Việc sản xuất thuốc súng Thế là những người khai khẩn ở đảo Lincoln đã giành lại được chỗ ở của mình.
Phần cuối ngày họ đã đem các xác vượn vào rừng chôn; sau đấy họ thu dọn lại trật tự trong nhà đã bị các vị khách không mời mà đến làm đảo lộn lung tung, nhưng hầu như không bị phá phách cái gì. Nab dùng các thứ dự trữ trong kho nấu bữa ăn trưa ngon lành. Jup không bị lãng quên. Chú được ăn ngon lành những vật bá hương, và các loại quả củ. Pencroff cởi dây trói ở tay cho chú, nhưng quyết định không cởi dây trói ở chân cho đến khi tin chắc rằng chú biết nghe lời mọi người.
Trước khi đi ngủ, Cyrus Smith và các bạn của ông ngồi bàn một số kế hoạch cần phải thực hiện nhanh chóng hơn.
Họ thấy việc quan trọng và cấp bách nhất là bắc một cây cầu qua sông Tạ ơn, kế đến là xây dựng một trại nuôi cừu và các giống vật khác mà họ đã quyết định thuần hoá. Sau khi thực hiện hai kế hoạch đó, những người khai khẩn sẽ giải quyết được vấn đề bức bách nhất là may sắm quần áo.
Cyrus Smith dự định xây dựng trại chăn nuôi gia súc ở cạnh nguồn suối Đỏ, trên núi tha hồ có cỏ tươi non. Con đường giữa cao nguyên Tầm nhìn và nguồn suối Đỏ hầu như đã được hình thành, còn khi nào đóng được chiếc xe kéo hoàn thiện thì việc di chuyển của họ sẽ đỡ vất vả hơn, nhất là nếu họ bắt được con vật nào đó có thể dùng để kéo xe. Nab nhận phần tìm bắt gia súc hoang và thuần hoá nó thành vật nuôi. Để tiện cho việc chăm sóc gia súc của Nab, chuồng nuôi gia súc cần được đặt gần nguồn nước. Họ đã quyết định thử thuần hoá một cặp chim gấu đuôi gồm một con trống và một con mái mới bắt được trong một chuyến đi thám hiểm gần đây. Kỹ sư cũng làm chuồng để nuôi bồ câu rừng.
Sáng ngày 3 tháng mười một. Tất cả những người khai khẩn đều phải tham gia vào công việc quan trọng là xây dựng chiếc cầu qua sông Tạ ơn. Từ Lâu đài Đá hoa cương tới cảng Khí cầu chỉ có ba dặm rưỡi, giữa hai điểm ấy làm một đường cho xe kéo đi chẳng khó khăn gì.
Công việc tất nhiên là phức tạp, sông ở đây rộng tám mươi bộ. Ở phần cần cố định họ phải đóng cọc, các nhà xây dựng đã dùng cọc để làm móng cầu, do đó cầu có thể chịu được trọng tải lớn.
May sao, họ không thiếu thứ gì, kể cả dụng cụ, lẫn đinh và óc sáng tạo. Viên kỹ sư am hiểu công việc, còn các bạn của ông sau báy tháng qua cũng tiếp thu được nhiều kỹ năng lao động và bây giờ đã giúp đỡ ông một cách sốt sắng có hiệu quả.
Vừa làm Cyrus Smith vừa trao đổi với các bạn về một kế hoạch mà ông đã nghĩ tới từ lâu. Thực hiện kế hoạch đó rất dễ và nó sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho cả vùng di dân. Kế hoạch đó là ngăn cách cao nguyên Tầm nhìn với thế giới bên ngoài, bảo đảm cho nó được an toàn, tránh được sự tấn công của kẻ thù bốn chân trên đảo. Như vậy, Lâu đài Đá hoa cương, Hang ngụ cư, sân nuôi gia cầm và toàn bộ phần trên của cao nguyên dự tính dùng để gieo trồng đều được bảo vệ khỏi những kẻ phá hoại đột nhập.
Cao nguyên đễ được ngăn cách sẵn từ ba phía bởi hồ nước và một con sông nhân tạo và một con sông tự nhiên.
Ở phía Tây Bắc, hồ Grant trải rộng mênh mông, bờ hồ đi từ vịnh nhỏ, chỗ đường thoát nước cũ, tới nơi được phá bằng mìn ở bờ phía Đông.
