Tại Hà Nội, trong giờ sinh hoạt bình thường, các con đường hẹp lát đá nơi khu vực cổ ba mươi sáu phố phường của người bản xứ tấp nập tới tận khuya. Người đi kẻ lại từng đoàn. Xe bò chở hàng, xe kéo tay và thỉnh thoảng, xe hơi bóp còi inh ỏi. Nhiều khi thậm chí còn có mấy thớt voi chở gỗ súc, đu đưa lúc lắc, nặng nề và đủng đỉnh bước giữa chốn kinh kỳ phồn hoa thanh lịch. Nhưng vào tám giờ tối trong đêm giao thừa này, đúng lúc Jacques Devraux nhận được báo cáo của gã lai trong tầng hầm Nha Liêm Phóng, những hàng phố cổ xưa ấy lại im lìm vắng vẻ. Chỉ có chiếc xe kéo bánh niềng sắt chở Đào văn Lật tới cuộc họp bí mật của chi bộ tại ngôi chùa nhỏ đằng sau phố Đồng Nhân khuấy động không gian yên tĩnh ấy khi nó lóc cóc đều nhịp khua vang mặt đường lát đá.
Lật biết rất rõ, theo truyền thống của dân tộc, vào giờ này hầu hết chín chục ngàn cư dân Hà Nội đều quây quần quanh bàn thờ gia tiên, chuẩn bị cúng giao thừa, thành kính đón rước hương hồn ông bà tổ tiên về ăn Tết với con cháu và nghênh đón xuân Canh Ngọ. Thoạt đầu, anh định thuê xe kéo bánh bọc cao su, loại được người Pháp ưa dùng, để việc âm thầm di chuyển trên đường đêm vắng vẻ được kín đáo và thuận lợi. Nhưng sau đó, anh nghĩ lại rằng nhân viên mật thám của Liêm Phóng hẳn không thể nào ngờ một chiến sĩ cách mạng dám ngang nhiên đi lại trong khu vực nội thành bằng xe kéo bánh sắt. Do đó anh quyết định nên chọn chiếc xe khua rộn ràng nhất mình có thể gọi được.
Chiếc xe kéo chở Lật chạy lóc cóc qua những hàng phố có bảng đường nền xanh chữ trắng, được đặt tên theo ngành buôn bán và nghề thủ công cha truyền con nối từ hàng trăm năm nay, sống quần tụ thành hội thành phường hai bên một đường phố cổ. Phố Hàng Ngang song song phố Hàng Thuốc Bắc, cùng gặp phố Hàng Bồ, Hàng Quạt, Hàng Gai và nhiều phố khác nữa. Mỗi phố tiêu biểu một mặt hàng hoặc một ngành nghề khác nhau.
Chiếc xe kéo chở Lật ngừng bánh ở đầu phố Đồng Nhân, trước một căn phố có những áo quan sơn son thiếp vàng sặc sỡ được đặc biệt đóng cho thi hài những người Hoa giàu có, chất thành từng dãy cao bên trong cửa sổ. Lật trả tiền cho phu xe rồi lẹ làng biến mình vào bóng tối. Anh đứng yên mấy phút trên lối vào bên hông nhà người đóng áo quan, đưa mắt nhìn xuôi ngược cả hai hướng đường, tìm dấu hiệu của một chiếc đuôi nào đó. Hài lòng thấy mình không bị theo dõi, Lật chuồn êm vào một ngõ hẽm mặt đường lót bằng đá phiến, dẫn tới cổng tam quan hai bên có cột trụ chống đỡ, mặt trước của một ngôi chùa nhỏ.
Khi Lật tới gần, đằng sau cột trụ bỗng nhô ra một dáng người lờ mờ. Rồi có tiếng phụ nữ cất lên, thầm thì và dè dặt:
- Anh Lật đó phải không?
