngày chỉ ở ngòai trời, từ mùa hè cho chí mùa đông. Archie bằng lòng đi ăn trưa với tôi, nhưng anh ta muốn Eric chờ trên tàu.
Anh ta giải thích :
- Chung quanh đây có nhiều người lạ quá.
Anh ta và cô bé Campbell mĩm cười với nhau dường như họ là một đôi bạn thân, nhưng anh ta rất ít nói cho đến lúc chúng tôi ăn gần xong bữa ăn trưa. Anh ta lắng nghe tôi nói một cách lễ độ, thỉnh thoảng gật đầu.
Tôi đi vào điểm chính :
- Tôi sẽ trả cho anh mỗi giờ một guinea, thêm tiền xăng.
- Ông Dunbar, ông cho nhiều như thế, làm sao chúng tôi từ chối cho được. Chúng tôi cũng đang cần tiền. Chúng tôi sắp sửa đưa chiếc Ailsa tham dự cuộc đua xuyên Đại-tây-dương tổ chức vào mùa hè năm nay. Nếu ông muốn, mình có thể lên đường ngay sau khi ăn trưa xong. Nhưng ông có thể cho tôi biết ông sẽ làm cách nào để trở về đây được?
- Mấy người bạn của tôi trên Saint Sudra sẽ đưa tôi về khi tôi xong việc.
Anh ta nhìn sửng tôi một cách ký lạ và tiếp tục ăn không nói gì nữa. Rõ ràng anh ta đang nghĩ tôi điên nên mới tin tưởng sẽ nhờ được bạn bè trên một hòn đảo không có người ở đưa tôi trở về Murra. Nhưng anh ta muốn giữ lễ độ nên không dám tỏ thật điều đó. Tuy nhiên cuối cùng anh ta vẫn nói khéo :
- Ông nên biết, không có đường điện thoại liên lạc với Saint Sudra. Như vậy ông không thể gọi tôi đến đón ông. Có lẽ hay nhất là tôi chạy loanh quanh ngoai khơi một vài ngày chờ ông.
Tôi bảo :
- Khỏi cần, Arch à. Nhưng dù sao tôi cũng cám ơn anh đã nghĩ tới chuyện đó.
Anh ta lại nhắc nhở chuyện này một lần nữa trên đường đi tới Saint Sudra. Anh ta chăm chú nhìn trời một hồi, có vẻ vừa ý với thời tiết vì lúc này một chút nắng đã hiện ra. Anh ta vẫn chưa giăng buồm. Thỉnh thoảng mới có một cơn gió nhẹ thổi qua làm cho mặt nước gơn lăn tăn. Từng làn sóng dài của Đại-tây-dương nâng nhẹ mũi chiếc Ailsa lên trong lúc chúng tuần tự chuồi vào phía dưới lườn tàu. Archie và Eric cùng cầm bánh lái.
Archie chợt hỏi :
- Có phải ông là người Mỹ.
- Phải. Nhưng tổ tiên tôi là người Tô-cách-lan.
- Tôi không có ý ám chỉ những người Mỹ đều điên. Chính chúng tôi, Eric và tôi cũng có một nửa phần Mỹ. Ba chúng tôi là người Mỹ. Nhưng chắc ông đã biết rằng trên Saint Sudra không có ai ở suốt ba chục năm nay?
- Phải. Nhưng hiện giờ ở đó có người. Có thể tạm gọi là một đoàn thám hiểm khoa học.
Anh ta nhìn tôi với vẻ hòai nghi.
Tôi liền nói :
- Trông anh có vẻ không tin lời tôi. Ở Murra các anh không để ý thấy gì lạ hay sao? Chẳng hạn có ai đến mua đồ tiếp liệu, thực phẩm?
Anh ta trầm ngâm bảo :
- Có một kho hàng mới thành lập ở Sternholm nhưng không một ai biết gi về bên trong. Trên nóc có cả một cột radio lớn trông thật kỳ lạ. Nhưng chung quanh đó xe cộ rất ít qua lại, và tôi không hề biết một ai từ Sudra đến. Không chừng Eric có thấy ai.
Eric liền nói :
- Không hề. Em không biết một người nào ở đó.
Cả Archie và Eric đều uốn giọng gần đúng tiếng Anh chính hiệu. Tôi nghĩ chắc hai anh em đã từng đi học tại đó.
Archie ngước mắt nhìn trời, kêu lên :
- Xem kìa, tôi tin chắc mình sắp gặp gió lớn. Như thế sẽ giúp cho ông đỡ tốn một mớ xăng.
