Mahesh là bạn tôi. Nhưng tôi nghĩ anh bị quáng vì quan hệ với Shoba. Rằng tất cả đã là hết với anh rồi. Shoba ngưỡng mộ anh và cần anh, và do vậy anh hài lòng với chính mình, hài lòng với con người mà cô ngưỡng mộ. Dường như mong muốn duy nhất của anh là quan tâm chăm sóc con người đó. Anh ăn bận cho cô, chăm lo vẻ bên ngoài vì cô. Tôi thường nghĩ rằng khi Mahesh tự nhìn ngắm mình anh sẽ không so sánh mình với những người đàn ông khác, hoặc phán xét mình theo lý tưởng đàn ông, mà chỉ nhìn vào cái cơ thể làm cho Shoba thích thú. Anh tự nhìn mình như là vợ anh nhìn anh, và điều đó giải thích tại sao, dù anh là bạn tôi, tôi nghĩ rằng niềm tin của anh vào Shoba đã biến anh thành một nửa đàn ông, và không cao quý.
Tôi thường đắm mình vào một cuộc phiêu lưu, cho niềm ham mê và sự tràn đầy về cơ thể, nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng điều đó có thể dẫn dắt tôi theo lối đó, rằng toàn bộ ý tưởng của tôi về bản thân mình có giá trị có thể đề cập theo cách một người đàn bà đáp ứng lại cho tôi. Nhưng đó chính là như thế. Toàn bộ sự tự đánh giá của tôi đều đến từ người tình của Yvette, từ chỗ phục vụ và làm nàng thích thú theo cách cơ thể mà tôi có thể làm.
Đó là niềm kiêu hãnh của tôi. Đó cũng là niềm hổ thẹn của tôi khi phải tự giới hạn tính đàn ông của mình trở nên nhỏ bé như thế. Có những lúc, đặc biệt trong những thời khắc chậm chạp ở cửa hiệu, khi tôi ngồi ở bàn (những bức ảnh của Yvetrte trong ngăn kéo) và tự thấy mình đang đau buồn. Đau buồn, trong sự thoả mãn về cơ thể có thể còn hơn cả là đầy đủ! Có một lúc khi tôi không thể nghĩ điều đó là có thể.
Và thật nhiều điều đến với tôi qua Yvette. Tôi đã biết được rất nhiều điều mới mẻ. Tôi đã mất đi cách thức của một thương gia ngoại quốc không xuất hiện quá nhiều để bị để ý, thậm chí tự làm mình mờ đi. Tôi đã được cung cấp rằng nhiều hiểu biết về lịch sử, quyền lực chính trị, những châu lục khác. Nhưng với toàn bộ hiểu biết mới, thế giới của tôi lại chật hẹp hơn trước. Trong những sự kiện bao quanh tôi – như việc xuất bản quyển sách của Tổng thống , và cuộc diễu sách – tôi chỉ lo liệu cuộc sống của tôi với Yvette có bị đe doạ hay sẽ được tiếp tục. Và thế giới của tôi càng trở nên chật hẹp thêm bao nhiêu tôi càng sống trong đó một cách mù quáng hơn.
Ngay cả như vậy, tôi vẫn bị sốc khi nghe tin Noimon đã bán hết mọi thứ và rời đi Úc. Noimon là khách hàng lớn nhất của chúng tôi, một người Hy Lạp có chân trong mọi phi vụ. Ông đã đến vùng đất này khi còn là một người trẻ tuổi, sau chiến tranh làm việc cho một đồn điền cà phê Hy Lạp sâu trong vùng cây bụi. Dù khi đến ông chỉ nói tiếng Hy Lạp, ông đã triển khai công việc rất nhanh, mua các đồn điền cho riêng mình rồi buôn bán đồ gỗ trongthị trấn. Độc lập dường như đã làm ông lụn bại, nhưng ông vẫn trụ được. Tại câu lạc bộ Hellenic, mà ông coi như là của bố thí của mình, và cai quản, đã tiếp tục được qua những khoảng thời gian khó khăn nhất, ông thường nói rằng đất nước này là nhà của ông.
