Mãi chập choạng tối, lão gia nhân mới trở về. Mặt lão tái mét, mắt đầy gân máu. Hơi rượu từ miệng lão phả nồng nặc một khoảng không khí trong phòng. Lão say lắm, song cặp mắt vẫn mở lớn và còn nhớ đến công việc. Lão dắt một gã đàn ông đã xế tuổi, to mập mạp, dáng hiền lành, về theo. Trông ông ta ra vẻ một người thợ.
Liên quan sát hai người, hỏi:
"Gì đó già Năm?"
"Thưa cô, ông Bảy, một người bạn của già. Ông từng giúp việc cho cụ khi xưa. Già thấy thiếu người nên bảo ông tới phụ một tay.
Người đàn ông lí nhí cúi đầu chào hai chị em Liên. Nàng nói:
"Được rồi. Ông cứ ở đây. Bao giờ mới có thể xuống nghĩa địa được, già Năm?"
"Thưa cô, bây giờ sửa soạn đi là vừa".
"Sợ còn sớm lắm không?"
"Thưa cậu, không sớm đâu. Từ bây giờ đến lúc..." – lão ngần ngại một giây – "đến lúc mang được áo quan lên phải trên một tiếng đồng hồ".
Hiệp ngần ngại hỏi:
"Mang thi hài cụ về đây sao?"
"Phải làm thế. Ngày mai mới chính thức an táng được. Chú quên rằng giữa hai việc còn nhiều vấn đề phải giải quyết chớ?"
Hiệp không trả lời. Anh ta bần thần cúi nhìn mặt bàn đầy kính vụn. Liên thở phào đứng dậy. Nàng bảo lão gia nhân:
"Già với ông Bảy đi lấy đồ dùng đi".
Mười phút sau ngôi biệt thự được khoá kín, họ theo nhau xuống thung lũng Suối Cá Thần. Bốn cái bóng nhỏ dần trong một trời cao nguyên im vắng mênh mông. Họ không nói gì với nhau, cho đến lúc xuống đến khu nghĩa địa. Từ đó trông ngược lên thị trấn người ta thấy rõ cái đỉnh tháp chuông nhọn cạnh của nhà thờ tỉnh. Tiếng chuông đổ vào đúng lúc ấy.
Người đàn ông mập mạp dừng trước một nấm đất mới. Ông ta ra hiệu cho mọi người và cắm phập lưỡi mai xuống cạnh đầu mộ. Ông ta rút thẻ hương mang theo trong mình lấy ba cây thắp lên. Bằng một dáng điệu âm thầm trịnh trọng, ông ta quỳ gối vái vong hồn. Lão gia nhân đứng im.
Xong lễ, công việc cải táng bắt đầu.
Những cuốc đất chưa ráo nước bị hất bừa bãi ra xung quanh, bởi hai người đàn ông nhiều tuổi. Lúc một tiếng vang đục ngầu âm gỗ ẩm dội lên, sau nhát cuốc của người đàn ông mập mạp, trên thị trấn vừa bật đèn đường. Hai lưỡi xẻng bắt đầu xúc lớp đất sàn sàn mặt áo quan, gây nên những tiếng động thình thình. Mặt ván sơn những quang dầu lộ dần dưới hai cặp mắt thất thần của chị em Liên. Cả hai đều đứng dựng bên miệng huyệt.
Hai sợi dây lớn được lùa xuống phía dưới đáy áo quan đã kênh lên, một cách chật vật. Tấm áo quan đẽo gọt cầu kỳ, có vẻ khá nặng và kềnh càng. Đến gần nửa tiếng, họ mới nhấc được một đầu lên. Nét mặt họ lúc đó gần như xuất nước, trương phồng. Bỗng ngọn đòn phía lão gia nhân hụt bổng và cỗ quan tài gieo mạnh xuống lòng huyệt, nắp bật khỏi mộng.
Lão gia nhân kêu như than: "Chúa tôi!". Rồi lão vuốt mồ hôi từ chân tóc dóc ra và cúi xuống đóng lại nắp mộng. Thình lình lão hét lên, tiếng hét bị bịt kín bởi hơi thở chân không đầy ắp, lạc hết giọng nhưng đầy kinh hoàng. Tiếng hé như tiếng hú nhỏ, không rõ lời.
Trong lòng áo quan không có thi hài bà Thịnh Phước, nhưng có một ít đồ đồng, gồm đỉnh, mâm, v.v. Những đồ đồng đó vốn được cất kỹ trên rầm thượng của ngôi biệt thự.
Chàng thanh niên trừng trừng nhìn lão gia nhân. Cặp mắt đó là cặp mắt tượng đá vô tri. Nhưng không ai dám cất lời. Tình thế ấy mọi lời đều bất lực. Bốn khuôn mặt im vắng như không. Họ trì trệ bất động trên một chỗ đứng. Như thế rất lâu.