Người vừa hỏi là một thiếu nữ đầu choàng khăn san, mình mặc áo khoác mỏng bằng vải tuyn đen bên ngoài chiếc áo cụt cũng màu đen và quần dài màu nhạt hơn, để dễ lẫn với bóng tối. Dù ánh sáng ban đêm không nhìn rõ nét, Lật vẫn nhận ra đó là Liên. Lời chào hỏi của nàng nghe êm ái, làm anh cảm thấy ấm lòng. Anh cười khe khẻ và trả lời:
- Đúng, anh đây. Em không nghe anh tới bằng chiếc xe kéo khua điếc lỗ tai đó sao?
Chúi người tới trước, Lật áp nhẹ mũi mình lên má nàng. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, cả hai để cho hơi thở quyện vào nhau theo lối hít âu yếm cổ truyền của nam nữ người Việt. Rồi họ rời nhau, mỗi người đi riêng một lối vào chùa. Ngang sân chùa, Lật vừa đi vừa gỡ kính đeo mắt, lau sương đêm, khiến anh suýt va người vào cây lộc được nhà chùa chuẩn bị sẵn cho khách thập phương sáng mai mồng một Tết tới chùa lễ Phật và hái lộc.
Trên tầng cấp tiền điện, nơi ánh nến lung linh chiếu lên những bức tượng màu sắc lòe loẹt của Quan Thánh: Thần Chiến tranh, và Diêm Vương: Vua Địa ngục, chú tiểu giữ cửa đang chờ sẵn để nhận thật kỹ đúng mặt từng người. Trong khi cả ba đang nhìn tận mặt nhau, sau lưng họ có ba bóng người khác cũng âm thầm đi vào chùa.
Lật và Liên thì thầm trao đổi với Ngô văn Lộc và hai con trai của anh: Đồng và Học. Cũng như mọi đảng viên khác trong chi bộ, ba cha con phu cạo mủ trốn thoát khỏi đồn điền cao su Vị An bốn tháng trước nay chỉ được các đảng viên khác biết tới bằng bí danh. Ngô văn Lộc là Sơn Thủy: Nước trên non; Đồng, con trai cả của anh là Lam Giang: Dòng sông màu lam; trong khi Học, con trai thứ, là Mạnh Tùng: Người vâng phục; bản thân Lật được tôn là Giáo Nhân: Thầy dạy học; và Liên là Trinh Chinh: Trinh nữ chinh chiến.
Sau khi xác định tất cả đều đúng mặt, chú tiểu chấp tay, cúi đầu tóc ba chòm xuống chào và dẫn họ đi ngang qua các liếp cửa đóng và chánh điện, nơi những bức tượng thiếp vàng của Phật A di đà và Phật Thích Ca trầm lặng nhìn xuống tế phẩm gồm vô số hoa quả chất cao trên bàn thờ, ngay dưới chân tượng. Mọi sự nơi chánh điện tinh tươm và trang trọng hơn ngày rằm và mồng một bình thường, vì nhà chùa đang chuẩn bị đón năm mới.
Qua hết chiều ngang của chánh điện, chú tiểu đưa tay chỉ cho họ đi về mé hậu liêu, phần sau của chùa, nơi có căn phòng nhỏ thường được các nhà sư dùng để hội ý những chuyện lặt vặt trong chùa. Tại đó, họ thấy đang có hơn chục người khác tụ họp quanh bàn. Ánh sáng từ ngọn nến gắn trong hốc tường làm căn phòng bớt tối tăm nhưng vẫn tờ mờ, để không ai có thể nhớ rõ mặt ai.
Bí thư chi bộ ngồi ở đầu bàn là một nhà giáo người Bắc kỳ, đeo kính trắng, được các đảng viên trong chi bộ biết với bí danh Thanh Giang: Dòng sông trong trẻo. Tuổi trạc ba mươi nhưng vẻ mặt anh trông trẻ trung như một thiếu niên với hai má phúng phính và chiếc mũi hơi hếch. Khi năm người mới tới ngồi yên chỗ, Thanh Giang bứt rứt, mắt nhìn mãi về hướng chiếc ghế cuối cùng còn trống, được dành sẵn cho cô gái lúc này đang đau đớn, khóc rấm rứt và xót xa trong nhà ngục của Nha Liêm Phóng. Anh thấp giọng hỏi:
- Có đồng chí nào biết rõ lý do vắng mặt của đồng chí Minh Quyên không?
