Hiệp Rồi Tan Bãi trường, học sinh nam nữ đều nghỉ hết. Những trò ở Lục Tỉnh đều trở về quê quán vui chơi với cha mẹ. Còn như giàu sang thì cha mẹ kiếm chỗ đem con đi nghỉ cho chúng nó khỏe trí, đặng chừng khai trường chúng nó tiếp tục học lại, hăng hái học cho mau tấn phát. Vì đường giao thông chưa được thuận tiện, nên nguời có tiền nhiều mua giấy máy bay cho con lên Đà Lạt ở chơi đôi ba tuần. Còn người nhút nhát chưa dám nới xa Sàigon, thì cho con đi Tân An, Mỹ Tho, Thủ Đức, Biên Hòa hoặc Lái Thiêu, Thủ Dầu Một.
Cô Đào với cô Lý là phận gái, cha mắc bận việc buôn bán, mẹ không dám đi xa, bởi vậy hai cô cứ ở nhà đọc sách. Có mệt thì theo mẹ vô tiệm trong Bà Chiểu mà vui với cha.
Khánh ở nhà một mình với mẹ cậu buồn, bởi vậy bữa nào cậu cũng rủ Tòng qua nhà chơi với cậu, hoặc sai bồi đi mua bánh ăn với nhau rồi đọc sách, hoặc có bữa dắt nhau đi dạo chợ, có bữa đi xem hát bóng, có bữa đi vô vườn bách thú xem thảo mộc và xem voi, cọp, chim cò. Có cậu Hoài, con một chủ tiệm buôn lớn ngang hông chợ Bến Thành, cậu học một lớp với Khánh và cũng thi đậu bằng đệ nhứt cấp một lượt với Khánh, cậu nhập bọn chơi với Khánh và Tòng thành ra một bộ ba mà Tòng nhỏ kỉnh Khánh với Hoài như anh, còn Khánh với Hoài lớn nên xem Tòng như em, ba trẻ đều yêu nhau như ruột thịt.
Hai vợ chồng Thái với Hòa thấy con mình bè bạn với hai trò lớn tuổi, học giỏi, giàu có thì có ý mừng nên không ngăn cấm để cho gần gũi Khánh và Hoài đặng học hỏi thêm, vì học sư bất như học hữu, có thể tiếp xúc với người hơn mình mới bắt chước được mau khôn ngoan, mới mở trí được rộng kiến thức.
Trong ít bữa Tòng nói với mẹ và hai chị rằng bà mẹ của Khánh thương Tòng lắm, bà biểu kêu bà bằng dì Hai chớ đừng kêu bằng bà. Bà dặn về nói với hai chị qua nhà bà chơi đừng ái ngại chi hết, Tòng khoe Khánh xin với mẹ mà mướn được một anh sốp phơ rồi, sốp phơ đương đem xe xuống hãng rà máy lại cho êm đặng Khánh đi chơi với Tòng và Hoài.
Bà Hòa là mẹ của Tòng nghe con nói như vậy bà càng thêm mừng cho con có được người đem con đi chơi. Bà khuyên Đào với Lý coi bữa nào tiện thì ghé qua thăm bà lớn, cho bà vui lòng, vì bây giờ mình đã quen rồi, mình biết bà là người thành thiệt là tử tế chớ không phải kiêu căng như nhà giàu khác mà ngần ngại nữa. Bà đã ân cần mời hoài, nếu hai con không qua, té ra thất lễ hoặc vô tình. Đào với Lý tính mai mốt sẽ đi qua đặng trả sách cho Khánh mà mượn ít quyển khác.
Chẳng dè sáng bữa sau mấy mẹ con ăn lót lòng vừa rồi thì Khánh qua lại có dắt một bạn trai theo. Tòng thấy khách vô sân thì nói trước cho mẹ với hai chị biết, người đi với Khánh có tên là Hoài học một lớp với Khánh, con của một đại thương gia có tiệm ở ngang chợ Sài Gòn.
