Jarvis ngồi trên chiếc ghế bành của con, còn bà vợ và nàng dâu trở về nhà ông bà Harrison. Sách, sách, và sách nữa, chưa thấy nhà nào có nhiều sách như vậy. Trên bàn la liệt giấy tờ, thư từ và sách nữa.
“ Thưa ông Jarvis, xin mời ông lại diễn thuyết tại Giám lý hội (1) Parkwold”
“ Thưa ông Jarvis, chúng tôi lấy làm hân hạnh được ông lại diễn thuyết ở câu lạc bộ Thanh niên Anglican Sophiatown”
“Thưa ông Jarvis, xin mời ông quá bộ lại tham dự cuộc thảo luận ở Đại học….”
Không ông Jarvis không thể lại diễn thuyết ở một nơi nào cả.
“ Thưa ông Jarvis, chúng tôi hân hạnh mời ông lại dự buổi họp hàng năm của hội Ki Tô và Do Thái…”.
“Ông bà H.B. Singh hân hạnh mời ông bà Jarvis lại dự tiệc cưới con gái đầu lòng của chúng tôi, cô Sarajini”
“ Xin mời ông bà Jarvis quá bộ lại dự dạ hội Toc. H ở thung lũng Van Wyk, cho buổi dạ hội được thêm long trọng…”
Không ông Jarvis không thể nhận những lời nhã nhặn đó được.
Trên tường bên cạnh các tủ sách, treo ba tấm hình: hình Chúa Ki Tô trên thánh giá, hình Abraham Lincoln, hình ngôi nhà trắng ở Vergelegen và bức tranh vẽ một phong cảnh đồng cỏ mùa đông, lơ thơ mấy gốc liễu trụi lá bên dòng nước.
Ông Jarvis đứng dậy bước lại nhìn các tủ sách. Riêng về Abraham Lincoln đã có mấy trăm cuốn. Một người mà sao có thể làm đề tài cho bấy nhiêu tác phẩm, chứa đầy một tủ sách. Một tủ nữa chứa các sách về Nam Phi: cuốn Tiểu sử Rhodes của Sarah Gertrude Millin, cuốn về Smuts cũng của nữ văn sĩ đó, cuốn Tiểu sử Louis Botha của Engelenburg, rồi các sách nghiên cứu về các vấn đề chủng tộc, về loài chim Nam Phi, về Kruger Park và vô số các sách khác nữa. Một tủ thứ ba đầy những sách viết bằng tiếng Afrikaans, nhưng đọc nhan đề ông chẳng hiểu gì cả. Rồi đây nữa sách về tôn giáo, về Nga Sô, về vấn đề phạm pháp, về tội nhân, có cả những tập thi tuyển nữa. Ông kiếm Shakespeare. Có cả Shakespeare.
Ông trở về ngồi ở chiếc ghế bành, ngắm nghía hồi lâu bức hình Chúa Ki Tô trên thánh giá, hình Abraham Lincoln, hình ngôi nhà Vergelegen và tấm tranh vẽ cành liễu bên dòng nước. Rồi ông kéo mấy tờ giấy lại gần.
Tờ thứ nhất là một bức thư của người thư ký câu lạc bộ Thanh niên Phi ở Claremont, đường Gladiolus gởi cho con ông, tỏ ý tiếc rằng con ông không lại dự buổi hội họp hằng năm được, và báo tin rằng con ông lại được bầu làm Hội trưởng một khoá nữa. Cuối thư có đoạn cú pháp kỳ cục này:
“ Cuộc họp hằng năm giao cho tôi cái việc mừng ông về điều đó, và đa tạ ông rất nhiều về tất cả thời gian ông đã hội họp với chúng tôi, về các vật mà ông đã tặng cho Hội. Nếu không có ông dự thì Hội này làm sao mà tổ chức được, đó là điều bí mật mà đa số chúng tôi không hiểu. Vì vậy chúng tôi nhất định bầu ông làm Hội trưởng một khoá nữa.
Tôi xin lỗi ông vì dùng tờ giấy này, nhưng xấp giấy viết thư của Hội chúng ta đã bị mất rồi do những hoàn cảnh bất ngờ.