Không có tiếng trả lời. Thanh Giang sốt ruột xem đồng hồ tay:
- Chúng ta không thể chờ thêm nữa. Biết đâu lúc này có thể tất cả chúng ta đang lâm nguy. Các đồng chí hãy nghe kỹ những gì tôi cần phải thông báo.
Anh ngừng một chút cho bớt vẻ gay cấn rồi nói tiếp:
- Các đồng chí, cuối cùng đã tới thời điểm mà vì nó tất cả chúng ta hoạt động tích cực suốt hai năm nay. Lãnh đạo đảng vừa quyết định rằng nay là lúc chúng ta cho nổ bùng cuộc tổng khởi nghĩa đánh đuổi thực dân Pháp — không thể để trễ hơn nữa!
Từ trong ghế ngồi, các đảng viên hồi hộp, rướn người. Vài kẻ mở miệng rồi ngậm lại ngay như cố nuốt tiếng thốt kinh ngạc của mình. Đằng sau tròng kính trắng, đôi mắt của người họ chỉ biết là Thanh Giang đột nhiên sáng rực và long lanh khác thường:
- Sau hai năm kiên trì thực hiện công tác binh vận những người anh em chúng ta đang đi lính trong các binh đoàn của bọn Tây, nay những anh em ấyï đều sẵn sàng hành độngï! Từ Lao Cai giáp ranh Trung Hoa tới khắp châu thổ sông Hồng, lúc này, những anh em binh sĩ ấy sẵn sàng khởi nghĩa, quay hướng mũi súng về phía bọn quan Tây chỉ huy. Nhưng các đồng chí ạ, để nổi dậy, họ cần tới sự lãnh đạo của chúng ta. Vì thế, mỗi chi bộ đảng được lệnh phụ trách công tác lãnh đạo một binh đoàn tại một địa điểm binh biến riêng biệt. Nếu hết thảy chúng ta đều dũng cảm hành động, chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ tiến đoàn quân chiến thắng vào Hà Nội và Hải Phòng!
Anh ngưng một chút, nhìn xuống một vỏ bao thuốc lá có vẽ quệch quạc mấy nét, đặt trên bàn trước mặt:
- Chi bộ chúng ta được chỉ định lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở địa điểm chủ lực là Yên Bái, cách Hà Nội khoảng một trăm cây số, trên mạn ngược sông Hồng. Tại đó có bộ chỉ huy Tiểu đoàn Hai của Trung đoàn Bốn thuộc Khinh Binh Khố Đỏ Bắc kỳ. Chúng ta phải huy động một lực lượng gồm sáu mươi nghĩa quân. Vũ khí đã chế tạo xong và đang được giấu sẵn ở gần đồn binh Yên Bái. Tôi đã từng nhiều lần đích thân tới tham quan binh đoàn và kiểm tra thực tế công tác để lên kế hoạch cụ thể. Có bốn đại đội người anh em chúng ta — một ngàn người — tất cả đều có cảm tình với chính nghĩa của dân tộc!
Anh cầm vỏ bao thuốc lên, đưa về phía có chút ánh sáng:
- Chỉ có tám thằng quan Tây, dưới quyền chỉ huy của thằng Tiểu đoàn trưởng Le Tacon. Chỉ huy trưởng các đại đội là thằng quan ba Jourdain và thằng quan ba Leonnard, thằng quan hai Caspian và thằng quan hai Devraux.