Khánh dắt bạn bước vô, giới thiệu cho bà chủ Hòa với hai cô biết Hoài là bạn học một lớp với cậu và mới thi đậu kỳ nầy cũng như Đào với Lý. Hai cô vui vẻ chào rồi mời hai cậu ngồi.
Khánh lại thưa với bà chủ nhà: " Thưa bác, má cháu có cho phép cháu kêu anh sốp phơ để lái xe cho cháu đi chơi trong lúc bãi trường nầy. Sốp phơ đem xe ra hãng rà máy lại xong hết mới đem về hồi sớm mơi. Vậy cháu xin bác cho phép cháu rước em Tòng đi chơi một vòng với hai anh em cháu".
Bà Hòa hỏi:
- Cậu tính đi đâu mà chơi? Đi chừng nào về?
- Thưa cháu muốn lên Thủ Đức, như hỏi thăm đường xá thuận tiện thì đi luôn lên Biên Hòa chơi chừng 11 giờ thì về.
- Được... Đi gần gần vậy thì được, chẳng nên đi xa. Tòng thay đồ đặng đi chơi với hai anh đi con.
Tòng vội vã vô trong thay đồ.
Hoài mau mắn, vui vẻ, mới quen lần đầu mà không ái ngại nên hỏi hai cô: "Hai chị tính chừng nào khai trường hai chị xin học trường nào? Trường Marie Curie hay là trường Trương Vĩnh Ký?".
Chị Đào nhậm lẹ hơn, nên cô đáp:
- Chị em tôi nghĩ mình là người Việt thì học trường Việt phải hơn. Chị em tôi có thưa với bà Hiệu Trưởng của chúng tôi. Bà dạy làm đơn đưa cho bà rồi bà gởi cho chị em tôi qua trường Trương Vĩnh Ký mà học tiếp.
- Vậy thì chừng khai trường hai chị sẽ học chung với anh em tôi.
- Có tới bảy tám cô qua trường Trương Vĩnh Ký chớ không phải chỉ có hai chị em tôi mà thôi. Hổm nay mấy chị em tôi lo quá, học chung với mấy cậu trai chắc chị em tôi thua xa lắm.
- Chị nói khiêm nhượng chớ đâu có luật mà chắc học sinh trai giỏi hơn học sinh gái. Chúng tôi sợ chúng tôi học thua mấy chị chúng tôi mới thiệt hổ thẹn chớ.
Cậu Khánh tiếp nói: "Hỗm nay hễ có em Tòng qua chơi thì má tôi nhắn mời hai chị, má tôi trông quá. Vậy hai chị có rảnh qua nói chuyện chơi với má tôi".
Cô Lý nói: "Chị em tôi tính bữa nay qua, trước thăm bà sau trả sách cho cậu, rồi mượn vài quyển khác. Bây giờ cậu mắc đi chơi, thôi bữa khác chị em tôi sẽ qua".
Cậu Khánh lật đật nói: "Không, không! Hai chị cứ qua chơi cho má tôi vui. Má tôi trông hai chị lung lắm. Tôi đi chơi tôi sẽ gởi chìa khóa tủ sách lại cho má tôi. Hai chị qua rồi má tôi đưa chìa khóa cho hai chị mở mà lựa sách coi có quyển nào được thì lấy đem về mà đọc, đừng ngại chi hết".
Tòng thay đồ rồi ở trong đi ra. Khánh với Hoài đứng dậy. Khánh mời cô Đào cô Lý một lần nữa, rồi cùng Hoài từ giã bà chủ nhà với hai cô mà đi với Tòng.
Bà Hòa nói với cô Đào cô Lý rằng bà mẹ cậu Khánh ân cần quá, vậy hai con phải thay đồ qua thăm, không nên mích lòng người lớn có cảm tình với mình.
Cô Đào cô Lý bèn vô trong bới đầu và thay đồ rồi ôm mấy cuốn sách qua thăm bà lớn.
Khánh về cho mẹ hay một lát nữa sẽ có cô Đào với cô Lý qua thăm. Cậu giao chìa khóa tủ cho mẹ rồi lên xe đi chơi với hai bạn.