Từ chỗ được phá này, ở phía Bắc của cao nguyên đã hình thành một thác nước đổ xuống biển. Dòng nước tiếp tục chảy theo sườn núi và bờ cát. Chỉ cần đào sâu dòng suối nhân tạo này trên suốt đường chảy của nó là họ sẽ có một đường ngăn thú dữ.
Dọc theo suốt mé đông cao nguyên từ con suối dẫn lên đến cửa sông Tạ ơn đã có biển bảo vệ.
Cuối cùng, phía nam cao nguyên được án ngữ bởi hạ nguồn sông Tạ ơn, từ cửa sông tới chỗ uốn khúc, nơi những người khai khẩn đảo đang định bắc cầu.
Như vậy là chỉ còn lại có mé tây cao nguyên, giữa chỗ sông uốn khúc và bờ hồ phía Nam, đoạn này dài chừng một dặm, trống trải, có nguy cơ bị bất kì cuộc xâm nhập nào. Những người khai khẩn đảo đào một cái hào rộng và sâu, dẫn nước hồ vào, làm một đường thoát nước thứ hai, nhưng lần này thì thoát ra phía sông Tạ ơn. Tất nhiên, mực nước trong hồ sẽ vì vậy mà hạ thấp xuống, nhưng Cyrus Smith đã trù tính rằng con suối Đỏ sẽ cung cấp đủ lượng nước để thực hiện ý định của ông.
Cyrus Smith đã vẽ bản đồ cao nguyên để giải thích rõ hơn tất cả những điều ông phác hoạ trong đầu cho các bạn của mình nghe, và họ hiểu ngay ý đồ của ông, họ nhất trí tán thành kế hoạch ấy.
Suốt ba tuần liền, họ miệt mài thậm chí ăn cơm trưa ở ngay nơi làm việc. Thời tiết tốt nên chỉ đến bữa tối họ mới quay về.
Ngày 20 tháng mười một, họ hoàn thành việc xây dựng cầu.
- Đã đến lúc chuẩn bị gieo lúa mì vụ hai! – một hôm chàng thuỷ thủ kêu to với một vẻ quan trọng.
Tháng mười hai rất oi bức, nhưng mọi công việc vẫn được tiến hành theo kế hoạch. Mọi người đã nhắc đến việc đi chở vỏ khí cầu về. Chiếc xe ba gác đã được đóng sửa lại nên thuận tiện hơn và nhẹ nhàng hơn. Nhưng cần phải tìm ra sức kéo mới được.
Ngày 23 tháng mười hai, những người khai khẩn đang làm việc ở Hang ngụ cư, bỗng nhiên thấy vang lên những tiếng kêu la của Nab và tiếng sủa vang của Top. Mọi người chạy lại phía có tiếng kêu, sợ có tai nạn gì xảy ra.
Họ đã nhìn thấy hai con vật tuyệt đẹp lạc vào cao nguyên, – những chiếc cầu nhỏ đã được hạ xuống. Các con vật ấy, một con đực và một con cái giống những con la, lông màu hung nhạt, đuôi và chân màu trắng, còn đầu, cổ, mình sọc đen như ngựa vằn. Chúng thản nhiên bước lại gần, chẳng hề sợ hãi gì, và nhìn những người mà chúng chưa thừa nhận là chủ bằng những con mắt thông minh hiền hậu.
- Đúng, đây là những con la rừng! – Harbert kêu lên – Chúng thuộc loại súc vật được phối giống giữa ngựa vằn va lừa. Chàng thuỷ thủ núp trong cỏ bò tới để khỏi làm những con vật hoảng hốt. Đến cây cầu nhỏ bắc qua suối Glixerin anh nâng đầu cầu lên, những con la rừng đã bị bắt làm "tù binh" một cách dễ dàng.
Mấy ngày đầu chúng vẫn được tự do gặm cỏ để quen dần. Sau đấy, những người chủ đã đóng chuồng và nhử chúng vào ở. Chẳng mấy chốc Pencroff đã thuần hoá được hai con vật. Chúng tự đến với họ. Chúng để cho mọi người đến gần, nhưng hễ thắng vào xe là chúng lồng lên. Tuy vậy, chẳng bao lâu sau, những con vật cũng chịu tuân phục số phận. … Và đã đến ngày tất cả những người ngụ cư, trừ Pencroff đi trước dắt la, đều lên xe và đi ra cảng Khí cầu. Chiếc xe vẫn đi đến nơi một cách bình yên vô sự, và ngay hôm ấy những người khai khẩn đã chất vỏ và các bộ phận khác của khí cầu lên xe chở về. Tám giờ tối, họ dừng xe trước Lâu đài Đá hoa cương.