Trong giai đoạn bùng nổ kinh tế, Noimon đã đầu tư trở lại và lại phát triển, ông từng muốn mua Bigburger của Mahesh với giá rất cao. Ông có quan hệ chặt chẽ với các quan chức và có được những hợp đồng lớn với chính phủ (ông đã trang bị nội thất cho nhà cửa trong Khu). Và giờ đây ông đã bí mật bán hết đi cho một hãng nhà nước nào đó mới nổi tại thủ đô. Chúng tôi chỉ có thể đoán chừng giá tiền và những lời lãi bí mật của cuộc mua bán đó, báo chí ở thủ đô đưa tin đó là một sự quốc hữu hoá, có đền bù xứng đáng
Sự ra đi của ông để lại cho chúng tôi cảm giác bị phản bội. Chúng tôi cũng cảm thấy thật điên rồ, bị liên quan. Mọi người đều có thể quyết định trong một sự kinh hoàng trong cuộc bùng nổ nó kéo theo cả những người mạnh mẽ. Và Nazruddin đã báo trước cho tôi. Tôi nhớ ông đã nói qua về sự khác biệt giữa thương gia và nhà toán học. Thương gia mua 10 và sung sướng bán được ở giá 12, nhà tóan học thấy 10 lên đến được 18, nhưng không muốn bán vì muốn nhân đôi từ 10 lên 20.
Tôi đã làm tốt hơn thế. Cái (theo thang bậc của Nazruddin) mà tôi đã mua với giá 2 giờ đây theo năm tháng đã lên đến 20. Nhưng giờ đây, với sự ra đi của Noimon, nó đã rơi xuống 15.
Sự ra đi của Noimon đánh dấu kết thúc cho sự bùng nổ của chúng tôi, chấm dứt lòng tin. Tất cả chúng tôi đều biết điều đó. Nhưng tại câu lạc bộ Hellenic – nơi chỉ hai đêm trước, dụi bụi trong mắt, Noimon vẫn còn nói về cách thức thực dụng thông thường của ông về việc nâng cấp bể bơi – chúng tôi đã rất hứng khởi với những điều đó.
Tôi nghe nói rằng Noimon đã bán hết chỉ để có tiền cho con mình đi học, cũng có người nói ông đã bị vợ xúi (có tin đồn rằng Noimon có một gia đình khác, với một người vợ châu Phi). Và rồi đã bắt đầu có tin rằng Noimon hối tiếc về quyết định của mình. Đồng là đồng, cuộc bùng nổ vẫn còn tiếp tục, và trong khi Người Đàn Ông Vĩ Đại vẫn còn nắm quyền, mọi điều sẽ vẫn được tiến triển bình thường. Bên cạnh đó, dù Úc, châu Âu hay Bắc Mỹ là những nơi thật đẹp để đến thăm, cuộc sống ở đó không thể có màu hồng như nhiều người vẫn nghĩ và Noimon, sau một quãng đời sống ở châu Phi, sẽ sớm thấy cái đẹp ở đây. Chúng tôi sống thoải mái hơn trước, với những người phục vụ và những bể bơi, những tiện nghi mà ở những chỗ khác phải triệu phú mới được hưởng.
Điều này thật vô nghĩa. Nhưng người ta vẫn phải nói, dù câu chuyện bể bơi thật là ngu ngốc, bởi vì dù có các kỹ thuật viên nước ngoài, hệ thống cung cấp nước của chúng tôi cũng đã bị hỏng. Thị trấn đã phát triển quá nhanh và quá nhiều người vẫn còn tiếp tục đến, trong những thị trấn đổ nát các ống nước khẩn cấp được sử dụng cả ngày, và giờ đây nước thiếu thốn ở mọi nơi. Một số bẻ bơi – chúng tôi không có nhiều lắm – đã cạn nước. Ở một số nơi máy lọc đã bị khoá lại – tiết kiệm hoặc vì thiếu kinh nghiệm – và những bể bơi đó bị một thứ rêu mộc màu xanh sáng với những thứ cỏ mọc nhanh bao phủ, giống như một khu rừng đầy chất độc. Nhưng những bể bơi đó vẫn tồn tại, dù tình trạng thế nào đi nữa, và mọi người vẫn có thể nói về chúng như thế bởi vì ở đây chúng tôi thích ý tưởng về bể bơi hơn là chính bản thân nó. Ngay cả khi các bể bơi hoạt động thì chúng tôi vẫn chưa học được cách thích nghi với sự xa xỉ buồn tẻ trong cuộc sống ngày qua ngày của thị trấn chúng tôi.