Bà mẹ mừng nên Khánh đi rồi bà ra phòng khách đàn ông mà ngồi, có ý chờ hai cô qua; ngồi sa-lông gần nhau mà nói chuyện thân mật hơn ngồi bên ván, hai cô phải ngồi ghế xa, khó xem mặt mày cùng cách cử động cho rõ ràng được.
Đào với Lý bước vô sân, không thấy Khánh, hai cô biết Khánh với hai bạn đã đi chơi rồi. Mà bữa nay trong sân lại có hai chú đàn ông ở trần đương lui cui, một chú cuốc đất, một chú nhổ cỏ trong bồn bông. Đã quen rồi nên hai cô mạnh dạn bước lên thềm và đi ngay vô cửa giữa, mặc dầu không có ai chực tiếp.
Bà chủ nhà đương ngồi trên ghế ca-na-pê bên phòng khách đàn ông, bà thấy hai cô bước vô thì mừng rỡ mà nói: "Hai con đi qua đây, qua ngồi chơi với dì. Ba anh em nó đi rồi. Hổm nay dì trông quá. Bà chị đâu, sao bà chị không qua chơi?".
Hai cô vừa đi lại đó, vừa nói mẹ mắc vô trong Bà Chiểu.
Bà chủ nhà nói: "Hai con để sách trên bàn đó rồi ngồi nói chuyện chơi. Dì có dặn thằng Khánh đi chơi một chút rồi về, đừng có ở trễ. Chắc lối 10 giờ nó sẽ về. Mà nó có để chìa khóa tủ sách trên ô trầu bên kia. Vậy hai con chơi một lát rồi muốn lựa sách thì lấy chìa khóa mở tủ mà lựa".
Đào với Lý đem để mấy cuốn sách trên bàn rồi nhắm nhía muốn ngồi hai cai ghế phía ngoài.
Bà chủ nhà đứng dậy nắm hai tay của hai cô mà kéo, biểu phải ngồi trên ca-na-pê với bà, ngồi gần nói chuyện cho dễ. Bà ngồi giữa ép hai cô ngồi hai bên. Mỗi tay bà nắm một bàn tay mỗi cô mà đưa lên xem, xem từng ngón tay rồi xem hết bàn tay, xem tay rồi bà ngó mặt, ngó bên nầy rồi ngó bên kia. Hai cô ái ngại hết sức, nhưng không dám nói chi hết, để mặc sức cho bà nhìn.
Bà nhìn một hồi rồi bà ứa nước mắt mà nói: "Hồi trước dì có một đứa con gái. Mà nếu nó còn thì năm nay nó cũng 19 tuổi, cỡ tuổi hai con. Mười mấy năm nay dì thương nhớ nó quá, tại vậy nên sanh bịnh. Bữa hổm hai con qua chơi. Dì thấy hai con dì càng thương nhớ con của dì hơn nữa. Bởi vậy dì căn dặn hai con qua chơi thường cho dì vui đặng dì khuây lãng chút đỉnh".
Cô Lý sợ bà phiền về sự không vâng lời bà yêu cầu, cô muốn xin lỗi, nhưng cô vừa nói: "Thưa bà " thì bà liền chận mà cản: "Đừng có kêu bằng bà nữa! Hai con kêu bằng dì, đặng có tình thân thiết hơn, Hổm nay dì muốn biểu hai con kêu dì bằng má, nhưng dì mới làm quen với bà chị, dì chưa biết bụng của bà chị nên dì không dám. Vậy hai con kêu bằng dì, kêu "dì hai" cũng như dì biểu cháu Tòng kêu hổm nay vậy".
Cô Đào mới nói: "Thưa dì hai, dì dạy như vậy hai chị em con mới dám".
Bà chủ nhà cười mà nói: "Đó! Kêu như vậy phải ngộ hôn? Hai con vâng lời thì dì vui lắm".