Cả tuần thứ nhất của tháng giêng, những người ngụ cư dành thời gian để may áo quần cần thiết.
Chỉ thì không thiếu: Cyrus Smith đã đề nghị tận dụng chỉ tháo ở vỏ khí cầu ra.
Vải khí cầu đã được họ khử bỏ chất dầu bằng xút và bồ tạt điều chế từ tro. Sau khi khử, vải trở nên mềm mại và co giãn bình thường. Đem phơi nắng, nó bay màu và trắng ra. Cũng vào thời gian ấy, họ đã tự khâu lấy giày bằng da hải báo. Sáng kiến này rất đúng lúc, vì giày và ủng họ mang từ Mỹ đều đã rách nát cả. Đã sang năm 1866, thời tiết oi bức chưa bớt đi, nhưng việc săn bắn trong rừng vẫn được tiếp tục.
Cyrus Smith khuyên mọi người tiết kiệm đạn dược và đề ra một số biện pháp thay số thuốc súng và đạn tìm được trong hòm. Viên kỹ sư có thể làm được thuốc súng lắm, bởi vì ông đã có sẵn diêm tiêu, lưu huỳnh, than, những việc chế biến đòi hỏi hết sức cẩn thận, và không có các thiết bị đặc biệt khó làm được thuốc súng có chất lượng tốt.
Bởi vậy, Cyrus Smith ưa sản xuất thuốc súng bông hơn, tức là chất nổ thông thường làm bằng sợi bông. Tuy nhiên có thể không cần bông cũng được, bởi vì thực chất chỉ cần dùng chất xenlulo, mà xenlulo thì có rất nhiều trong các loại thực vật.
Còn một chất khác cần cho việc điều chế thuốc súng bông là axit nitric bốc khói. Cyrus Smith đã có axit sunfuric nên ông có thể dễ dàng thu được axit nitric bằng cách dùng axit sunfuric để xử lí diêm tiêu sẵn có trong thiên nhiên. Để được thuôc súng bông chỉ cần nhúng xenlulo vào axit nitric bốc khói trong một phần tư giờ, sau đó đem ra rửa và phơi khô.
Vào thời điểm ấy, những người ngụ cư đã vỡ hoang được ba acre đất trên cao nguyên Tầm nhìn, số đất còn lại họ dành làm các bãi chăn nuôi dê rừng. Đã mấy lần những người khai khẩn vào rừng lấy giống một số rau mọc hoang như diếp, củ cải, khoai tây… về trồng. Chẳng bao lâu, với sự chăm sóc khéo léo, các loại rau đều trở nên tốt tươi.
Các chuồng trại bây giờ đã được xây dựng vững chắc bằng ván, và những người ngụ cư bắt đầu những cuộc vây bắt những con vật nhai lại ở chân núi Franklin, trên các bãi cỏ. Không còn nghi ngờ gì nữa, đàn gia súc này sẽ ngày càng đông lên, bảo đảm thoả mãn lông và da cho những người khai khẩn.
Ngay tuần lễ đầu tiên của tháng ba thời tiết đã thay đổi. Đầu tháng, trăng tròn vành vạnh, nhưng trời vẫn nóng bức không chịu nổi. Có cảm giác như không khí tích đầy điện, chắc chắn mùa mưa bão sẽ kéo dài khá lâu.
Thật vậy, ngày 2 tháng ba, sấm đã nổ rền vang. Gió đông nổi lên và cơn mưa đá hạt to bằng trứng chim bồ câu đã rơi thẳng vào cửa Lâu đài Đá hoa cương.
Tranh thủ lúc thời tiết xấu, những người khai khẩn làm công việc trong nhà, mỗi ngày họ làm thêm được một việc mới. Kỹ sư đã tạo ra được một cái máy tiện và tiện các đồ cho nhà bếp, phòng vệ sinh; ông làm khuy áo, giá súng, tủ, giá sách…
Pencroff lúc nào cũng khen ngợi con khỉ không tiếc lời:
- Jup của chúng ta bây giờ đã tài lắm! Ai cũng bằng lòng về nó, chẳng hề nghe chú ta chửi tục một tiếng bao giờ. Một người hầu phải tuyệt trần thế chứ phải không Nab! - Học trò của tôi đấy. – Nab trả lời – Chú ta sắp theo kịp tôi rồi đó!
