SĂN VOI Tôi không định kể ra đây một cách tỉ mỉ tất cả những chuyện xảy ra với chúng tôi trong suốt quãng đường dài đến làng Xitandi cách Durban hơn một nghìn dặm, nơi hai con sông Lucanga và Caliuxve gặp nhau. Ba trăm dặm cuối cùng hay cũng gần như thế, chúng tôi buộc phải đi bộ vì lúc này thường xuyên xuất hiện loại ruồi xêxê kinh khủng có nọc độc làm chết tất cả các loài vật, trừ lừa.
Chúng tôi rời Durban vào cuối tháng giêng, và khi hạ trại gần làng Xitandi đã là tuần thứ hai của tháng năm. Dọc đường chúng tôi gặp nhiều chuyện kì lạ khác nhau, nhưng bởi lẽ những chuyện như thế vẫn xảy ra với bất kì người nào làm nghề săn bắn ở châu Phi, nên để cuốn sách của tôi đỡ buồn chán, tôi chỉ xin phép được kể tỉ mỉ về một chuyện.
Ơ Ainaiti - Điểm buôn bán cuối cùng của xứ Motabl do vua Lobendula cai trị (Nhân tiện cũng nói thêm rằng hắn là một thằng láo lếu kinh khủng) - Mặc dù rất tiếc, chúng tôi vẫn buộc phải chia tay với cỗ xe tiện lợi của mình. Đàn bò tuyệt vời gồm hai mươi con chúng tôi mua ở Durban nay chỉ còn lại mười hai con. Một con chết vì rắn hổ mang cắn, hai con vì đói và thiếu nước, một con lạc rồi mất, ba con còn lại thì chết vì ăn phải thứ cỏ độc thuộc họ uất kim cương. Cũng vì loại cỏ ấy mà năm con khác bị bệnh, nhưng chúng tôi đã chữa khỏi bằng cách cho uống nước lá uất kim cương. Nếu dùng kịp thời, thì đây là một loại thuốc giải độc rất công hiệu. Cỗ xe và đàn bò chúng tôi giao trực tiếp cho Hôxa và Tôm, là những chàng trai có thể tin được, còn các tài sản khác thì trước đó chúng tôi đã nhò một nhà truyền đạo người Xcôtlan sống ở vùng đất hoang dã này trông coi. Sau đó, với sự hộ tống của Ambov, Hiva, Venfogen và nửa tá những người khuân đồ Caphơ khác, chúng tôi đi bộ tiếp, để thực hiện cái ý định điên rồ của mình.
Tôi nhớ là lúc lên đường, chúng tôi đều im lặng trong một hồi lâu. Chắc lúc ấy người nào cũng nghĩ rằng khó mà được nhìn lại cỗ xe một lần nữa. Còn tôi thì tôi tin một cách chắc chắn là như thế. Chúng tôi lặng lẽ bước đi. Bỗng Ambov đang đi phía trước hát lên một bài hát Dulux nói về chuyện có mấy người dũng cảm do chán cuộc sống đơn điệu hàng ngày và các đồ vật quá thân quen, đã lên đường đi vào sa mạc mênh mông để tìm một cái gì đấy mới lạ ở đó, hoặc sẽ chết. Và khi đã vào sâu trong sa mạc và đang thất vọng thì - Ôi, thật là kì diệu, - Họ bỗng nhận ra rằng đây không phải là sa mạc, mà là một vùng đất tuyệt vời, nơi có nhiều phụ nữ trẻ và súc vật béo tốt, nhiều muông thú để săn bắn và nhiều kẻ thù để chém giết.
Tất cả chúng tôi trở nên vui vẻ và cho đó là một điều lành. Ambov là người vui tính. Kể ra thỉnh thoảng anh ta lại rơi vào một trạng thái buồn bã, ảm đạm nhưng nói chung là người rất biết kích thích lòng nhiệt tình và sự sảng khoái của người khác, thêm vào đó, anh ta bao giờ cũng có ý thức tự trọng. Tất cả chúng tôi đều yêu mến anh ta.