Cô Đào nói tiếp:
- Hôm trước dì căn dặn mà hổm nay em Tòng về cũng nhắc hoài nhưng hai con chưa qua chơi được, ấy là hai con mắc lo giấy tờ đặng xin qua trường Trương Vĩnh Ký mà học tiếp, nên chưa rảnh. Đã vậy mỗi ngày ba con muốn hai con phải vô Bà Chiểu chơi với ba ít giờ, hoặc vô sớm mơi hoặc vô buổi chiều, tại vậy nên không rảnh.
- Bữa nay giấy tờ xin học đã làm xong chưa?
- Thưa mới xong.
- Ừ, nếu xong rồi thì từ nay cho tới khai trường hai con rảnh. Vậy mỗi ngày hai con qua bên nầy chơi với dì. Như sớm mơi mắc đi Bà Chiểu thì buổi chiều qua bên nầy; còn như muốn đi Bà Chiểu buổi chiều thì qua sớm mơi. Muốn đọc sách thì qua đây lấy sách mà đọc. Có thằng Khánh ở nhà nó đọc sách với hai con. Chị em học chung với nhau cho dì vui. Dì nói thiệt với hai con, dì có một đứa con gái, sanh được có 25 ngày rồi nó mất. Dì thương tiếc nó quá, gần hai mươi năm nay, không có giờ khắc nào dì nguôi được. Tuy sau dì sanh được thằng Khánh, song nó là con trai, lớn lên nó mắc đi học, lại ở nhà nó chơi theo tư cách con trai, có xẩn bẩn theo mẹ, có trìu mến mẹ như con gái đâu mà dì quên đứa con gái của dì được. Bởi vậy từ bữa dì thấy hai con thì dì thương liền, thương như thương con của dì vậy. Hổm nay dì thầm ước nếu ông anh với bà chị ở bển bằng lòng cho bớt một con ở hủ hỉ với dì thì chắc dì hết buồn.
Bà nói tới đó rồi ba móc túi lấy khăn ra mà lau nước mắt.
Đào với Lý thấy bà đau khổ về tình mẹ con, hai cô rất cảm động.
Cô Lý nói: "Thưa dì, ba má con cũng thương hai con như dì vậy. Con chắc dì xin bớt một đứa ba má con không đành rứt ra mà cho đứa nào được. Đã vậy mà chị em con sanh đôi, từ khi mới lọt lòng thì chơi chung, ngủ chung, nên chị em con cũng khó mà rời nhau, hễ phân rẽ chắc buồn lắm".
Bà nói: "Dì cũng hiểu như vậy nên dì không dám nói ra. Vậy dì xin hai con niệm tình của dì, mỗi bữa qua chơi với dì một hai giờ cho dì bớt buồn, muốn qua buổi mơi hay buổi chiều tùy tiện, giờ nào nhà dì cũng mở cửa mà vui rước hai con. Đó là hai con làm ơn làm phước dùm cho dì, đem tia sáng mà rọi trong nhà dì, đương tối tăm, đem vẻ vui mà rắc trong lòng dì đương buồn bực, dì nói thiệt, trót gần hai mươi năm nay thân phận dì chẳng khác nào một bụi cây khô, dì yêu cầu hai con làm ơn mỗi ngày tưới một gáo nước, hoặc may cây mát mẽ đâm chồi ra lá lại mà sống với đời, cho dì có đủ sự kiện mà sống trong an vui sung sướng, nhưng phải sống với đau khổ quạnh hiu như vầy hoài thì làm sao mà sống lâu cho được".
Bây giờ bà khóc thiệt nước mắt tuôn dầm dề, làm cho Đào với Lý xúc động cực điểm. Đào thì lanh lợi nhưng trước tình cảnh thê thảm não nề nầy cô bối rối không tìm ra lời để an ủi bà.
Cô Lý bình tĩnh hơn nên cô ngó bà mà nói:
- Dì thuộc bực giàu sang, mà dì có lòng thương chị em con, đó là ơn lớn, chị em con chẳng những là không phép quên, mà cần phải lo đền đáp. Dì đã lấy lòng thành thiệt mà nói với hai con thì hai con không được phép dấu diếm dì. Mặc dầu dì ân cần căn dặn, hổm nay hai con dụ dự không dám qua, thiệt mắc bận chút việc, mà cũng ái ngại qua làm khách bận rộn dì không nghỉ được.