Tôi nói lại với Mahesh ở câu lạc bộ Hellenic, đoán rằng anh sẽ chia sẻ thái độ với tôi hoặc ít nhất cũng sẽ thấy chuyện đó buồn cười, cũng tồi tệ như một chuyện đùa.
Nhưng Mahesh không thấy chuyện đùa. Cả anh cũng đánh giá cao chất lượng vượt trội của cuộc sống trong thị trấn này.
Anh nói "Tôi mừng là Noimon đã đi. Cứ để ông ta có được hương vị của cuộc sống tốt đẹp ở đây. Tôi hy vọng ông ấy sẽ hối tiếc. Shoba có vài người bạn Ismaili ở London. Họ rất khoái cuộc sống ở đó. Nhưng không phải tất cả. Họ vẫn viết cho Shoba. Anh cứ hỏi cô ấy. Cô ấy sẽ nói với ah về những người bạn ở London. Cái mà họ gọi là một cái nhà to ở đấy có thể chỉ là một chuyện cười với chúng ta ở đây. Đắt đỏ lắm. Hỏi họ sống thế nào nếu về nhà. Không ai trong số họ sống như tôi đang sống ở đây hết cả".
Sau đó tôi nghĩ rằng từ "tôi" cuối cùng trong câu nói của Mahesh đã làm tôi bực dọc. Mahesh có thể diễn đạt tốt hơn. Từ "tôi" khiến tôi nhi1`nó đến điều đã làm Indar tức giận về bữa trưa của anh với Mahesh và Shoba. Indar đã nói "Họ không biết tôi là ai hay tôi đã làm gì. Họ thậm chí còn không biết tôi đã từng ở đâu", Anh đã nhìn thấy điều mà tôi không nhìn thấy khi đó, với tôi thật là cả một tin tức lớn khi nghe Mahesh nghĩ là anh đang sống "tốt", theo cách mà anh nói.
Tôi chưa từng nhận thấy một sự thay đổi lớn lao nào trong cách sống của anh. Anh và Shoba vẫn sống trong căn hộ bê tông của mình với phòng khách đầy những thứ nhỏ bé. Nhưng Mahesh không đùa. Trong bộ trang phục đẹp đẽ cạnh chiếc máy pha cà phê nhập về cho cửa hàng uỷ quyền của mình, anh thực sự nghĩ rằng đó là cái gì đó, thành công và trọn vẹn, thực sự nghĩ anh đã làm ra nó và không còn chỗ nào cao hơn để đến nữa cả. Bigburger và cuộc bùng nổ - và Shoba, luôn ở đó – đã tiêu diệt toàn bộ bộ óc hài hước của anh. Và tôi thường nghĩ anh là một người sống sót bên lề!
Nhưng tôi cũng không thể kết tội anh hay những người khác. Tôi cũng giống họ. Tôi cũng muốn sống với cái mình đang có, tôi cũng căm ghét cái ý tưởng rằng tôi bị liên quan. Tôi không thể nói, như họ, rằng mọi chuyện vẫn rất tốt. Nhưng quả thực đó là thái độ của tôi. Việc cuộc bùng nổ dã đi xuống và lòng tin đã bị lung lay với tôi đã là lý do quá tốt để không phải làm gì cả. Đó là cách tôi giải thích cho Nazruddin khi ông viết cho tôi từ Uganda.
Nazruddin rất ít viết thư cho tôi. Nhưng ông vẫn thu thập kinh nghiệm, trí óc ông vẫn hoạt động đều, và dù thư của ông làm tôi bồn chồn trước khi mở ra đọc, tôi luôn đọc chúng với sự thích thú, bởi vì bên trên tin tức cá nhân ông luôn có một cái gì đó mới mẻ mà ông định bắt tay vào.
Chúng tôi vẫn còn rất bị sốc về chuyện Noimon nên tôi nghĩ, khi Metty mang thư đến cho tôi từ bưu điện, rằng bức thư viết về Noimon hoặc về triển vọng của thị trường đồng. Nhưng đó lại là thư về Uganda. Tại đó cũng có nhiều vấn đề.