Bây giờ tôi lấy làm sung sướng được kể ra đây một câu chuyện, vì thú thật tôi là người rất thích các câu chuyện về săn bắn.
Từ Ainaiti đi được hai ngày đường thì chúng tôi gặp một chỗ xinh đẹp một cách đáng ngạc nhiên. Đất ở đây ẩm ướt. Các ngọn đồi cao đứng bên nhau tạo thành những chiếc khe mọc đầy các bụi gai aidor (dân bản xứ gọi giống cây này là thế), hoặc các bụi wachteenbeihe(hãy chờ một chút). Ơ đấy cũng mọc nhiều cây machahen tuyệt đẹp với những chùm quả chín vàng bên trong có những chiếc hạt dẹt rất lớn. Thứ quả này là món ăn được voi đặc biệt ưa thích. Ơ vùng này có voi, điều ấy dễ dàng nhận thấy qua các dấu chân của chúng, cũng như qua việc nhiều nơi cây cối bị bẻ gãy, vì như ta biết, khi ăn, voi thường tàn phá hết mọi cái xung quanh.
Một chiều nọ, sau một ngày đi xa và mệt, chúng tôi bước ra một vùng đất đẹp đến kì lạ. Dưới chân ngọn đồi mọc đầy bụi gai là một khúc sông đã khô cạn nhưng vẫn còn đôi vũng nước trong vắt như pha lê, xung quanh in nhiều dấu chân thú. Phía trước đồi là một vùng bằng phẳng trông như công viên, có cây trinh nữ với những chiếc tán bằng phẳng, mọc thành từng cụm, chính giữa là những cây machahen lá lấp lánh. Vừa ra tới con đường men theo bờ sông, chúng tôi đã làm hoảng sợ cả một đàn hươu cao cổ đang ngật ngưỡng đi một cách thật buồn cười, đuôi uốn lên cao. Khi chúng cách chúng tôi gần ba trăm mét, tức là ở quãng xa hầu như súng bắn không tới, thì Huđơ, lúc này đang đi phía trước đã không kìm được nữa. Ông ta nâng súng lên, nạp đạn rồi bắn vào con cái chạy cuối cùng. Bằng một phép lạ nào đó, viên đạn trúng ngay vào cổ, làm gãy cột xương sống và con hươu ngã lộn vòng tròn như một chú thỏ. Chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh tượng kì lạ như thế.
- Quỷ tha ma bắt nó đi!- Thuyền trưởng Huđơ kêu to. (Tôi rất lấy làm tiếc là mỗi lần hồi hộp, theo thói quen, ông ta lại văng ra nhiều chữ không thật tế nhị lắm mà chắc ông ta đã học được trong bước đường công danh thủy binh của mình). - Quỷ tha ma bắt nó đi! Chính tôi đã bắn chết nó!
- Ou, Bugwan! (Vâng, thưa Buguan!) - Những người khuân đồ người Caphơ kêu lên. - Ou, ou! (vâng, vâng!).
Họ gọi Huđơ là Buguan (“Mắt thủy tinh”) vì ông ta đeo kính một mắt.
- Vâng, Buguan! - Như tiếng vọng, tôi và Henry phụ theo.
Từ ngày hôm ấy Huđơ nổi tiếng, ít nhất là trong đám người Caphơ, là một tay thiện xạ kì tài. Thực ra ông ta bắn khá tồi, nhưng sau đấy chúng tôi chẳng bao giờ để ý tới các lần ông ta bắn trượt, mà chỉ nhớ mãi phát súng tuyệt diệu nọ.