- Không, không! Con qua dì mừng lắm chớ. Còn đừng ái ngại chỗ đó.
- Dì nói như vậy hai con mới hết ngại. Nhưng còn một điều khác nữa làm cho hai con khó tự do qua lại thăm dì hàng ngày.
- Điều gì?
- Con phải thưa thiệt với dì phận hai con là gái mới lớn lên. Nhà dì không có con gái mà lại có con trai. Chị em con qua thường mà không có má con theo, tới lui như vậy nhiều lần con sợ e chẳng khỏi tiếng thị phi họ dị nghị.
- A! Con ngại về điều đó!... Con ngại cũng phải ... Nhưng dì hỏi con vậy chớ từ hôm thằng Khánh làm quen với hai con cho tới bữa nay, con có nghe nó nói lời nào hay là con có thấy bộ nó ló mòi chi khiếm nhã với hai con hay không?
- Thưa không, cậu Khánh luôn luôn lễ phép đàng hoàng lắm, cậu kỉnh hai chị em con, cậu kêu cả hai bằng chị, con không thấy cậu có ý gì hết. Hồi nãy cậu có dắt cậu Hoài là bạn học qua nhà mà giới thiệu với má và hai con. Bộ cậu Hoài thiệt tình, cậu cũng kêu hai chị em con bằng chị như cậu Khánh, chớ không có ý chọc ghẹo chi hết.
- Vậy thì được lắm, có sao đâu mà con ngại, Hoài làm bạn với Khánh mấy năm rồi. Cậu lên đây chơi thường, cậu vui vẻ hay nói hơn Khánh. Nhưng dì thấy tánh nết cậu cũng dễ thương, con nhà có giáo dục. Vậy hai con đừng lo chi hết. Dì bảo lãnh việc đó. Để bữa nào gặp bà chị dì sẽ nói, hai con cứ qua chơi với dì dẫu hai đứa nó có nói điều chi quấy thì dì sẽ rầy chúng nó, có dì ở một bên hai con, có sao đâu mà con sợ.
- Thưa không phải hai con sợ. Hai con đoan chánh, nên có sợ gì đâu. Con ngại là lại miệng thiên hạ không tốt, họ thấy hai con lân la gần gũi rồi họ bày chuỵên mà nói xấu đó thôi.
- Ối! Lời thị phi kể làm chi con. Mình ở phải thì thôi. Dì buồn dì cậy hai con qua chơi thì dì biết ơn. Hai con thương dì, hai con làm nghĩa, hai con sẽ được vui vẻ tinh thần, vậy thì quý rồi, lo chi miệng thiên hạ. Để dì biểu trẻ bưng bánh, với trái cây cho hai con ăn chơi.
Đào với Lý nói hồi sớm mơi đã ăn lót lòng no rồi. Bà chủ nhà không kể, cứ kêu bồi biểu bưng trái cây với nước cam ra mà đãi khách. Bà ép quá hai cô phải ăn uống với bà cho bà vui. Mà bà vui thiệt, cứ nắm tay cô Lý và theo nói chuyện với cô thường hơn cô Đào.
Chủ khách đang ăn uống vui vẻ thì xe của Khánh trở về tới.
Ba trẻ bước vô mừng hai cô Đào với Lý. Khánh với Hoài có xách mỗi người một trái sầu riêng, còn Tòng thì xách một xâu nem. Bà chủ nhà lấy làm lạ, bà hỏi con đi chơi sao mới 10 giờ đã về. Khánh nói: "Ba anh em con lên Thủ Đức không có cảnh gì vui. Con đi một vòng chợ có ý kiếm sầu riêng mà mua. Họ nói sầu riêng đã cuối mùa rồi, hoặc may lên Lái Thiêu mới còn năm ba trái muộn mà bán chớ Thủ Đức làm sao có được. Con nhắm đi Biên Hòa cũng không có gì vui nên con mua một chục nem rồi quay xe đi qua Lái Thiêu kiếm mua được hai trái sầu riêng đem về cho má đây. Hai trái đã chín hết ăn liền được".