Tôi xin trân trọng chào ông.
Washington Lefifi ” (2)
Còn tờ giấy kia có nét chữ của con ông. Chắc là những đoạn trong một bài hoặc một cuốn nào đó, vì hàng đầu là cuối một câu và hàng cuối là một câu còn dở dang chưa hết. Ông tìm không thấy những trang còn thiếu, bèn đọc những trang đó vậy:
“ Có thể chấp nhận được. Việc mà chúng ta đã làm khi tới Nam Phi có thể chấp nhận được. Phát triển những nguồn lợi lao của ta nhờ nhân công tại đó, là điều hồi xưa có thể chấp nhận được. Dùng những người không chuyên môn vào một công việc không chuyên môn là điều hồi xưa có thể chấp nhận được. Nhưng lấy cớ là những việc không chuyên môn, mà không đào tạo những thợ chuyên môn thì là điều không chấp nhận được.
“ Khi chúng ta tìm thấy mỏ vàng, phải kiếm nhân công cho mỏ, đó là điều chấp nhận được. Lúc đó lập trại cho thợ mỏ, bắt vợ con họ phải ở xa châu thành, là điều có thể chấp nhận được. Chấp nhận được vì hồi đó chúng ta chưa biết gì cả và chúng ta còn thí nghiệm. Nhưng ngày nay chúng ta đã hiểu biết rồi thì điều đó không thể chấp nhận được nữa. Khi chúng ta biết rằng như vậy, là làm gia đình họ tan tành, mà chúng ta vẫn tiếp tục làm thì điều đó không sao chấp nhận được.
“ Nếu có sự thoả thuận của thợ thuyền, thì sự khai thác tài nguyên là điều chấp nhận được. Nhưng khai thác mà làm hại cho thợ thuyền, thì là điều không thể chấp nhận được. Không thể chấp nhận được cái việc đào vàng, chế tạo sản phẩm, hoặc cấy cầy ruộng đất, nếu việc khai thác, chế tạo, trồng trọt đó cần có một chính sách duy trì cảnh khốn khổ của thợ thuyền. Không thể chấp nhận được sự gia tăng tài sản của một số người, nếu họ chỉ có thể làm giầu trên lưng người khác. Sự thực chỉ có một danh từ để gọi các hành động ấy, danh từ “ bóc lột ”. Cái đó có thể chấp nhận được hồi chúng ta mới tới xứ này, vì lúc đó chúng ta không thể lường được, sự bóc lột đó đã làm cho đời sống cộng đồng của dân bản xứ tan nát ra sao, đời sống gia đình của dân bản xứ trụy lạc ra sao, họ hoá ra nghèo khổ, hà tiện ra sao, gây tội lỗi ra sao. Nhưng bây giờ chúng ta đã thấy những tai hại đó rồi, thì việc đó không thể chấp nhận được nữa.
“ Hồi xưa có thể chấp nhận được cái việc bỏ thí sự giáo dục cho dân bản xứ, cho ai muốn cáng đáng thì cáng đáng. Nghi ngờ sự ích lợi của việc giáo dục dân bản xứ, là điều hồi xưa có thể chấp nhận được. Nhưng ngày nay đã có kinh nghiệm rồi thì điều đó không chấp nhận được nữa. Một phần do sự phát triển kỹ nghệ của ta, một phần do những nguyên nhân ngoài ý muốn của ta, hiện nay số dân bản xứ ở các thành thị đã rất đông. Xã hội thời nào cũng vì cái lợi của xã hội, nếu không phải vì những lý do khác. Lo việc giáo dục con em để dạy cho chúng biết trọng pháp luật, có những mục đích hợp với đời sống xã hội. Phải dùng cách đó chứ không cách nào khác. Vậy mà chúng ta vẫn để mặc, vài người Âu lưu tâm tới vấn đề muốn dạy dỗ dân bản xứ ở thành thị ra sao tuỳ ý, mà không giúp họ tiền và phương tiện để họ phát triển công việc của họ, cái đó không thể chấp nhận được. Vả lại, chỉ xét riêng về cái lợi của xã hội thì chính sách đó còn nguy hại là khác.