Mọi việc ở Uganda đều rất tệ. Nazruddin viết. Quân đội đã làm chủ, đầu tiên thì tỏ ra tử tế, nhưng giờ đây đã có những dấu hiệu rõ ràng về những cuộc biến loạn bộ lạc và sắc tộc. Và những biến loạn đó sẽ thổi tung tất cả. Uganda rất đẹp, dễ sống, không bị nghèo đói, phì nhiêu và có những truyền thống cao cấp của châu Phi. Cần phải có tương lai, nhưng vấn đề với Uganda giờ đã lớn lắm rồi. Đất nước giờ đây trở nên quá nhỏ bé cho những hằn thù giữa các bộ lạc. Những con đường xe hiện đại đã khiến đất nước trở nên quá nhỏ bé, luôn có thể có bạo loạn. Giờ đây mọi bộ lạc đều cảm thấy bị đe doạ trong lãnh thổ của chính mình hơn là những ngày khi mọi người, kể cả các thương gia từ bờ biển như cha ông chúng tôi đi bộ đến, và một cuộc phiêu lưu buôn bán đơn giản cũng có thể mất hàng năm. Châu Phi, trở lại ngày xưa với những phương tiện hiện đại, giờ lại ở tình trạng khó khăn. Tốt hơn là đọc chính những dấu hiệu chứ đừng hy vọng mọi việc có thể được giải quyết.
Thế nên lần thứ ba trong đời Nazruddin nghĩ đến việc chuyển đi và bắt đầu lại, lần này không ở châu Phi nữa mà ở Canada. "Nhưng vận may của bác hết mất rồi. Bác thấy điều đó trong bàn tay mình".
Bức thư, dù mang đến những tin tức không hay ho gì, vẫn được viết với phong cách trầm tĩnh xưa nay của Nazruddin. Nó không hề đưa ra lời khuyên trực tiếp và không hễ có đòi hỏi trực tiếp nào. Nhưng đó là một sự gợi lại – đặc biệt vào thời đỉêm khó khăn của ông – về món hời tôi kiếm được từ Nazruddin, bổn phận của tôi đối với gia đình ông cũng như gia đình tôi. Và cùng lúc nó củng cố ý muốn ở lại, không làm gì hết của tôi.
Tôi trả lời theo cách tôi đã nói, vẽ ra những nét đại cương về những khó khăn mới của chúng tôi tại thị trấn. Tôi dành thời gian viết trả lời, và khi tôi thấy mình đang viết một cách say mê, dựng lên cho Nazruddin thấy chân dung của tôi như là ai đó thiếu khả năng và không giúp đỡ được gì, một trong số những "nhà tóan học" của ông. Và không gì tôi viết là đúng cả. Tôi tự gọi mình là kẻ vô dụng]. Tôi không biết nơi nào tôi có thể đến. Tôi không nghĩ – sau những điều tôi đã nhìn thấy ở Indar và những người khác trong Khu – rằng tôi có tài hoặc những kỹ năng để sống được tại một đất nước khác.
Và cứ như thể tôi đã bị chính bức thư của mình túm lấy. Sự hoảng sợ của tôi tăng lên, cùng cảm giác tội lỗi và ý nghĩ tôi đang tự phá huỷ chính mình. Và ngoài điều đó ra, ngoài cuộc sống, tôi đang cảm thấy mình chìm xuống và càng chìm xuống tôi lại càng bị ám ảnh. Tôi bắt đầu tự vấn. Liệu tôi có bị Yvette sở hữu không? Hay là tôi – giống như Mahesh với ý tưởng mới về việc anh ta là ai – nằm trong tay tôi, người đàn ông mà tôi nghĩ là thuộc về Yvette? Để phụng sự nàng theo cách tôi làm, thật cần thiết phải nhìn nhận từ bản thân tôi. Sự thoả mãn của tôi nằm ở chính sự nghi ngờ về bản thân này, tôi nghi ngờ, sau cuộc đời nhà thổ của mình liệu tôi có còn là một người đàn ông theo cách đó với mọi người đàn bà khác. Nàng đã cho tôi niềm tin về nam tính mà tôi ngày càng cần. Sự gắn liền của tôi vào nàng chẳng phải là một sự gắn liền theo ý tưởng đó ư?