Sau khi sai một vài người giúp việc cắt lấy những phần thịt ngon nhất, chúng tôi bắt tay vào làm bờ rào ngăn chỗ nghỉ cách gần một trăm mét phía bên phải một vũng nước. Công việc được tiến hành như thế này: Chúng tôi chặt một khối lượng lớn các cây gai chất thành một vòng tròn. Khoảng trống ở giữa được san bằng, chính giữa chúng tôi làm một chiếc giường bằng cỏ tambuca đã khô, tất nhiên nếu xung quanh có thứ cỏ ấy, rồi đốt một hoặc vài đống lửa. Khi chỗ nghỉ được chuẩn bị xong, thì trăng đã lên và bữa cơm tối gồm bít tết thịt hươu và xương sọ rán cũng đã sẵn sàng. Chúng tôi ăn một cách ngon lành món xương sọ ấy, dù thực ra đập vỡ chúng không phải là một việc dễ.
Trong đời, tôi chưa ăn cái gì ngon hơn óc hươu cao cổ, tất nhiên trừ món tim voi mà ngay ngày hôm sau chúng tôi đã được thưởng thức.
Dưới ánh trăng tròn vành vạnh, chúng tôi ngồi bên bàn tiệc khiêm tốn của mình, chốc chốc lại ngừng ăn để lần nữa cảm ơn ông thuyền trưởng đã bắn một phát súng lịch sử. Sau đấy chúng tôi hút thuốc và bắt đầu nói chuyện gẫu. Ai nhìn chúng tôi ngồi xổm xung quanh đống lửa lúc ấy chắc phải cho là kì dị lắm.
Cái đập vào mắt trước tiên là sự tương phản giữa tôi và Henry. Tôi gầy, người nhỏ, da ngăm ngăm, mái tóc bạc dựng đứng như răng lược, và cân nặng chỉ sáu mươi kilôgam, còn Henry thì người cao to, vai rộng, tóc vàng và cân nặng gần chín mươi lăm kilôgam. Nhưng nếu nhìn nhận vấn đề từ mọi khía cạnh thì phải nói rằng nổi bật hơn cả trong ba chúng tôi là thuyền trưởng Giôn Huđơ, cựu sĩ quan của Hạm đội Nữ hoàng Anh. Ông ta ngồi trên chiếc túi da, và tôi có cảm tưởng như ông ta vừa quay về sau một ngày đi săn vui vẻ ở một nước văn minh nào đó, vì trông ông ta hoàn toàn sạch sẽ, cẩn thận và ăn mặc rất chải chuốt. Ông ta mặc bộ quần áo đi săn may bằng vải len màu nâu sẫm, đội chiếc mũ cùng màu, chân đi đôi tất dài tận gối. Nói chung, tôi chưa bao giờ nhìn thấy ở sa mạc Châu Phi hoang dã một người nào râu ria nhẵn nhụi, gọn ghẽ và hào hoa như thế. Bộ răng giả của ông ta cũng không chê vào đâu được và ở mắt phải, như thường lệ, vẫn cái kính một mắt độc đáo ấy. Ông ta thậm chí không quên đeo chiếc cổ áo hồ cứng trắng như tuyết mà ông ta mang theo dự trữ rất nhiều.
- Ông biết đấy, chúng rất nhẹ, - Huđơ thật thà bảo tôi khi tôi tỏ ý ngạc nhiên về chuyện này. - Mà tôi thì lại thích ăn mặc lịch sự.
Cứ thế, chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau dưới ánh trăng huyền diệu, trong khi cách chúng tôi mấy mét, những người Caphơ ngồi bình thản hút thứ thuốc ngây ngất từ chiếc tẩu được làm bằng sừng sơn dương Nam Phi. Cuối cùng, hết người này đến người kia, họ ngủ thiếp bên đống lửa, chỉ Ambov là không. Anh ta ngồi tách ra một bên, đầu gục lên gối và đang suy nghĩ điều gì rất lung (Tôi đã kịp nhận thấy rằng anh ta ít khi thích tiếp xúc với người Caphơ).
Bỗng từ những bụi rậm phía sau chúng tôi có tiếng gầm to vang lên.
- Sư tử. - Tôi nói.
Tất cả chúng tôi đều vùng dậy và lắng nghe.
Ngay lúc ấy từ phía vũng nước cách chúng tôi khoảng một trăm mét vọng lại tiếng voi rống rất to.