“ Hồi xưa, việc tiêu diệt một bộ lạc, nó làm cản trở sự phát triển của xứ này, là điều có thể chấp nhận được, tin rằng sự tiêu diệt đó không sao tránh được là điều lúc đó có thể chấp nhận được. Nhưng ngày nay, thản nhiên nhìn một sự tiêu diệt như vậy, mà không kiếm cách thay thế nó bằng một cái gì khác, hoặc chỉ thay thế một chút thôi, để đến nỗi cả một dân tộc bị hủy hoại về thể chất và tinh thần, là một điều không thể chấp nhận được.
“ Chế độ bộ lạc cổ truyền mặc dầu tàn nhẫn, dã man, mặc dầu có nhiều mê tín dị đoan, pháp thuật, cũng vẫn là một chế độ luân lý. Dân bản xứ chúng ta thời nay thành những kẻ phạm pháp, mãi dâm, nghiện rượu, không phải vì bản tính của họ như vậy, mà vì các chế độ trật tự chất phác, cái hệ thống tập tục, truyền thống của họ đã bị hủy hoại. Vậy xã hội văn mình của chúng ta, không thể trốn tránh được cái bổn phận thành lập cho họ một chế độ trật tự với những tập tục, truyền thống khác.
“Đành rằng thời trước chúng ta hy vọng rằng dùng một chính sách chia cách chủng tộc, thì điều đó có thể duy trì chế độ bộ lạc. Điều đó hồi xưa có thể chấp nhận được. Nhưng chúng ta chưa bao giờ theo chính sách đó một cách đúng đắn hoặc thành tâm. Chúng ta để ra một phần mười đất đai cho bốn phần năm dân số. Như vậy chúng ta làm cho – có người bảo rằng chúng ta cố ý làm cho – nhân công bản xứ nhất định phải đổ dồn về các châu thành. Thế là chúng ta phải chịu hậu quả của tính ích kỷ của chúng ta.
“ Không nên làm cho vấn đề có vẻ kém quan trọng đi. Không nên gây cảm tưởng rằng giải quyết vấn đề đó là việc dễ. Không nên coi thường những nỗi lo lắng, sợ sệt nó bao vây chúng ta. Nhưng dù chúng ta lo lắng, sợ sệt hay không thì chúng ta cũng không được trốn tránh vấn đề luân lý, vì chúng ta những người theo Ki Tô giáo.
“Đã tới lúc….”
Tới đó hết trang, Jarvis đương say mê đọc, kiếm đoạn tiếp nhưng coi hết các tờ giấy bừa bãi trên bàn, mà không thấy được thêm trang nào nữa. Ông đốt thuốc, kéo mấy tờ giấy lại gần mình và đọc lại.
Khi đã đọc xong lần thứ nhì, ông vẫn tiếp tục hút thuốc, trầm ngâm suy tư. Rồi ông đứng dậy, lại đứng trước tủ chứa sách về Lincoln, ngó lên bức hình của bậc vĩ nhân đã ảnh hưởng lớn tới con ông như vậy. Ông nhìn qua nhan đề mấy trăm cuốn sách, đẩy miếng kính qua một bên, lấy ra một cuốn. Rồi ông trở về ngồi ở ghế bành, lật trang sách. Tới một chương nhan đề: Bài diễn văn nổi tiếng ở Gettysburg, một diễn văn mới đầu không ai để ý tới, rồi sau được coi là một trong những diễn văn quan trọng nhất của thế giới. Ông lật mấy trang mở đầu, tới bài diễn văn, rồi chăm chú đọc từ hàng đầu tới hàng cuối. Đọc xong ông lại hút thuốc, suy nghĩ miên man. Được một lát ông đứng dậy, đặt trả cuốn sách vào chỗ cũ, khép tủ lại. Nghĩ sao ông lại mở tủ ra, lấy cuốn sách bỏ vào túi, rồi đẩy tấm kính khép lại. Ông ngó đồng hồ đeo tay, gõ ống điếu vào lò sưởi để trút hết tàn thuốc, đội nón, cầm lấy chiếc can.