Gắn chặt một cách lạ lùng với ý tưởng đó, ý tưởng về tôi và Yvette, là thị trấn – căn hộ, ngôi nhà ở Khu, cách thức cả hai cuộc sống mà chúng tôi sắp xếp, sự vắng mặt của một cộng đồng, sự tách biệt mà chúng tôi sống. Không chỗ nào khác có thể giống hệt ở đây, và có lẽ không chỗ nào khác quan hệ chúng tôi lại có thể diễn ra như ở đây. Vấn đề tiếp tục tại một nơi khác không bao giờ được đặt ra. Tôi không hề thích nghĩ đến toàn bộ những điều đó.
Lần đầu tiên khi nàng trở lại căn hộ sau bữa tối tại nhà, tôi cảm thấy mình đã biết được chút gì đó về các nhu cầu của nàng, của một người đàn bà tham vọng đã lấy chồng từ khi còn trẻ và đến một đất nước sai lầm, tự đày đoạ mình. Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình có thể đáp ứng những nhu cầu đó. Tôi ngày càng chấp nhận, và bị phấn khích với ý tưởng rằng tôi là một đều rắc rối đã trở thành một thói quen. Có thể nàng cũng nghĩ về tôi như thế. Nhưng tôi không có cách nào kiểm chứng điều đó và cũng không thật sự muốn lắm. Sự cô độc khiến tôi bị ám ảnh đã trở thành điều gì đó mà tôi thấy là cần thiết.
Trong thời gian đó mọi việc vẫn tiến triển, và hai chúng tôi đều quay trở lại với cuộc sống đứt đoạn của mỗi người. Không có thảm kịch nào. Tính tất yếu của sự kết thúc – ngay cả khi cuộc bùng nổ kinh tế đã chấm dứt và 15 điểm của tôi rớt xuống 14, khi Nazruddin và gia đình ông thử đi lập nghiệp ở Canada – là sự an toàn của tôi.
Khá đột ngột, Shoba rời chúng tôi để đi thăm gia đình cô ở phía đông. Bố cô mất. Cô đến dự lễ hoả táng.
Tôi rất ngạc nhiên khi nghe Mahesh kể điều đó. Không phải về cái chết, mà vì việc Shoba có thể quay trở lại gia đình mình. Tôi hoàn toàn không thể tin được điều này. Shoba đã tự cho mình là kẻ chạy trốn, là người đã chống lại lễ giáo của cộng đồng mình khi lấy Mahesh, và đã sống tại nơi xa xôi để trốn tránh sự trả thù của gia đình mình.
Khi lần đầu tiên cô kể câu chuyện đó cho tôi – vào bữa trưa một ngày yên lặng, chậm rãi trong cuộc nổi loạn – cô đã nói rằng cô phải cẩn thận với người lạ. Gia đình cô rất có thể thuê ai đó, thuộc dòng giống bất kỳ, làm điều mà họ đã đe doạ, làm biến dạng dung nhan cô, hoặc giết Mahesh. Axit trên khuôn mặt một người phụ nữ, giết một người đàn ông – họ là một gia đình kiểu mẫu trong những chuyện như thế này và Shoba rất chỉnh chu theo nhiều cách, không quá khó chịu cho tôi biết rằng cô đã bị đe doạ. Thường thì những mối đe doạ đó không có nghĩa lý gì, và chỉ để làm thoả mãn một tập tục, nhưng đôi khi chúng co thể được thực thi chính xác đến từng chữ. Dù sao, thời gian cũng đã trôi qua, và Shoba dường như cũng đã quên đi một số chi tiết về câu chuyện đầu tiên của mình, tôi không còn tin vào tấn thảm kịch về một người lạ mặt giết thuê đó nữa. Nhưng tôi vẫn tin rằng Shoba bị gia đình đuổi đi.
Tôi vẫn luôn có ý thức về tấm gương của Shoba, và đám tang của bố cô giúp tôi phát hiện cô vẫn còn những mối dây liên lệ với gia đình. Mahesh cũng cư xử như một người con rể đang đau buồn. Điều này có thể là cách của anh dựng lên một tấn kịch thảm thiết bên ngoài công việc để có được những đơn đặt hàng đắt tiền cà phê và bia và Bigburger (giá cả vào những ngày đó!) với một dáng vẻ dịu dàng và buồn bã. Nhẽ ra tôi cũng theo cách của ah để tỏ ra thông cảm với Shoba. Nhưng quả thật làm như thế hơi giống cách cư xử của một người đàn ông cảm thấy cuối cùng cũng kiếm được chỗ của mình. Thế đấy!