Liên dời chân. Nàng lững thững leo lên đồi, theo lối đi ban nãy. Cái dáng đẫy đà của nàng in hình lên một nền cỏ cây xa gần thấp thoáng bóng tối. Hiệp vội vã theo chị, cách một khoảng dốc xa. Họ như những cái bóng không có thật. Những cái bóng của họ trước đấy vài giờ.
Khi lên đến đầu đường Ngô Thời Nhiệm, Hiệp đứng tựa lưng vào một cây bông gòn. Anh ta không nhìn thấy chị cũng như hai người giúp việc đâu nữa. Tây Phố đã về đêm.
Anh ta ngửa đầu nhìn lên đỉnh cây. Bông gòn đã bay hay rụng hết. Hàng nhánh cây thưa khẳng khiu giơ ra, một vài cành còn đeo lại một nửa trái vỏ khô cong queo. Trong lúc ấy Hiệp nghe tiếng loa phóng thanh từ trung tâm thị trấn vọng lại. Tiếng loa quảng cáo vở tuồng Khi màu hoa ân tình phai sắc thắm, của Đoàn Thi ca Vũ nhạc kịch Tân Hoa. Hiệp nhướng mắt về vùng ánh điện toả rộng. Vùng ánh sáng huy hoàng rực rỡ. Chàng nhớ khu đó là khu rạp hát Lê Kim Xuyến, ngay đầu phố chính.
Đã bao lâu nay Hiệp không hề sống lại những cảm tưởng dịu dàng của một tỉnh nhỏ. Hiệp rời Tây Phố khoảng hai năm, nhưng thật sự đã xa Tây Phố từ khi mới lớn. Cảm tình duy nhất của chàng ở đây, trong mấy năm đó, là sự chán chường luôn luôn đòi dứt bỏ. Nên sự dịu dàng xa vắng đến trong tâm hồn Hiệp, cho đến hôm nay.
Lần này nó sống lại. Hiệp nghe nao núng trong lòng một cơn sóng triều vọng tới từ biển xa, như ở bờ bên kia quá khứ. Tiếng loa phóng thanh ồn ào vừa kêu gọi Hiệp nhớ tới Tây Phố cũ. Chàng dời lưng khỏi thân cây bông, cố gắng trở về nhà, ngôi nhà từ giờ phút đó hoàn toàn hiện ra trong đầu óc Hiệp như hình ảnh bưng bít kỳ quặc. Và chàng biết đây là lần cuối cùng chàng bước trở về.
Liên ngồi trên bục gạch bờ giếng tận góc sân. Thoạt nhìn trông nàng như một pho tượng bán thân xâm đen dưới ánh đèn đường từ trên cột cao hắt xuống. Khi Hiệp vừa bước vào, anh ta đã tự dưng muốn quay ra. Ngôi nhà nổi lên trước mắt chàng thanh niên như một cái gì xa lạ lén lút. Hiệp dừng lại trên lối đi. Rồi chàng tìm một chỗ ngồi, cách xa chị. Bầy dơi trong những tàng cây um tùm tiếp tục lao vào thinh không, gây tiếng loạt soạt nhỏ. Hai người cùng nhận ra những tiếng động ấy, và hình như đều lắng nghe.
Một lát sau lão gia nhân và ông Bảy về đến. Họ khiêng mâm đồng, đỉnh đồng trên hai cây đòn. Nét mặt họ còn nhớn nhác hoang mang. Lão gia nhân sau khi hạ đòn xuống, lại mở cửa, thắp đèn. Họ cùng trở vào. Hai chị em Liên ngồi trong ghế bành. Hai người giúp việc ngồi trên hai chiếc ghế đôn kê sát tường.
Lão gia nhân nhận một điếu thuốc quấn tổ sâu do bạn đưa, nói với Liên:
"Thưa cô, thật già không hiểu ra làm sao".
"Già còn nhớ những món đồ đồng ấy chứ?"
"Vâng, đúng là đồ của nhà ta. Thường khi vẫn để trên rầm thượng. Để già thử lên đó xem sao".
"Già cứ ngồi nghỉ đó đã" – Nàng quay sang em – "Chú thấy thế nào?"
"Tôi không hiểu. Thật không hiểu".
"Tôi cũng vậy, duy sự ám muội thì đã rõ ràng. Cơ quan hành chính ở đây đã nhúng tay vào".
Hiệp châm một điếu thuốc, cố nuốt nước bọt trong hai hàm răng khô:
"Chị Liên, thật kỳ lạ quá".
"Già Năm, già thấy thế nào?"
"Thưa cô, quái gở lắm. Già không còn biết gì hết".
Hiệp ngậm khói thở dài:
"Chết mà còn chết mất xác, thật khủng khiếp. Có một cái gì đó đang bao quanh chúng ta. Cái gì đó trong cái chết của mẹ".
"Cái gì đó của Tây Phố".
"Tôi phải nói rõ với chị, tôi không muốn ở lại đây một giờ nào nữa. Thật tình tôi ân hận đã trở về. Cái kết cuộc không đẹp đẽ bao nhiêu mà chúng ta đã phải tham dự. Để rồi từng người, từng người một, bỏ đi. Coi như từng người một đã chết. Chúng ta trở lại là để vĩnh biệt".