Ông chậm rãi xuống cầu thang mở cái cửa đưa tới hành lang bi thảm đó. Ông dỡ nón ngó vết sẫm ở trên sàn. Ông không cố ý gợi lại mà tự nhiên hình ảnh em bé ở High Place hiện lên trong óc ông, một em bé chơi mấy cây súng bằng gỗ. Ông đi dọc theo hành lang, lơ đãng không nhìn thấy gì cả bước qua cái cửa mà mấy hôm trước thình lình thần chết đã ùa vô. Thầy cảnh sát chào ông, ông đáp lại bằng mấy lời bâng quơ chẳng có ý nghĩa gì cả. Ông lại đội nón lên, bước ra cửa rào. Ông do dự ngó hai phía đầu và cuối con đường cái. Rồi gắng sức bước đi. Thầy cảnh sát thở dài, vươn vai.
1. Một giáo phái của Anh: Methodist.
2. Giọng thư ngây ngô, vì người viết là một người da đen ít học.
Bà Margaret Jarvis có một người cháu gái mà bà rất mến tên Barbara Smith, có chồng ở Springs. Một hôm không có phiên toà, hai ông bà lại chơi suốt ngày với người cháu đó. Ông nghĩ rằng như vậy đầu óc bà sẽ được khuây khỏa vì cái tang đó làm cho bà đau khổ hơn là ông ngại. Trong khi Margaret và Barbara nói chuyện với nhau về dân chúng ở Ixopo, Lufafa, Highflats và Umzimkulu, ông đi dạo ngoài vườn vì ông là nhà nông. Được một lát, họ gọi ông, hỏi ông có muốn đi cùng vối họ ra thành phố không. Ông đáp thích ở nhà coi báo hơn, và ông ở nhà coi báo.
Báo đăng đầy tin tức về mỏ vàng mới kiếm được ở Odenlaalsrust và về sự phấn khởi quá độ vẫn chưa hề giảm ở thị trường chứng khoán. Một nhà có kinh nghiệm, uy tín về vấn đề đó khuyên người ta coi chừng, đừng mua với giá mỗi ngày một cao lên nữa, vì không có gì chứng tỏ rằng giá hiện thời không quá đáng rồi, có thể rằng ít ngày nữa giá sẽ hạ, gây ra nhiều vụ bại sản. Báo cũng đăng nhiều vụ phạm pháp mới nữa, hầu hết là những người da đen hành hung người da trắng, nhưng không có vụ nào khủng khiếp làm cho người ta không dám mở báo ra đọc.
Đượng đọc thì ông nghe tiếng ai gõ cửa sau, ông lại mở cửa và thấy một mục sư bản xứ đứng trên phiến đá lát đằng sau nhà, dưới chân ba bậc thềm đưa lên nhà bếp. Mục sư đó già, bộ đồ đen đã bạc thành màu xanh, cổ cồn đã vàng vì cũ quá hoặc vì dơ bẩn. Ông mục sư dỡ nón, để lộ mớ tóc bạc. Có vẻ hoàng hốt sợ sệt. Ông ta lóng ngóng.
Ông Jarvis nói thao tiếng Zulu nên chào bằng tiếng đó:
- Chào Umfundisi.
Ông mục sư giọng run chào lại:
- Kính chào Umnumzana.
Và Jarvis ngạc nhiên thấy ông ta ngồi bệt ngay xuống dưới bực thềm thấp nhất, như thể đương đau hay đói lả vậy. Jarvis biết rằng thái độ đó không phải là vô lễ, vì ông già đó có vẻ khúm múm, lễ phép, vì vậy ông bước xuống, hỏi:
- Umfundisi có đau không?
Ông lão làm thinh, vẫn run lẩy bẩy, ngó xuống đất thành thử Jarvis không thể nhìn thấy mặt ông ta. Muốn nhìn thì phải đưa tay nâng cằm ông ta lên, mà việc đó không thể làm một cách khinh xuất được.