Quả thực là Jup hiểu thấu đáo trách nhiệm của mình. Chú rũ quần áo, trở que nướng thịt, quét nhà, phục vụ bàn ăn, xếp củi và điều đặc biệt làm cho Pencroff thán phục là trước khi ngủ bao giờ chú Jup cũng dọn giường cho chàng thuỷ thủ đáng kính.
Và thật thế, mọi người đều cảm thấy khoẻ khoắn lắm. Harbert sau một năm đã lớn. Gương mặt chú trở nên nghiêm nghị hơn, dũng cảm hơn, và nhìn chung thấy rằng chú sẽ thành một con người tốt, cả về thể lực và trí lực. Những lúc rảnh rỗi chú lao vào học tập. Cyrus Smith giúp chú trang bị kiến thức về lĩnh vực khoa học, Gédéon Spilett giúp chú trang bị kiến thức về ngôn ngữ.
Kỹ sư tha thiết mong muốn truyền cho chú bé tất cả những gì ông biết, răn dạy chú bằng việc làm và lời nói; cái hay của Harbert là chú tiến bộ rất nhanh khi học với các thầy giáo của mình.
"Nếu ta chết, – Cyrus Smith nghĩ – chú nhóc sẽ thay ta!"… Ngày 17 tháng ba, trước sự mãn nguyện của mọi người chiếc thang thuỷ lực lần đầu tiên đã hoạt động.
Cyrus Smith đã thực hiện lời hứa của mình. Dưới sự hướng dẫn của viên kỹ sư, những người khai khẩn đã mở rộng lỗ thoát nước cũ của hồ, cho nước chảy xuống giếng sâu thành một dòng thác. Sức nước đã làm quay bánh xe cuốn sợi cáp. Đầu cáp buộc một cái giỏ treo để đưa người hay hàng lên xuống.
Vào những ngày ấy Cyrus Smith còn thử chế tạo kính thuỷ tinh từ cát, đá phấn và xút. Công việc mới, nhưng ông đã tận dụng lò gốm cũ. Gédéon Spilett và Harbert dã giúp viên kỹ sư đắc lực trong việc thổi và cán thuỷ tinh. Và họ đã thành công, năm mươi tấm kính đã ra đời, được dùng để lắp vào cửa sổ, tuy không được trong lắm, nhưng đủ cho ánh sáng lọt qua tốt. Sau đấy, ông xây các lò nung bát đĩa, li, chai dùng trong đời sống hàng ngày. Theo đề nghị của Gédéon Spilett, kỹ sư Cyrus đã dùng máy lục phân kiểm tra lại công việc xác định vị trí hòn đảo của mình.
Theo số liệu đầu tiên của ông, đảo Lincoln ở giữa 150º và 155º kinh tuyến tây; giữa 30º và 35º vĩ tuyến nam.
Bây giờ những tính toán hoàn toàn chính xác cho biết đảo nằm ở vị trí. 150º 30’ kinh tuyến tây.
34º 57’ vĩ tuyến nam.
Nghĩa là đúng như kết quả đầu tiên mà kỹ sư đã tính, sai số không quá năm độ. Họ lật bản đồ Thái Bình Dương ra, viên kỹ sư cầm chiếc compa để xác định vị trí của hòn đảo.
Bỗng ông lặng người đi, đưa tay chỉ vào tấm bản đồ nói:
- Đúng, ở khu vực này của Thái Bình Dương trên bản đồ có vẽ một hòn đảo.
- Đó là đảo gì thế ạ? – Harbert hỏi.
- Đảo Tabor.
- Đảo có lớn không?
- Không, đây là một hòn đảo nhỏ ở Thái Bình Dương, chắc chẳng có ai lên đó làm gì! - Vậy ta sẽ lên đó. – Pencroff tuyên bố.
- Chúng ta sẽ đóng một con tàu có boong, tôi sẽ đảm nhận việc lái nó. Thế chúng ta ở cách đảo Tabor bao xa?
- Khoảng một trăm năm mươi hải lí về phía tây bắc. – Cyrus Smith trả lời.
- Một trăm năm mươi hải lí! – Pencroff tuyên bố – Nếu thuận gió thì chỉ hai ngày hai đêm là ta đến đó thôi.
- Nhưng mà để làm gì? – nhà báo hỏi.
- Thì cứ đến thôi. Cũng cần phải đến xem láng giềng của chúng ta chứ!
Sau câu trả lời ấy, những người ngụ cư đã quyết định sẽ đóng tàu, và họ sẽ bơi sang đảo Tabor vào tháng mười, là lúc thời tiết tốt nhất.
|
|
|