"Dù sao như thế cũng hơn. Sự quyết định của chúng ta càng được quyết định sớm và rõ rệt hơn".
"Mọi sự theo tôi đã xong".
"Tôi có cảm tưởng khác, Hiệp ạ. Nửa giờ vừa qua đã thay đổi những gì tôi hằng nghĩ về quê hương quyến thuộc".
"Tôi không muốn nghĩ đến nữa. Dù sao sáng sớm mai, càng sớm càng tốt, tôi rời bỏ nơi này. Tôi rất tiếc phải xa chị sớm. Song chúng ta không có lý gì để đoàn tụ nữa. Có phải thế không, chị Liên?"
"Chú nhất định thế?"
"Vâng".
"Còn cỗ áo quan trống?"
Hiệp đứng dậy:
"Tôi xin lỗi. Tuỳ chị, chị Liên".
"Tôi không dính dáng gì đến quyết định ấy. Mỗi người có một phần của mình. Tôi không trách nhiệm cũng như không thay thế được cho ai. Cái chỗ mà mọi người bỏ trống sẽ bỏ trống vĩnh viễn".
"Thì như vậy. Ý kiến của tôi không thay đổi".
Thình lình tiếng gõ cửa nhè nhẹ nổi lên. Thoạt đầu ai nấy đều lắng tai về phía sân ngoài. Song tiếng gõ nổi danh từ cánh cửa có quả nắm bằng đồng đặc, gian phòng lúc trước luôn luôn được khoá kín. Từng ấy người đều nhỏm dậy, hốt hoảng cùng cực. Người đàn ông mập mạp tiếng sát đến khung cửa. Ông ta nghe ngóng và ra hiệu cho lão gia nhân, như đã sẵn sàng để đối phó với tình thế.
Lão già thất thanh hỏi:
"Ai đó?"
Im lặng, ngoài tiếng gõ. Tiếng gõ vẫn nhè nhàng bình tĩnh. Sự kinh ngạc làm căng thẳng đầu óc tất cả mọi người. Lão gia nhân luống cuống tra chìa khoá vào ổ. Cánh cửa được mở toác. Một người đàn bà bước ra. Đó là bà Thịnh Phước.
Trong một lát, căn phòng im hơi. Rồi có một người nào đó bắt đầu cử động chân tay.
"Chúa tôi!"
"Lạy cụ ạ!"
"Cụ sống khôn, chết thiêng…"
"Tao chết bao giờ mà bay hòng khóc?" – Bà Thịnh Phước nói giọng khô khan, nhưng bỗng bà lặng thinh, chán chường – "Mà tao sống cũng như tao chết rồi, Năm à".
Hiệp trân trối nhìn mẹ. Tóc bà bạc nhưng bóng, đôi mắt còn sáng, da thịt có hơi xanh xao. Bà vẫn đẫy đà như xưa, và tấm áo lên màu tro bà đang khoác trên mình là một tấm áo cũ Hiệp từng biết. Hiệp hiểu ngay đó là mẹ mình, còn sống. Chàng bực với mình khi nghĩ đã không leo lên rầm thượng từ chiều hôm qua bằng cái thang bắc sẵn. Rồi chàng mỉm cười. Nụ cười kéo dài như một nét vẽ ngượng ngùng bỏ dở, như trên một tấm ảnh làm duyên của người thiếu nữ quá thì.
"Anh cười gì đó, anh Hiệp? Tôi tưởng anh phải khóc khi thấy tôi chưa chết mới phải".
Hiệp đi lại góc phòng nhặt cái mũ là đội lên đầu, và nhấc chiếc áo blouson khỏi tay ghế, không trả lời mẹ. Chàng tiến về phía chị, đứng đối diện chị. Trông chàng cao hơn Liên một cái đầu. Chàng ngập ngừng vài giây rồi cũng nắm lấy tay chị, nâng lên. Nhưng chàng không nói một lời nào. Khi bước ra đến cửa chính, Hiệp quay lại nhìn mẹ một lần cuối cùng. Chàng cất tiếng hỏi:
"Má có dặn gì không?"
Bà Thịnh Phước không nhúc nhích.
"Má có dặn gì không. Chắc không bao giờ tôi còn về đây nữa, dù có nhận được tin má từ trần. Nếu không, tôi đi".
Không ai nói năng, Hiệp bước nhanh ra khỏi ngôi biệt thự. Trước khi đi hết lối đi lát gạch, chàng nói vọng qua cửa sổ:
"Chúc chị may mắn, chị Liên".
Chàng ra trung tâm thị trấn, vào một tiệm mì, gọi một tô lớn và một ly chanh muối. Ngồi ngả lưng vào tường, mắt lơ mơ buồn ngủ. Hiệp nghĩ đến một tấm nệm bông dầy êm ái. Lúc đứng dậy, chàng bình thản đi sang ngôi khách sạn ở bên kia đường. Đêm hôm ấy Hiệp đáp chuyến xe 9 giờ rời Tây Phố. |
|
|