Nhưng rồi câu chuyện đùa bắt đầu trở nên tồi tệ. Shoba đi tận hai tháng. Cô trở về sau đó ba tuần, và lần này có vẻ như là đi trốn. Tôi không nhận được lời mời ăn trưa nào, những bữa ăn đó – gần như giờ đã trở thành truyền thống – cuối cùng cũng đã chấm dứt. Cô ghét tình hình chính trị ở phía đông, Mahesh nói. Cô không bao giờ thích người châu Phi và đã trở về, tức tối vì nạn trộm cắp và những nhà chính trị ăn của đút lót, những lời dối trá liên tiếp và thù địch trên radio và trên báo chí, trò giật túi ngay giữa thanh thiên bạch nhật, sự bạo hành vào ban đêm. Cô hoảng sợ về một khía cạnh của gia đình mình, với nó cô đã lớn lên và luôn nghĩ là vững chắc và an toàn. Toàn bộ những cái đó, xen lẫn với sự lo lắng của cô dành cho người cha, đã làm cô trở nên lạ lùng. Tốt hơn và để thời gian trôi đi, Mahesh giải thích như vậy.
Nhưng như thể vẫn chưa hẳn là giải thích. Chắc hẳn còn có cái gì đó hơn là nỗi tức giận về chính trị và sắc tộc và sự lo lắng cho người cha mà cô từng xấu hổ. Liệu có thể có một cách nhìn mới nào đó về người đàn ông cô đã lựa chọn và sống với anh ta? Một tiếc nuối nào đó về cuộc sống gia đình giờ đây cô đã bỏ phí, một mối lo lớn hơn với những điều cô đã phản bội?
Vẻ đau buồn mà Mahesh, khi không có mặt Shoba, sẵn sàng để khoác vào người là một nỗi buồn sâu sắc và có thật sau khi Shoba trở về, và rồi nỗi buồn đó biến thành nỗi tức tối nóng giận. Anh bắt đầu để lộ tuổi tác. Niềm tin, điều đã làm tôi điên tiết, rời khỏi anh. Tôi lo vì điều đó, lo rằng anh có thể hưởng nó trong thời gian quá ngắn ngủi. Và anh, người đã nói thẳng thắn thế về Noimon, và đã nói tự hào đến thế về cách anh sống ở đây, giờ lại nói "Buồn cười thật Salim ạ. Tất cả lại trở nên hài hước rồi".
Không còn có thể ăn trưa với họ hoặc tới thăm căn hộ của họ, tôi đành đến Bigburger vài buổi tối để nói vài lời với Mahesh. Một tối tôi gặp Shoba ở đó.
Cô đang ngồi ở quầy tính tiền, dựa lưng vào tường, và Mahesh ngồi trên một cái ghế gần cô. Họ giống như những khách hàng.
Tôi chào Shoba, nhưng cô không hề tỏ ra nồng nhiệt. dường như tôi là một người lạ hoặc ai đó cô chỉ biết sơ sơ. Và thậm chí khi tôi ngồi xuống bên cạnh Mahesh cô vẫn tiếp tục tỏ ra xa cách. Cô làm ra vẻ không nhìn thấy tôi. Và Mahesh thì vờ như không nhận thấy điều gì hết. Hay là cô đang trách cứ tôi vì những điều mà cô đang tự kết án trong lòng mình?
Tôi biết họ từ lâu lắm rồi. Đó là một phần cuộc đời tôi, dù sao tình cảm của tôi với họ cũng giảm sút rồi. Tôi có thể thấy được sự chật chội và nỗi đau và cái gì đó ốm yếu trong đôi mắt Shoba. Tôi cũng có thể thấy cô đang đóng kịch một chút. Dù vậy tôi vẫn bị tổn thương. Và khi tôi đi – không hề có tiếng kêu "ở lại đi!" từ một trong hai người – tôi cảm thấy rã rời và hơi thất vọng. Và mọi chi tiết thân thuộc của cuộc sống ngoài đường buổi đêm – những đám lửa nướng in lên những gương mặt kiệt sức của những người ngồi quanh, những nhóm người trong những bóng tối dưới thềm các cửa hiệu, những người ngủ và những người bao quanh, sự mê hồn rách rưới lạc lối, những ánh đèn của một quầy bar chiếu ra một lối vào bằng gỗ - mọi thứ đều đã mang một ý nghĩa khác.