- Umfundisi có đau không?
- Thưa Umnumzana, một lát rồi sẽ hết.
- Có muốn uống nước không? Có muốn ăn cái gì không? Có đói không?
- Thưa không, Umnumzana, một lát rồi sẽ hết.
Jarvis đứng ở phiến đá lát, dưới bực thềm thấp nhất, nhưng ông lão vẫn chưa thấy dễ chịu hơn, vẫn còn run, vẫn nhìn xuống đất. Rất ít khi một người da trắng mà lại đứng đợi như vậy trước một người da đen, nhưng Jarvis kiên nhẫn đợi vì thấy ông lão rõ ràng là đau yếu, suy nhược lắm. Ông lão rán sức chống gậy đứng lên, chiếc gậy tuột ra, rớt trên phiến đá, vang lên một tiếng. Jarvis lượm lên trả ông lão, nhưng ông lão đặt nó xuống như thể nó chỉ làm bận mình, đặt cả chiếc nón xuống nữa, rồi hai bàn tay chống vào bực thềm, rán đứng dậy. Gắng sức mà không được, ông ta lại ngồi xuống, lại run lẩy bẩy. Jarvis muốn đỡ ông ta nhưng lại ngại có vẻ khinh xuất (1); lượm cây gậy thì được. Ông lão lại chống tay lên bực thềm và lần này đứng dậy được. Lúc đó ông ta mới ngửng mặt lên nhìn Jarvis, và Jarvis thấy nét mặt ông ta khổ sở vô cùng chứ không phải đau hay đói. Jarvis bèn cúi xuống lượm chiếc nón và cái gậy, gión tay cầm chiếc nón vì nó cũ và dơ quá, đưa trả hai vật đó cho mục sư.
- Tôi xin đa tạ Umnumzana.
- Umfundisi có thật không đau không?
- Thưa Umnumzana, tôi đã khá rồi.
- Umfundisi có chuyện gì đây?
Ông lão lại đặt chiếc nón và cây gậy xuống bực thềm, tay run run móc một cái bao nhỏ trong túi chiếc áo bạc phếch ra; giấy má rớt cả xuống đất vì tay ông ta vẫn còn lẩy bẩy.
- Tôi xin lỗi Umnumzana.
Ông ta cúi xuống lượm giấy má lên, và vì già nên ông phải quỳ xuống, mà giấy má lại cũ kỹ, bẩn thỉu, lượm được mấy tờ giấy này rồi thì trong khi lượm các tờ khác, mấy tờ trước lại rớt xuống, và hai bàn tay ông run bần bật lên. Jarvis nửa thương hại nửa bực mình, ngượng ngùng đứng ngó ông già.
- Tôi xin lỗi Umnumzana, đã làm mất thì giờ Ngài đứng chờ.
- Có sao đâu Umfundisi.
Sau cùng ông lão lượm xong các tờ giấy, cất lại trong cái túi nhỏ, trừ ra một tờ ông chìa cho Jarvis. Tờ đó ghi địa chỉ và tên người chủ ngôi nhà hiện họ đương đứng ở cửa.
- Đúng là nhà này, Umfundisi.
- Thưa Umnumzana người ta nhờ tôi lại đây. Có một người tên là Sibeko ở Ndotsheni.
- Ndotsheni tôi biết. Chính tôi cũng ở Ndotsheni.
- Thưa Umnumzana, người đó có một đứa con gái đi ở cho một người da trắng tên là uSmith ở Ixopo.
- Phải.
- Và sau cô con gái ông uSmith đó có chồng da trắng tên người chồng ghi trên miếng giấy này đây.
- Đúng.
- Cặp vợ chồng đó lại Springs này ở, và đứa con gái của Sibeko cũng lại đây giúp việc nhà cho họ. Đã mười hai tháng nay Sibeko không được tin tức gì của con gái, cho nên đã nhờ - đã cậy tôi - hỏi thăm giùm xem đứa con gái đó ra sao.
Jarvis quay vô nhà rồi trở ra với một người đầy tớ trai còn trẻ, bảo:
- Đây, hỏi thăm anh này.