Thanh Giang lại ngước mắt, sôi nổi nhìn mọi người:
- Các đồng chí ạ, chỉ bốn ngày nữa thôi, hết thảy bọn quan Tây và lũ đội xếp của chúng sẽ nếm mùi vị tàn sát ác liệt của các vũ khí hiện đại và những thanh kiếm sắc đã được chúng ta trui rèn trong các xưởng quân khí bí mật từ mấy năm nay.
Danh sách sĩ quan Pháp đã được đọc xong nhưng Ngô văn Lộc người vẫn cứng trong ghế, chưa hết nổi gai ốc. Rồi anh cảm thấy Đồng, cậu con lớn, kéo tay áo cha. Anh khẩn trương chồm người tới, cắt ngang lời của bí thư chi bộ:
- Đồng chí, xin cho biết đầy đủ tên tuổi của thằng Devraux.
Thanh Giang cau mày nhìn xuống lần nữa các mảnh giấy ghi chú:
- Thằng quan hai Devraux, hai mươi ba tuổi — tốt nghiệp học viện quân sự St Cyr. Yên Bái là đơn vị đồn trú đầu tiên của nó.
Đọc xong, anh bỗng nhìn Lộc với tia mắt sắc bén:
- Tại sao đồng chí hỏi như thế? Bộ đồng chí có quan hệ với nó?
Lộc vội vàng lắc đầu:
- Xin lỗi. Tôi nghe lầm. Nhưng đồng chí ạ, tôi muốn nói rõ là tôi và hai đứa con đều xin được bố trí vào toán xung kích đầu tiên.
Bí thư chi bộ vừa trả lời rất nhanh vừa nhìn quanh bàn:
- Tốt, tốt lắm! Cám ơn đồng chí Sơn Thủy. Tôi hy vọng hết thảy các đồng chí ở đây đều hăng hái tình nguyện tham gia công tác, không thua kém ba cha con đồng chí chút nào!
Bỗng nhiên, Đào văn Lật đưa bàn tay lên xin nói. Không chờ Thanh Giang tỏ ý chấp thuận, anh phát biểu với giọng nhẹ nhàng:
- Theo tôi, ai liều tính mạng cho cái mà đồng chí gọi là tổng khởi nghĩa nhưng thực chất chỉ là một cuộc phiêu lưu nóng vội, đó là người điên. Đồng chí Thanh Giang ạ, quyết định khởi nghĩa lúc này là không đúng. Thời gian chưa chín muồi cho việc khởi nghĩa. Dân chúng chưa sẵn sàng.
Ý kiến phản đối không úp mở của Đào văn Lật làm bầu không khí hậu liêu choáng váng, im lặng. Bí thư chi bộ sửng người ngó anh rồi thình lình, mặt trắng bệch giận dữ:
- Tôi đã đích thân làm công tác binh vận tại Yên Bái. Nhiều binh đoàn khác cũng đang sẵn sàng khởi nghĩa. Lãnh đạo đảng nắm đủ bằng chứng cụ thể.
- Bộ bọn Tây cũng không có bằng chứng về những âm mưu của chúng ta sao! Việc đó không còn bí mật nữa khi nhiều kho cất giấu vũ khí của ta bị địch khám phá và tịch thu. Lúc này, hẳn bọn Tây cũng đang đề phòng.
Hít vào một hơi thật sâu, Thanh Giang kềm giọng và chậm rải giải thích:
- Chính vì thế chúng ta chỉ còn con đường duy nhất là tổng khởi nghĩa. Từ sau vụ ám sát gã mộ phu Bazin và vụ phản bội của đội Dương, ta phải rút vào hoạt động bí mật hơn. Bọn Tây cài được nhiều Việt gian vào hàng ngũ của chúng ta. Chúng ta có nguy cơ bị tan rã vì khủng bố trắng. Chỉ có một cách cứu vãn là khởi nghĩa.