Trong căn hộ có một chiếc radio. Nó thường được bật rất to, và khi đi lên cầu thang lộ thiên tôi có cảm giác Metty dang nghe bình luận trận bóng đá từ thủ đô. Một giọng chói tai đang vang lên, và có tiếng đám đông rống lên. Cửa phòng Metty không đóng, nó đang mặc đồ ở nhà và ngồi ở mép giường. Ánh sáng từ ngọn đèn treo ở giữa phòng màu vàng và tối, radio đang nói oang oang.
Nhìn lên thấy tôi, rồi lại nhìn xuống, rất tập trung, Metty nói "Tổng thống ".
Thật rõ ràng, giờ đây tôi đã bắt đầu nghe được các từ. Điều này giải thích vì sao Metty cảm thấy không cần giảm âm lượng của radio xuống. Một bài diễn văn, tôi đã quên mất.
Tổng thống nói bằng tiếng châu Phi mà hầu hết người dân ở dọc dòng sông hiểu được. Một thời ông phát biểu bằng tiếng Pháp. Nhưng trong bài diễn văn này chỉ có một vài từ tiếng Pháp là citoyen và citoyenne, và chúng được dùng đi dùng lại, để tạo nhạc tính, giờ đây đang biến thành những câu gợn sóng, giờ đây đang tách biệt, mỗi âm tiết đều để tạo hiệu ứng của một tiếng trống trang trọng.
Thứ tiếng châu Phi mà Tổng thống đã lựa chọn cho các bài phát biểu của mình là một thứ ngôn ngữ hoà trộn và đơn giản, và ông đã đơn giản hóa nó hơn nữa, biến nó thành ngôn ngữ của quầy rượu và cuộc cãi nhau trên phố, tự biến đổi mình, trong khi nói, người đàn ông làm mọi người bối rối và bắt chước nhãn hiệu sự cao đẳng và ân điển của de Gaulle thành hạ đẳng nhất trong những cái hạ đẳng. Và đó là chỗ hấp dẫn của thứ ngôn ngữ châu Phi mà Tổng thống sử dụng. Các sử dụng vương giả và đầy chật nhạc, thứ ngôn ngữ thấp kém nhất và những câu nói thô nhất là cái đã làm Metty say mê.
Metty say sưa nghe. Đôi mắt nó, dưới những đốm sáng vàng vọt của cái trán, cố định, nhíu lại, đầy chăm chú. Môi nó mím lại và trong sự tập trung nó vẫn tiếp tục mím. Khi nghe thấy những câu nói thô tục dân dã, hoà với tiếng đám đông gào lên, Metty mỉm cười.
Bài diễn văn, cho đến lúc này, vẫn giống với rất nhiều bài diễn văn khác mà Tổng thống đã đọc. Chủ đề không có gì mới: hy sinh và tương lai sáng sủa, nhân phẩm phụ nữ châu Phi, sự cần thiết phải củng cố, dù với những người da đen đó tại các thị trấn mơ đến việc một ngày được bước đi như những người da trắng, nhu cầu của những người châu Phi ở châu Phi, quay trở lại nỗi xấu hổ vbz cách thức dân chủ và xã hội, và phát hiện lại những yếu tố đẹp của sự ăn kiêng và những thứ thuốc men của ông cha và không chạy theo như trẻ con những thứ đồ chai lon nhập khẩu, yêu cầu cảnh giác, làm việc, và trên hết, kỷ luật.
Đó là tại sao, trong khi xuất hiện chỉ để thiết lập lại kỷ luật, Tổng thống lại có thể cũng nhận ra và lố bịch hóa sự phê phán của mình, dù đó là sự thờ cúng đức mẹ đồng trinh hay sự thiếu lương thực thuốc men. Ông luôn tỏ ra phê phán, và ông thường đẩy cao nó lên. Ông có thể tỏ ra là mình biết mọi thứ. Ông có thể tỏ ra mọi thứ đang diễn ra ở đất nước, tốt xấu hay tầm thường, đều là một phần trong kế hoạch lớn hơn của ông.