Rồi lại quay vô nhà. Nhưng khi vô rồi, ông bỗng nhớ ra người lạ đó chính là ông muc sư già ở Ndotsheni, nên lại trở ra.
- Umfundisi hỏi được tin tức không?
- Thưa Umnumzana, anh này không biết nó, vì khi lại đây thì nó đã đi làm nơi khác rồi.
- Cô chủ nhà, người con gái ông uSmith đi khỏi, nhưng cũng sắp về, ông muốn đợi một chút thì đợi.
Jarvis bảo người bồi thôi, không có việc gì cả và đợi cho anh ta vô rồi mới hỏi ông lão:
- Tôi biết ông, Umfundisi.
Vẻ đau khổ trên nét mặt ông lão làm cho Jarvis động lòng, bảo ông ta ngồi xuống. Như vậy ông lão có thể nhìn xuống đất mà khỏi phải nhìn mặt Jarvis, và Jarvis cũng khỏi phải nhìn ông ta, mà thấy khó chịu trong lòng. Ông lão ngồi xuống, Jarvis nói mà không nhìn ông ta:
- Ông và tôi như có cái gì với nhau mà tôi nghĩ không ra.
- Thưa Umfundisi.
- Ông sợ tôi mà tôi không hiểu tại sao. Ông đừng sợ tôi.
- Thưa Umnumzana đúng vậy. Ngài không biết được đâu.
- Tôi không biết nhưng tôi muốn biết.
- Tôi ngại không thể nói được quá, thưa Umnumzana.
- Ông phải nói cho tôi biết chứ. Có nghiêm trọng không?
- Rất nghiêm trông thưa Umnumzana. Nghiêm trọng nhất trong đời tôi.
Ông lão ngửng mặt lên và Jarvis chưa bao giờ thấy một vẻ mặt đau khổ nhường ấy.
- Ông lão hãy nói đi, nói cho vơi lòng đi.
- Tôi sợ quá, Umnumzana.
- Tôi biết, và tôi không hiểu tại sao lại như vậy. Nhưng tôi đã nói rồi, ông đừng nên sợ, tôi không nổi giận đâu. Tôi không có gì giận ông lão đâu.
- Vậy, cái điều nghiêm trọng nhất trong đời tôi đó cũng chính là cái điều nghiêm trọng nhất trong đời ngài.
Jarvis ngó ông lão, mới đầu ngơ ngác rồi bỗng nẩy ra một ý nghĩ, bảo:
- Chỉ có thể là điều đó thôi, chỉ có thể là điều đó thôi, nhưng tôi vẫn chưa hiểu.
Ông lão nói:
- Con trai tôi đã giết con trai ngài.
Cả hai đều im lặng. Jarvis bỏ đi, bước vô vườn cây, ngừng lại ở bức tường và nhìn ra cánh đồng cỏ ở xa và những đống khoáng chất ở mỏ, cao như những ngọn đồi dưới ánh nắng. Khi ông ta quay trở lại thì thấy ông lão đã đứng dậy, một tay cầm nón, một tay cầm gậy, đầu cúi xuống, mắt nhìn xuống đất. Jarvis trở lại bên ông lão bảo:
- Đã nghe ông nói, đã hiểu điều lúc nãy tôi không hiểu. Lòng tôi không phẫn nộ.
- Thưa Umnumzana.
- Cô chủ nhà đã về, cô con gái ông uSmith. Ông muốn gặp cô ấy không? Ông đã dễ chịu chưa?
- Thưa Umnumzana, chính vì việc đó mà tôi mới lại đây.
- Tôi hiểu. Và ông đã xúc động mạnh khi thấy tôi, ông không ngờ gặp tôi ở đây. Mà làm sao ông biết tôi?
- Tôi đã thấy Ngài cưỡi ngựa đi ngang qua Ndotsheni, trước giáo đường tôi.