Đào văn Lật cao giọng:
- Nhưng khởi nghĩa như thế là tự sát. Vẫn còn có giải pháp là co về thế thủ, bảo toàn và củng cố lực lượng để tiến hành vận động đồng bào cả nước, còn hơn nổ ra lác đác ở một số địa điểm ngoài bắc này để rồi bị cả quân lực của bọn Pháp tràn tới bóp chết. Chỉ mới bị khám phá một số vũ khí tự chế thì đã sao?
Điên tiết vì thẩm quyền lãnh đạo bị thách thức dai dẳng, Thanh Giang đấm mạnh nắm tay xuống mặt bàn:
- Vâng, đúng là có một số vũ khí bí mật bị khám phá! Bọn Tây và bọn quan lại Việt gian lấy cớ đó bắt bớ bừa bãi, tra tấn tàn tệ những ai chúng nghi ngờ hoặc có ác cảm. Hiện nay, khẩu hiệu số một của chúng là thà bắt lầm hơn bỏ sót! Chúng dùng khủng bố để làm nhụt chí cách mạng! Đồng chí có chắc rằng co cụm là không bị bóp chết? Để tránh trước tình trạng đó, chúng ta có nhu cầu phải hành động thật gấp. Nếu lúc này chúng ta không nổi dậy, sẽ tổn thất thêm nhiều vũ khí, bị bắt thêm nhiều đồng chí. Thêm nữa, nếu chúng ta trì hoản, lòng dân chúng khao khát khởi nghĩa chống thực dân Pháp sẽ mòn mỏi dần!
Lật trả lời bình tĩnh và quả quyết:
- Nếu những kẻ mà đồng chí gọi là “người anh em chúng ta” nổi dậy lúc này, chắc chắn họ sẽ không tránh khỏi bị tàn sát. Đảng viên Quốc Dân Đảng hiện chỉ mới được vài ngàn người.
Người bí thư chi bộ cất cao giọng:
- Nhưng toàn là những người sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa. Họ hiểu rằng cây cách mạng phải tưới bằng máu. Họ biết rằng thành trì của các chế độ bạo ngược sẽ bị lung lay qua các cuộc khởi nghĩa, và gốc rễ sẽ bị đánh bật lên trong một cú chót. Họ thà chết như những người dũng cảm, liều tính mạng cho chính nghĩa, còn hơn sống theo cái kiểu đồng chí muốn cho chúng ta sống, sống làm những thằng hèn. Nếu chẳng may thất bại, ít ra chúng ta cũng gieo mầm và đắp bồi thêm con đường đấu tranh của dân tộc, để lại gương hy sinh và gương chiến đấu cho những người khác noi theo, đồng thời chúng ta cũng đã thể hiện đầy đủ nhân cách, giữ trọn vẹn nhân phẩm của mình. Đảng trưởng đã nói: “Không thành công thì thành nhân.”
- Một thủ lãnh khôn ngoan hơn chắc chắn sẽ quyết định rằng thà là chờ đợi — sống để chiến đấu vào một ngày nào khác. Tự đưa mình vào tình trạng bị tiêu diệt trong khi chưa chuẩn bị đầy đủ, chúng ta sẽ chẳng gặt hái được thành quả nào. Những người cộng sản của Nguyễn Ái Quốc từ chối tham gia với chúng ta hẳn cũng vì lý do đó — vì họ có thể thấy là thời gian chưa chín muồi cho một cuộc toàn quốc khởi nghĩa.
Thanh Giang khinh mạn tuôn một hơi:
- Đồng chí nói phải lắm! Nguyễn Ái Quốc yêu nước lắm, yêu nước quá tới độ hai chục năm nay không đặt bàn chân của ông ta lên đất nước này! Ông ta là công cụ của Bôn-sê-vich tại Mát-cơ-va. Ông ta sợ không dám về quê hương. Ông ta không xứng đáng tự nhận mình là người Việt Nam yêu nước. Ông ta chỉ là một trong vô số kiều bào hải ngoại trên khắp thế giới, tệ hơn nữa, ông ta thuộc thứ kiều bào chỉ nương náu ngoại bang để rung chuông gõ trống trong khi đồng bào trong nước chịu giết chóc, tù đày. Chính cụ Phan Châu Trinh cũng đã khuyên ông ta hãy về nước mà đấu tranh. Chỉ có những ai hai chân bám trụ đất nước, chia ngọt xẻ bùi với dân tộc, sống đau sống nhục với đồng bào, mới biết chỉ duy nhất còn một đường sống là chiến đấu cho độc lập và tự do của dân tộc.