- Uncungunclovo Indlovu! (Voi! Voi!) - những người Caphơ thì thầm bảo nhau. Mấy phút sau chúng tôi nhìn thấy một đoàn dài những thân hình đồ sộ, mờ mờ đang từ từ đi về phía các bụi rậm. Huđơ vùng dậy với vẻ hiếu chiến cực kì, chắc ông ta nghĩ giết voi cũng dễ như giết con hươu cao cổ mà ông ta đã may mắn bắn trúng, nhưng tôi liền nắm tay ông ta và bắt ngồi xuống.
- Trong bất kì trường hợp nào cũng không được động đậy. - Tôi nói - Cứ để chúng đi qua.
- Hóa ra đây là thiên đường cho người đi săn! Tôi sẵn sàng đề nghị dừng lại ở đây vài ngày để săn thú, - Henry bỗng lên tiếng.
Nghe thế, tôi lấy làm ngạc nhiên vì từ trước đến giờ Henry luôn giục đi về phía trước, nhất là sau khi ở Ainaiti chúng tôi nghe nói rằng cách đây hai năm có một người Anh tên là Nevin đã bán xe và bò của mình ở đấy để đi sâu vào nội địa. Tôi cho rằng lúc này cái bản năng săn bắn của ông đã thắng. Huđơ vội vàng sung sướng tóm lấy đề nghị ấy, vì từ lâu ông ta đã mơ ước được săn voi. Cả tôi, thú thật, tôi cũng mơ ước về điều đó, vì không thể nào chịu nổi ý nghĩ rằng chúng tôi có thể dễ dàng để cả một đàn voi như thế đi ngang một cách an toàn mà không chớp lấy thời cơ để săn bắn chút ít. - Thôi, cũng được, các bạn ạ, - Tôi nói. - Tôi cho là ta dừng lại nghỉ ngơi chút ít cũng chẳng sao. Còn bây giờ thì đi ngủ, vì mai ta phải dậy sớm trước lúc mặt trời mọc. Lúc ấy có thể ta sẽ gặp đàn voi đang ăn, trước khi chúng đi tiếp.
Tất cả đều đồng ý với ý kiến của tôi, và chuẩn bị đi ngủ. Huđơ cởi quần áo, phủi sạch bụi, rồi giấu chiếc kính một mắt và bộ răng giả vào túi quần. Ông ta sắp xếp mọi đồ đạc của mình một cách cẩn thận rồi cất vào chỗ không có sương rơi xuống, sau khi đã che kĩ bằng một góc của tấm vải trải giường không thấm nước. Tôi và Henry thì bằng lòng với cái tính dễ dãi của mình trong việc thu dọn, và chẳng bao lâu đã trùm chăn ngủ một giấc say sưa không mộng mị rất cần cho những người du hành.
Và cả trong giấc ngủ, chúng tôi cũng có cảm giác như mình đang đi, đi, đi mãi... Nhưng cái gì thế nhỉ? Bỗng từ phía có nước vọng đến tiếng động của một cuộc vật lộn chí tử, và chỉ một giây sau đã vang lên một tiếng gầm khủng khiếp. Rõ ràng đấy chỉ có thể là tiếng gầm của sư tử. Tất cả chúng tôi đều vùng dậy, nhìn về phía có tiếng động, và thấy một mớ hỗn độn vừa vàng vừa đen quay cuồng trong trận sống mái và đang tiến dần về phía chúng tôi. Chúng tôi vơ lấy súng và vừa vội vàng đi giày Vendxcun (Một loại giầy da mềm) vừa chạy ra. Đến lúc ấy hai con vật đánh nhau đã ngã và đang lăn tròn mấy vòng trên cỏ. Khi chúng tôi tới nơi thì cuộc vật lộn đã kết thúc.