Người dân thích nghe những bài diễn văn của Tổng thống vì nó rất gần gũi, giống như Metty lúc này, họ chờ đợi những lời nói đùa quen thuộc. Nhưng mọi bài phát biểu cũng là một lần diễn trò, với những đạo cụ sân khấu và mỗi bài diễn văn có một mục đích. Bài diễn văn này có chủ đề liên quan đến thị trấn và vùng của chúng tôi. Đó là điều Tổng thống đã nói, và đã trở thành một trong số và đã trở thành một trong số những đạo cụ của phần sau bài diễn văn, ông liên tục ngắt lời để nói rằng ông có điều gì đó để nói với người dân thị trấn và vùng của chúng tôi, nhưng chúng tôi còn phải chờ đợi. Đám đông ở thủ đô luôn coi đạo cụ là đạo cụ, phần mới của phong cách, bắt đầu gào lên khi nghe nhắc đến chúng
Ở vùng chúng tôi thích bia của chúng tôi. Tổng thống nói. Ông còn thích hơn, ông có thể chuốc say bất kỳ ai trong số chúng tôi vào một ngày nào đó. Nhưng chúng tôi không được đi đái sớm quá, ông cần phải nói với chúng tôi điều đó. Và rõ ràng rằng lời phát biểu của Tổng thống đang hướng tới đội Vệ binh trẻ. Cách đây hai hôm hoặc hơn, chúng tôi đã chờ đợi lời phát biểu này, cách đây hai hôm ông đã giữ mọi chuyện trong sự mù mờ.
Đội Vệ binh trẻ không bao giờ lấy lại được uy tín của mình sau thất bại của chuyến diễu hàng với quyển sách. Các cuộc diễu hành của con cái họ vào chiều thứ bảy đã chẳng ra sao, và các quan chức đã thấy rằng không có cách nào để bắt buộc trẻ con phải tham gia. Họ đã tiếp tục với Đội tuần tra đạo đức. Nhưng các đám đông buổi đêm giờ đây đã trở nên thù địch hơn, một sĩ quan của đội Vệ binh trẻ đã bị giết vào ban đêm.
Bắt đầu một cuộc cãi nhau với một số người ngủ trên hè đường đã chặn một đoạn vỉa hè theo cách bán thường trực với những khối bê tông dỡ từ một toà nhà. Và điều này có thể chỉ kết thúc bằng một màn la hét. Nhưng người sĩ quan đã bị đâm và đã ngã xuống. Sự ngã xuống đó, vẻ bất lực tạm thời đó làm rúng động những khối bê tông, và dấu máu khi đó đã khuyến khích một hành động bất thần, đầy kích động của kẻ giết người, khoảng năm sáu tên có thân hình bé nhỏ.
Không ai bị bắt. Cảnh sát sốt ruột, đội Vệ binh trẻ sốt ruột, người dân trên các phố không sốt ruột. Vài ngày sau đó quân đội được gửi đến giữ trật tự tại một số thị trấn nghèo đói. Việc này đã gây ra một cuộc tản cư nhỏ về các làng, các thuyền độc mộc bận suốt. Nhưng chẳng có gì xảy ra hết cả. Mọi người đều chờ đợi Tổng thống sẽ làm gì. Nhưng hai ngày đã qua mà Tổng thống chẳng nói mà cũng chẳng làm gì hết cả.
Và điều Tổng thống nói giờ đây thật là chậm trễ. Đội Vệ binh trẻ vùng chúng tôi đã rã đám. Họ đã quên trách nhiệm của mình với người dân và đã mất lòng tin vào ông, Tổng thống , họ nói quá nhiều. Các sĩ quan không có tiền lương, họ không cần công việc chính thức nào cả, họ có thể bị đuổi khỏi thị trấn và gửi trả về vùng cây bụi để làm công việc xây dựng tại đó. Tại vùng cây buị họ có thể học được sự khôn ngoan của khỉ.
"Citoyens – citoyennes, con khỉ thông minh. Khỉ thông minh như cứt. Khỉ có thể nói. Các bạn không biết điều đó à? Tốt, tôi sẽ nói cho các bạn bây giờ đây. Khỉ có thể nói, nhưng nó giữ im lặng. Khỉ biết rằng nếu nó nói trước mặt người, người có thể bắt nó, đánh nó và bắt nó làm việc. Bắt nó vác đồ trong trời nắng. Bắt nó chèo thuyền. Citoyens! Citoyennes! Chúng ta sẽ dậy những người đó giống như khỉ. Chúng ta sẽ gửi họ đến vùng cây bụi và để họ làm việc mòn đời ở đó". |
|
|