Viên bí thư chi bộ Quốc Dân Đảng ngừng lại, đưa ngón tay lên lòn vào lau lau tròng kính rồi gằn giọng:
- Thêm nữa, giữa Nguyễn Ái Quốc với chúng ta đã có lằn ranh rạch ròi. Các đồng chí ở Quảng Châu đề quyết rằng chính ông ta là Lý Thụy, kẻ chủ mưu mượn tay Lâm Đức Thụ bán đứng cụ Phan Bội Châu cho bọn Tây tại Thượng Hải. Nguyễn Ái Quốc đấu tranh theo chủ nghĩa cộng sản, dựa vào Quốc Tế Đệ Tam, còn chúng ta đấu tranh theo chủ nghĩa tam dân, chỉ dựa vào sức mình, vào dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đi tìm giải pháp cho Việt Nam trong giải pháp chung của quốc tế do Mát-cơ-va chủ động, chúng ta tìm giải pháp trên căn bản quốc gia, do chính chúng ta nỗ lực chủ động. Người cộng sản mạnh hoặc yếu theo với tình hình vô sản quốc tế; người dân tộc trưởng thành trong sinh mệnh của tổ quốc. Người theo cộng sản chủ nghĩa không bao giờ hiểu và không bao giờ chịu tìm một mẫu số chung với người dân tộc chủ nghĩa.
Thanh Giang siết giọng, đấm nắm tay xuống mặt bàn:
- Đồng chí nắm vững lý thuyết hơn tôi, rằng kẻ bản chất bôn-sê-vich chỉ xem độc lập tự do của dân tộc là chiêu bài vận động. Họ sống và chiến đấu cho Quốc tế Đệ tam. Thậm chí, có tin đồn thời gian vừa qua, một số tên trong phái Đông Dương cộng sản đảng còn thâm độc rỉ tai bọn mã tà lính kín về sinh hoạt của chúng ta, mượn tay bọn Tây làm cho Quốc Dân Đảng suy vong, để từ đó, dành quần chúng về phía họ. Vậy đó, chúng ta không muốn có sự đồng thuận nào của Nguyễn Ái Quốc và của những kẻ đi theo ông ta.
Giữ yên ánh mắt, Lật nhìn chằm chặp vào mặt Thanh Giang:
- Đồng chí nói gì thì nói, nhưng tôi nghĩ ít nhất Nguyễn Ái Quốc cũng hiểu được điều mà đồng chí và các lãnh tụ cao hơn của Quốc Dân Đảng không chịu hiểu — rằng số lượng làm thành sức mạnh. Lập trường của tôi là ta có thể dựa vào bất cứ chủ nghĩa nào, bất cứ lực lượng nào, dù trong nước hoặc ngoài nước, miễn sao vận động và tổ chức được quần chúng tham gia nhiệt liệt cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Có quần chúng là có tất cả. Một khi có quần chúng trong tay, ta sẽ đủ sức thu hồi được nền độc lập, và sau đó, nếu cần, sẽ thừa sức hóa giải các thế lực ngoại bang muốn nô lệ hóa dân ta thêm lần nữa. Tôi kiên quyết vận động cho bằng được toàn thể đồng bào chúng ta. Nếu làm được điều đó, chúng ta là cả triệu người chống lại chỉ mấy ngàn thằng Tây. Và lúc ấy, chắc chắn chúng ta chiến thắng.