Anh ta đi về phía trước với Eric và hai anh em cùng kéo buồm lên một cách nhanh nhẹn. Anh ta đoán rất đúng. Gần như ngay lúc đó một ngọn gió đông nam nổi lên. Trong phút chốc, chiếc xuồng đã có một tốc độ lên đến mười lăm gút, nhanh hơn cả khi có máy chạy. Tôi tin tưởng có thể cá chiếc Ailsa sẽ thắng cuộc đua xuyên Đại-tây-dương, nếu Archie nắm bánh lái.
Tôi hỏi Archie anh ta có thể đưa tôi vào Vịnh Gentry theo ngả Friday Sound và eo biển Lunna hay không.
Anh ta đáp :
- Dễ quá mà. Ngả đó cũng không khác ngả mình hiện theo bao nhiêu. Tôi chỉ ước mong gió cứ thổi mãi như thế này.
Tôi cũng ước mong điều đó khi nhớ đến hệ thống điện tử có thể làm tê liệt động cơ của chiếc Ailsa.
Lúc năm giờ thì chúng tôi vào eo biển. Tôi quan sát bãi biển một cách kỹ càng với cặp ống nhòm của Archie cho tôi mượn. Andrews đã nhớ nơi này rất chính xác. Đây là một bãi biển khá sâu với bờ dốc thoai thoải có cát trắng và lởm chởm những đá. Về phía bên kia bãi cát chạy dài một bờ đá cao khoảng chừng bốn thước tây, có nơi lên tới sáu thước, có nơi chỉ độ ba thước, nhưng trung bình là bốn thước. Bờ đá thỉnh thoảng bị tách rời ra bởi một lằn nứt sâu từ trên đỉnh xuống tận dưới đáy. Bãi biển nơi tôi phải đến gặp Andrews và chiếc xuồng máy của ông ta rất dễ nhận thấy ở mút đông bắc, gần đảo Lunna.
Archie chăm chú nhìn tôi trong lúc tôi hướng ống nhòm về phía bãi biển.
Tôi giải thích :
- Tôi chỉ muốn xem thử có thể lội được hay không.
Anh ta nói ngay :
- Ông phải hết sức cẩn thận. Khỏi dấu thủy triều thấp chừng mấy thước, đáy biển thụt xuống không sâu lắm.
- Sâu bao nhiêu?
Eric trả lời sau khi xem lại bản đồ.
- Một trăm fathom, ở chính giữa eo biển.
Tôi le lưỡi :
- Một trăm tám chục thước tây!
Eric mỉm một nụ cười thú vị trước vẻ kinh hoảng của tôi :
- Thưa ông, đúng như vậy. Tuy nhiên, ra khỏi dấu thủy triều thấp, khởi đầu đáy biển chỉ xuống sâu rất nhanh tới bốn mươi fathom.
Lối vào vịnh Gentry chỉ rộng chừng 1.600 thước giữa mũi Pentland và đảo Nossie. Trong lúc chúng tôi quay vào cửa vịnh, tôi phỏng đoán làng Bragawick chỉ cách chúng tôi vào khoảng ba cây số. Với cặp ống nhòm, tôi có thể trông thấy nhiều ụ dọc theo một cầu tàu duy nhất. Bốn chiếc ngư lôi đỉnh S đang đậu ở bốn ụ, cùng với mấy chiếc tuần dương đỉnh. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên nhất là một chiếc tàu hàng khá lớn đang bỏ neo trong vịnh cách bến tàu gần một cây số, như đang ngồi lên khỏi mặt nước, phô bày những mảnh sắt gỉ. Quang cảnh có vẻ rộng rịp trên các boong tàu trong ánh sáng đang giảm dần. Một bọn đàn ông đang đưa hàng hóa xuống nhiều chiếc xà lan bằng những cây cần trục.
Archie nhìn tôi.
- Tôi xin rút lại lời tôi đã nói không có ai trên Sudra. Chiếc tàu hàng nào vậy ông?
Eric đáp trước :
- Đó là chiếc Star of Aden, khởi hành từ Alexandria.
Tôi nhìn anh ta, vô cùng ngạc nhiên. Chỉ mình tôi có ống nhòm, và chính tôi còn không đọc nổi tên.
Archie bật cười :
Eric vẫn được nhiều người gọi là Mắt Ó. Nó có thể thấy rõ mọi vật ở cách xa trên ba cây số bằng mắt trần trong lúc tôi không thấy rõ quá một cây số rưỡi dù có ống nhòm.
Eric bảo :
- Tàu đang chuẩn bị rời bến. |
|
|