Sau đây là những gì chúng tôi đã nhìn thấy: Trên bãi cỏ là một con sơn dương đực chết đang nằm; nó thuộc giống đẹp nhất trong tất cả các giống sơn dương có ở Châu Phi. Một con sư tử tuyệt đẹp lông bờm đen cũng chết, sau khi bị cặp sừng cong nhọn của con sơn dương đâm thủng bụng. Có lẽ tất cả xẩy ra như sau: Con sơn dương đi đến uống nước ở nơi đã có một con sư tử đang ngồi rình sẵn từ trước. Chắc chắn đó là con mà chúng tôi nghe gầm đêm qua. Khi sơn dương cúi xuống uống nước thì sư tử nhảy ra vồ, không may lại rơi đúng vào cặp sừng nhọn và bị đâm xuyên người. Ngày trước, một lần tôi cũng được chứng kiến một cảnh tương tự. Không làm cách nào để dãy ra được, sư tử cào cấu lưng và cổ con sơn dương, còn sơn dương thì kinh hoàng vì sợ và đau, đã lồng lên chạy, cho đến khi ngã xuống chết.
Sau khi xem xét tỉ mỉ xác hai con vật, chúng tôi gọi những người khuân vác và giúp việc tới rồi cùng nhau kéo chúng về chỗ đóng trại, chui vào giường ngủ tiếp, nhưng nằm thao thức mãi cho đến lúc mặt trời mọc.
Cùng những tia nắng đầu tiên, chúng tôi dậy và sửa soạn đi săn, mang theo ba khẩu súng cỡ lớn cùng khá nhiều đạn và những chiếc bình thủy tinh đựng nước chè pha loãng, mà tôi luôn cho là thứ nước tốt nhất để uống trong các cuộc săn bắn. Ăn sáng xong một cách vội vàng, chúng tôi liền lên đường. Đi theo chúng tôi có Ambov, Hiva và Venfogen. Những người khuân đồ thì chúng tôi cho ở nhà để lột da con sư tử và con sơn dương, chặt thịt con sơn dương thành nhiều miếng nhỏ.
Chúng tôi tìm thấy con đường rộng đàn voi đã đi qua không khó lắm. Venfogen quan sát một lúc rồi nói đàn voi có khoảng hai mươi, ba mươi con, phần lớn là voi đực đã trưởng thành.
Trong đêm, đàn voi đã kịp bỏ chúng tôi một quãng tương đối xa, và chỉ đến chín giờ, khi cái nóng đã trở nên ngột ngạt không chịu nổi, chúng tôi mới nhìn thấy những thân cây bị bẻ gẫy, những cành lá bị vặt trụi và cả những bãi phân còn bốc khói; nghĩa là đàn voi đang quanh quẩn đâu đây.
Bỗng chúng tôi tìm ra đàn voi, đúng như Venfogen nói, độ hai mươi, ba mươi con. Vừa ăn sáng xong, chúng đang đứng giữa bãi trũng, vẫy vẫy những cái tai to lớn. Một cảnh tượng thật đáng nhớ!
Bầy voi đứng cách chúng tôi khoảng hai trăm mét. Tôi lấy một ít sợi cỏ khô tung lên trời để xác định gió thổi về chiều nào, vì tôi biết nếu ngửi thấy có người chúng sẽ bỏ chạy mất hút trước khi kịp bắn.
Sau khi xác định được chiều gió thổi, chúng tôi bắt đầu thận trọng bò lên phía trước, và nhờ có cỏ mọc cao che khuất, chúng tôi đã bò tới rất gần, chỉ còn cách khoảng bốn mươi mét. Đúng lúc ấy ba con đực đứng quay hông về phía chúng tôi, một con có bộ ngà rất to. Tôi khẽ nói rằng tôi sẽ ngắm bắn con đứng giữa: Henry con bên trái, còn Huđơ con có bộ ngà lớn.
- Nào, bắt đầu, - Tôi ra hiệu.