Lật dừng lại một chút, dựa lưng vào thành ghế, mặt xanh mét và bình tĩnh:
- Đồng chí Thanh Giang ạ, bởi những lẽ ấy, tôi từ chối tham gia lần khởi nghĩa này của các đồng chí. Và đó là điều duy nhất tôi thấy mình buộc lòng phải nói ra.
Thanh Giang thấy Liên bóp bóp cánh tay Lật khi Lật thôi nói. Lòng Lật dịu lại, miệng nở nụ cười biết ơn cử chỉ bày tỏ thiện cảm của nàng. Và Thanh Giang, người xem kết quả cuộc họp hôm nay là thành quả xuất phát của dự tính tổng khởi nghĩa và là thể diện lãnh đạo của mình trong hệ thống đảng, gay gắt sôi giận thêm một nấc nữa, không biết có phải vì đã nhẫn nhục giải thích mà Đào văn Lật vẫn ngoan cố không chịu chấp hành hoặc vì thấy những biểu lộ chung đụng nam nữ trong một cuộc họp sinh tử. Anh nói giọng lạnh lẽo:
- Quốc Dân Đảng không cần tới những ai chỉ tìm kiếm vinh quang cá nhân và tranh đấu một cách màu mè vô bổ. Kẻ nào muốn, trên tất cả mọi sự, làm cho cá nhân hắn được nhìn dưới ánh sáng anh hùng giả tạo bởi những “tiểu thư khuê các” trưởng giả được nuông chiều trong vai trò như là “Trinh nữ chinh chiến”, kẻ đó nên thể hiện khả năng hùng biện rỗng tuếch của hắn ở một nơi nào khác. Đặc biệt những kẻ thiếu dũng khí, không dám đối mặt với sự đau đớn và cái chết cho tổ quốc của mình!
Hai nắm tay của Lật đang đặt trên bàn trước mặt đột nhiên siết lại. Giọng Lật ngùn ngụt đam mê, rúng động theo từng tiếng nói:
- Này đồng chí, tôi yêu tổ quốc còn hơn chính sự sống của tôi. Chẳng bao lâu nữa thôi đồng chí sẽ thấy...
Có tiếng chân chạy dồn dập rồi nghe rõ hơn nơi bóng tối trong chùa làm Lật bỏ lửng câu nói. Vài đảng viên đang ngồi quanh bàn đứng bật dậy lo lắng. Chú tiểu được cắt đặt canh chừng nơi cổng vào lót đá trước chùa, mặt tái mét, nhô người ra chỗ lờ mờ sáng, thở hổn hển chỉ ngược lại đằng sau:
- Có hai xe mật thám chạy vào đầu phố. Bọn chúng đang tới!
Bí thư chi bộ đứng lên, khoát tay, không nói một lời. Anh dẫn cả nhóm im lặng rút ra phía cửa hông. Mỗi đảng viên đã được sắp xếp sẵn một lối thoát, qua những con hẽm giăng mắc chằng chịt, dẫn tới một tầng hầm hoặc một căn phố nào đó đã ấn định trước. Chỉ một phút sau lời báo động, ngôi chùa vắng lặng và trong vòng tám trăm thước quanh chỗ chi bộ vừa họp, không một bóng người qua lại.
Khi Jacques Devraux dẫn hơn hai chục lính kín An Nam của Nha Liêm Phóng ập vào ngôi chùa lung linh ánh nến, hắn thấy chùa vắng tanh. Vài chiếc ghế nằm lỏng chỏng vì các đảng viên lật đật bỏ đi và một nửa điếu thuốc còn tỏa khói trong chiếc gạt tàn trên bàn. Đứng vài giây trong bóng tối thoang thoảng mùi hương trầm, Devraux lầm bầm chửi thề. Chưa nguôi giận, khi đi ra, hắn co chân đá trốc gốc cây lộc giữa sân chùa. Rồi hắn sãi bước trở lại chiếc xe trống rỗng đang đậu một cách vô tích sự cách đó một trăm thước, trong bóng tối hàng cây trước đền Hai Bà.
|
|
|