Khánh kêu một anh bồi mà giao sầu riêng với nem. Cậu biểu lấy dĩa bàn mà tách trái sầu riêng đã nứt rồi đó đặng ăn liền bây giờ. Cậu thấy bánh trái còn đầy bàn, cậu mời Hoài với Tòng ăn. Bà chủ nhà hỏi con hồi nãy đi Lái Thiêu có ghé thăm nhà trên vườn hay không. Khánh nói nhà ở trẻo trong xa nên cậu không vô. Bây giờ xe có sốp phơ rồi, vậy để mai mốt rồi cậu đi.
Bà chủ nhà nói bà muốn mời hết ở chơi rồi ăn cơm trưa với bà cho vui. Bây giờ còn sớm, bồi bếp sắp đặt kịp. Bà biểu Khánh qua nhà bà bác mời bà qua chơi rồi ăn cơm với hai cô. Như bà bác đi Bà Chiểu chưa về thì lấy xe đi với Tòng vô trong mời hết hai bác.
Đào với Lý không biết lấy cớ chi mà từ chối nên không cãi. Phần thì Khánh nghe mẹ dạy, cậu liền rủ Hoài với Tòng ra đi, làm cho hai cô phải chịu không thể rục rịch được.
Cách một hồi Tòng trở lại một mình mà nói hồi nãy qua bên nhà thì mẹ cậu chưa về. Ba anh em lên xe vô tiệm trong Bà Chiểu. Khánh thay mặt cho mẹ mà mời hết cha mẹ Tòng. Ba Tòng cám ơn nhưng nói bữa nay mắc khách đến mua đồ nhiều nên bỏ tiệm mà đi không được. Còn má Tòng cũng xin kiếu, nói ba chị em Tòng ăn cơm với dì hai cho dì vui, để má ở trỏng ăn cơm với ba, rồi trưa má sẽ ra chơi vậy thôi. Xe đưa Tòng về nhà đặng Tòng cho bồi với bếp hay trưa nay mấy mẹ con đều không ăn cơm nhà, còn Khánh với Hoài đi luôn xuống chợ Sàigòn đặng Hoài thưa cho cha mẹ khỏi trông hoài về ăn cơm rồi xe sẽ về sau.
Cách một lát xe Khánh với Hoài về, Khánh cũng thưa lại cho mẹ hay y như lời của Tòng nói. Bà mẹ đi vô trong dạy bồi bếp lo sắp đặt bữa cơm trưa, còn Khánh rủ hết bạn vô phòng đọc sách, rồi cậu mở tủ sách cho các bạn lựa sách mà đọc.
Nhà có sẵn tiền bạc nhiều làm việc gì cũng dễ, muốn thứ gì cũng có, bởi vậy đúng 12 giờ thì bồi vô phòng đọc sách thưa cho Khánh hay cơm đã dọn xong và bà dạy mời mấy cô mấy cậu ra ăn.
Khánh mới mời khách đi ăn cơm rồi sẽ đọc sách nữa.
Trong lúc ngoài nhà lầu của bà lớn, mẹ con cậu Khánh đương vui đãi mấy bạn trẻ, Khánh với Hòa nói cách dạy dỗ bên trường Trương Vĩnh Ký cho Đào với Lý biết trước thì trong tiệm Thái Hòa, vợ chồng chủ tiệm cũng ngồi ăn với ông giáo Hiệp.