Bum! Bum! Bum!- Cả ba khẩu cùng vang lên một lúc. Con voi của Henry chết ngay - Viên đạn trúng tim. Còn con của tôi quỳ xuống và tôi nghĩ rằng nó đã bị bắn tử thương, nhưng chỉ mấy giây sau nó lại đứng dậy và bỏ chạy, suýt nữa thì dẫm phải tôi. Tôi liền bắn nòng thứ hai vào sườn nó, và lần này thì nó ngã thật. Nhanh chóng cho hai viên mới vào nòng, tôi chạy lại gần bên rồi bắn viên thứ ba vào đầu nó, kết thúc mọi đau đớn của con vật tội nghiệp. Sau đó tôi quay lại để xem xem Huđơ đã giải quyết con voi to lớn của mình như thế nào. Con này kêu rống lên vì đau khi tôi kết liễu con voi của mình. Khi đến nơi, tôi thấy Huđơ đang ở trong tình trạng vô cùng hồi hộp. Hóa ra bị bắn bị thương từ viên đạn đầu, con voi quay lại và chạy thẳng về phía kẻ thù của mình, may lắm Huđơ mới kịp né tránh. Rồi nó bỏ chạy về phía trại của chúng tôi, chạy thẳng không theo đường cũ. Còn đàn voi thì hoảng sợ bỏ chạy tán loạn về phía đối diện.
Chúng tôi hội ý với nhau xem nên đuổi theo con voi bị thương hay cả đàn voi, và cuối cùng quyết định đuổi theo đàn. Chúng tôi đi tiếp, thầm nghĩ rằng chẳng bao giờ còn được nhìn lại đôi ngà khổng lồ ấy nữa. Mà thực ra, nếu thế lại càng tốt hơn. Đuổi theo đàn voi không phải là việc khó lắm vì chúng để lại sau mình một luồng đi khá rộng, thêm vào đó, trong khi chạy hoảng loạn, chúng bẻ gẫy và dẫm nát các bụi cây, trông cứ như một đống cỏ tambuki.
Nhưng lại gần được chúng không phải là chuyện dễ. Chúng tôi đã đi trong hai giờ liền dưới mặt trời nóng như thiêu như đốt, cuối cùng mới nhìn thấy chúng. Trừ một con đực đứng tách riêng, cả đàn tụm vào một chỗ, và căn cứ vào những động tác lo lắng và những cái vòi giơ lên cao hít hít không khí của chúng, tôi hiểu rằng chúng đang âm mưu một chuyện gì đó chẳng lành. Con đực đứng tách riêng chắc là để gác phòng, cách đàn chừng mười lăm mét và cách chúng tôi mười sáu mét. Nghĩ rằng nếu chúng tôi đến gần hơn, nó sẽ phát hiện hay ngửi thấy, và lúc ấy cả đàn sẽ lại bỏ chạy, tất cả chúng tôi quyết định cùng ngắm vào nó, và theo lệnh của tôi, cả ba khẩu súng cùng nổ. Không một viên nào chệch, con vật ngã xuống chết ngay. Đàn voi lại bỏ chạy, nhưng thật không may cho chúng, chạy được một trăm mét thì gặp một dòng sông cạn nước hai bờ dựng đứng. Đang chạy nhanh không kịp dừng, cả đàn rơi xuống đó. Chúng tôi đến nơi thì thấy chúng đang trong tình trạng vô cùng hỗn loạn, con nào cũng hành động theo bản năng tự vệ ích kỷ của nó, chúng cũng chen lấn như phần lớn con người chúng ta trong những trường hợp tương tự.
Bây giờ là thời cơ thuận tiện nhất. Chúng tôi vội vàng lên đạn, bắn và giết thêm năm con vật đáng thương nữa. Tất nhiên chúng tôi có thể giết hết cả đàn nếu chúng không đột nhiên ngừng không cố leo lên bờ bên kia nữa và bỏ chạy dọc theo lòng sông. Chúng tôi đã quá mệt, nên không muốn đuổi theo mà cũng có thể do chúng tôi đã kịp chán cái cảnh chém giết thế này, vả lại đối với một ngày đi săn tám con voi không phải là kết quả quá tồi.