Jarvis lắng tai nghe tiếng trong nhà, rồi hạ giọng hỏi:
- Vậy chắc ông cũng thấy con tôi chứ? Nó cũng thường cưỡi ngựa đi ngang qua Ndotsheni, cưỡi con ngựa mình hồng mà mặt trắng. Nó thường đeo những cây súng gỗ, ở dây lưng này, như mọi đứa trẻ khác.
Mặt ông lão nhăn nhó. Ông ta vẫn nhìn xuống đất và Jarvis thấy mấy giọt nước mắt rơi xuống đất. Chính Jarvis cũng xúc động, muốn cho cảnh đó phải chấm dứt, nhưng chưa biết nên nói sao.
- Thưa tôi nhớ, Umnumzana. Trông cậu ấy có cái gì rực rỡ.
Jarvis nói:
- Đúng, đúng, trông nó có cái gì rực rỡ.
- Thưa Umnumzana, thực khó nói quá. Nhưng lòng tôi thực đau xót cho ngài, cho Inkosikazi (2) và thiếm Inkosikazi (3) và cho các cô cậu.
Jarvis bảo:
- Được, được - giọng mạnh bạo - để tôi vô gọi cô chủ nhà ra.
Ông ta trở vô dắt nữ chủ nhân ra, nói tiếng Anh với cô này:
- Ông già này lại hỏi thăm người con gái một người bản xứ tên là Sibeko, trước có giúp việc nhà cho cháu ở Ixopo, vì gia đình bặt tin từ lâu rồi.
Cô con gái của Smith đáp:
- Cháu đã đuổi nó đi rồi. Mới đầu nó rất ngoan ngoãn và cháu hứa với ba nó là sẽ coi chừng nó cho. Nhưng rồi nó đổ đốn, nấu rượu lậu trong phòng nó. Nó bị bắt giam một tháng. Dĩ nhiên, sau đó cháu không thể cho nó trở lại làm được nữa.
Jarvis hỏi:
- Cháu có biết nó đi đâu không?
Cô ta trả lời bằng tiếng Anh:
- Làm sao biết được, mà cũng chẳng cần biết làm gì.
Jarvis nói bằng tiếng Zulu:
- Cô ấy không biết.
Nhưng không nói thêm rằng cô ấy không cần biết làm gì.
Ông lão đáp lại bằng tiếng Zulu:
- Xin đa tạ, xin chúc Umnumzana ở lại mạnh giỏi.
Ông ta cúi đầu chào thiếu phụ, nàng khẽ gật đầu đáp lại.
Ông ta đội nón lại, đi xuống con đường ra cửa sau theo tục lệ (4), người con gái của Smith trở vô nhà còn Jarvis đứng nhìn theo ông lão. Ông lão mở cửa bước ra khi quay lại để khép cửa, thấy Jarvis nhìn theo mình, ông ta cúi đầu chào.
Jarvis bảo:
- Umfundisi đi mạnh giỏi.
- Umnumzana ở lại mạnh giỏi.
Ông lão cất nón lên chào rồi lại đội xuống. Rồi ông chậm chạp bước đi, tiến lại phía con đường ra ga. Jarvis nhìn theo cho tới khi ông ta khuất bóng. Ông vừa quay lại trở vô nhà thì thấy bà vợ đi ra đón ông, và lo lắng nhận thấy rằng vợ mình đi lòm khòm như người già rồi.
Ông tiến về phía vợ, và bà đưa cánh tay ra khoác tay chồng.
- Có cái gì mà anh xúc động như vậy? Hồi nãy lúc anh trở vô nhà, anh xúc động mạnh lắm là làm sao?
Ông chồng đáp:
- Một chuyện đã qua bây giờ hiện lên. Nó hiện lên thình lình quá em à.
Bà không hỏi là chuyện gì mà đáp:
- Em biết.
Rồi ghì chặt cánh tay chồng hơn nữa bảo:
- Barbara mời chúng mình vô nhà ăn trưa đấy.
Chú thích:
1. Vì sự cách biệt giữa người da trắng và da đen.
2. Nghĩa tựa như phu nhân của ta.
3. Tức là quả phụ nàng dâu của Jarvis.
4. Người da đen vô nhà người da trắng thì phải do cửa sau
|
|
|