Ông chủ Thái nhắc chuyện cậu Khánh vô mời hồi nãy, ông khen cậu ôn hòa lễ phép, ông nói chừng khai trường Đào với Lý đi học có bạn như vậy dìu dắt thì ông bớt lo. Bà chủ Hòa tiếp nói lại có thêm cậu Hoài đi với Khánh hồi nãy đó, cùng học một lớp, thi đậu một lượt với Khánh, vậy thì Đào và Lý được quen thêm một người bạn học trước nữa nên hết bợ ngợ. Bà lại nhắc qua bà mẹ của Khánh, bà khen người trẻ tuổi, có sắc đẹp giàu sang mà không kiêu hãnh, tánh tình thuần hậu lời nói khiêm cung, bà không có con gái nên bà yêu Lý với Đào cứ căn dặn hai trẻ qua nhà bà chơi cho bà vui, bà coi hai trẻ như con cháu đừng ái ngại chi hết. Bà chủ Hòa còn nói rằng không biết bà đó tên gì, gốc gác ở đâu, chồng bà hồi trước là ai, làm chức gì mà tôi tớ gọi bà là "bà lớn" mà bà biểu Tòng kêu bà là "dì Hai".
Ông giáo Hiệp nghe bà chủ tiệm nói chuyện đó ông mới nói: "Cách mấy bữa trước có một người quen với tôi ở phía Suối Chà xuống đây mua tủ áo. Ngồi nói chuyện với tôi, người đó nói người coi vườn đất của bà Cao Thị Ngọc ở nhà lầu tại đường Testard, gần ngã tư đường Flandin. Tôi có nói ông chủ tiệm mới mua nhà ở khít một cái nhà lầu đó, ông bà biết người chủ nhà lầu là một góa phụ nhưng không hiểu là ai mà họ gọi là "bà lớn". Tình cờ gặp dịp may tôi mới hỏi thăm. Nhờ người quen đó dẫn gốc tích cho tôi nghe tôi hiểu rồi. Bà Cao Thị Ngọc nầy là con gái của ông cả Cao Văn Hớn, hồi sanh tiền ông ở làng Bình Phước, nhà ở theo con đường từ chợ Bình Phước vô Suối Chà thuộc ngọn rạch Gò Dưa. Ông Cả Hớn hồi trước là tay cự phú ở vùng đó. Trong tỉnh Gia Định nầy ai cũng biết danh ông. Người ở vùng đó ai cũng nhờ nghề trồng mía đạp đường mà làm giàu. Nhưng người ta có đất trồng mía mỗi người có năm mười mẫu là nhiều, duy chỉ có một mình ông cả Hớn ổng làm chủ hơn hai trăm mẫu đất mía. Ông mướn bạn và mua phân tro, ổng mướn nhơn công trồng cho ổng gần một trăm mẫu mía. Còn lại bao nhiêu ổng cho những người không có đất mướn mà trồng. Ổng cho mướn giá cao mà tờ tá ổng lại buộc những người mướn đất phải bán mía cho ổng chớ không được bán cho người khác. Ổng có mía nhiều rồi ổng mới lập một lò đường lớn, rồi đạp mía làm đường tán, đường thẻ, đường khạp, đường mỡ gà đủ thứ. Ổng chịu mối với mấy chủ dựa đường ở dưới Sài gòn và Chợ Lớn họ mua về mà bán lại cho bạn hàng chở đi bán khắp lục tỉnh. Ổng dùng mía nhà và mía của tá thổ mà làm ra đường không biết bao nhiều mà kể cho xiết. Cuộc làm ăn của ổng to tát mà dễ dàng như vậy mỗi năm trừ sở phí ra rồi ổng còn lời cả chục muôn bạc. Ổng làm hơn mười năm ổng thành triệu phú, hồi đời đó trong vùng ai cũng gọi ông Cả Hớn là "vua đường" không ai dám bì với ổng. Được thuận buồm xuôi gió, ổng thấy bước đường tương lai của ổng chớn chở; giá đường lại vùn vụt tăng lên hoài, chắc ổng sẽ giàu thêm luôn luôn rồi đây tiền bạc không biết để vào đâu cho hết".
Ông chủ tiệm nói: "Té ra bà lớn ở nhà lầu đó là con của ông Cả Hớn hay sao? Hồi nhỏ tôi ở Lái Thiêu, tôi có nghe danh ông Cả Hớn giàu to lắm mà". Bà chủ tiệm nói: "Hèn chi bà Ngọc bây giờ có tiền nhiều nên bề ăn ở coi sang trọng quá".