Ngồi nghỉ một lúc để những người giúp việc của chúng tôi cắt lấy tim hai con voi dùng nấu ăn bữa tối, chúng tôi hài lòng đi về trại, với ý định sáng hôm sau cho đám người khuân đồ đến đây cưa lấy ngà của những con voi bị giết chết.
Chẳng bao lâu sau đó, khi đến chỗ Huđơ bắn bị thương con voi đực đầu đàn, chúng tôi gặp một đàn sơn dương, nhưng không bắn, vì đã có quá nhiều thịt. Chúng chạy ngang qua chúng tôi rồi dừng lại sau một bụi cây để nhìn chúng tôi. Thuyền trưởng Huđơ rất muốn được nhìn kĩ chúng từ khoảng cách gần, vì trước đấy ông ta chưa bao giờ thấy sơn dương Nam Phi. Ông ta đưa súng cho Ambov, rồi cùng với Hiva đi về phía bụi cây. Chúng tôi ngồi chờ Huđơ thích thú vì đã tìm được cớ để nghỉ ngơi chút ít.
Mặt trời to tròn, đỏ rực đang lặn, và trong khi tôi và Henry đang thích thú ngắm nhìn cảnh đẹp thì bỗng nghe tiếng gầm, rồi liền đó nhìn thấy thân hình to lớn của con voi đầu đàn. Nó lao vào tấn công với chiếc vòi giơ cao, in rất rõ trên nền trời có mặt trời màu đỏ đang lặn.
Một giây sau chúng tôi thấy Huđơ và Hiva đang chạy bán sống bán chết về phía chúng tôi. Con voi bị thương (chính là con đầu đàn nọ) đuổi theo. Ngay lập tức chúng tôi quyết định không bắn vì sợ nhỡ trúng vào hai người, mà thực ra có bắn cũng không mấy kết quả, vì xa quá.
Một giây sau nữa đã xẩy ra điều kinh khủng nhất. Thuyền trưởng Huđơ trở thành nạn nhân của chính thói quen thích ăn diện theo mốt châu Âu của mình. Nếu ông ta chịu theo chúng tôi cởi bỏ quần dài và tất dài, chỉ mặc chiếc áo sơ mi và đi giày Vendxcun thì có lẽ mọi sự sẽ đâu vào đấy. Nhưng lúc này chiếc quần dài đang làm Huđơ vướng víu khi chạy, và bỗng nhiên, khi còn cách chúng tôi khoảng sáu mươi mét, chiếc đế giày châu Âu của ông ta dẫm lên cỏ trơn trượt và ông ta ngã sấp ngay sát chân con voi.
Chúng tôi kêu lên sợ hãi vì biết rằng cái chết là điều không tránh khỏi. Tất cả đều chạy về phía ông ta. Chỉ ba giây nữa là mọi chuyện sẽ kết thúc - Nhưng không như chúng tôi chờ đợi. Hiva đã kịp nhìn thấy ông chủ của mình ngã. Chàng trai dũng cảm này đã quay lại, phóng giáo thẳng vào họng con voi. Chiếc giáo cắm ngập, lủng lẳng ở phía cuối vòi.
Rống lên vì đau, con voi điên khùng vội túm lấy chàng trai Dulux tội nghiệp quẳng xuống đất, rồi dùng một chân to lớn của mình dẫm một đầu, còn đầu kia lấy vòi quấn chặt và xé anh ta làm hai.
Suýt ngất đi vì kinh khủng, chúng tôi chạy lại, bắn loạn xạ và liên tục cho đến khi con voi ngã xuống cạnh các mẩu xác của Hiva.
Còn thuyền trưởng Huđơ thì bò dậy, khóc vật vã bên xác Hiva, người đã dũng cảm hi sinh thân mình để cứu ông ta. Dù là người được chứng kiến nhiều cảnh đau lòng, lúc này tôi vẫn cảm thấy có cái gì vương vướng trong họng. Ambov đứng nhìn con voi khổng lồ đã chết và cơ thể nhừ nát của Hiva, bỗng nói:
- Vâng, Hiva đã chết đúng như một người đàn ông chân chính phải chết. |
|
|