Ông Giáo Hiệp nói tiếp: "Cuộc làm ăn của ông cả Hớn đương phát đạt xân xẩn như vậy, nào dè bọn tư bổn Pháp dòm thấy xứ mình có đất trồng mía nhiều mà làm đường được, họ mới hợp hội hùn vốn khẩn đất trồng mía trên vùng Đức Hòa và lập nhà máy mà nấu đường cát với rượu mía để bán. Hội có thế lực mạnh nên nhà nước Pháp phải cho xáng lên đào kinh trong đất của hội đặng rút phèn trồng mía cho tốt. Hội làm ra đường cát trắng với đường mỡ gà mà bán cho người quen dùng đường thẻ, đường tán của mình thuở nay nên ít ai chịu mua đường đó, họ chê đường ít ngọt lại giá mắc. Hội thấy đường của hội sản xuất bán không chạy, hội muốn dẹp hết cả lò đường của người mình, để cho hội chiếm độc quyền làm đường mà bán, không cho người mình làm đường thẻ, đường tán nữa. Hội bàn tính với nhà nước Pháp sao đó không biết, mà nhà nước lại ra lịnh nhơn dân ai trồng mía để làm đường đều phải chở lên Đức Hòa bán chớ không được phép làm đường riêng mà bán ... Mấy lò đường nhỏ của người mình đều phải dẹp hết chớ không được hoạt động nữa".
Ông chủ nói: "Nhà nước Pháp làm cách đó chẳng khác nào giựt chén cơm của dân. Ngang quá".
Ông Giáo nói: "Bởi vậy trong mấy tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh người mình thuở nay trồng mía nhiều bây giờ không được làm đường mía họ xôn xao dữ quá. Té ra người mình làm mọi trồng mía rồi phải chở đem dâng cho người Pháp để họ làm ra đường mà bán mắc đặng họ thủ lợi. Nhà nước thực dân Pháp làm cách nầy cũng như họ đã cấm người mình không được mở thêm ruộng muối, để cho dân phải mua muối của hội Pháp ngoài Cà Ná, lại cũng như họ ép buộc người mình trồng thuốc phải bán cho mấy hãng Pháp vấn thuốc điếu mà bán, chớ không được xắt mà bán chỗ khác".
Bà chủ nói: "Làm như vậy nên nhơn dân oán hận đáng số quá".
Ông Giáo nói: "Mà bán mía cho hãng người Pháp có phải dễ đâu bà. Mía đốn rồi phải mướn ghe chở lên Đức Hòa mà nạp. Người trồng ít thì chở một hai ghe không khổ cho lắm. Ngặt người có mía nhiều như ông Cả Hớn chở biết chừng nào mới hết. Vả trồng mía hễ tới mùa thì phải đốn, ở đâu cũng vậy. Nếu để quá kỳ bị nắng mía mất nước. Nếu phải đốn mía ở vựa mà chở đi lần lần, mía đốn lâu để nó hôi rượu. Khổ chưa. Đã vậy qua mùa mía tỉnh nào cũng đốn mà chở nườm nượp. Hãng chia bung họ định giá nào dân cũng phải bán, chớ chê rẻ rồi chở bán cho ai được mà chê. Mà nếu chở lên tới hãng mua liền thì cũng dễ chịu. Hãng liệu mua mỗi bữa đủ cho máy chạy mà thôi, bởi vậy ghe mía phần nhiều phải đậu mà chờ năm mười ngày mới bán được. Rồi chừng bán có ghe họ chê mía không nước hoặc hôi rượu họ không chịu mua, phải đổ hết xuống sông chèo ghe không mà về. Cái đó càng khổ hơn nữa chớ. Ở mấy tỉnh trồng mía, nhơn dân than phiền dữ quá, nhưng có lịnh của nhà nước Pháp ép buộc như vậy họ mới tiếp trồng thứ khác không thèm trồng mía nữa chớ biết làm sao."
Ông Cả Hớn đã mất lợi lớn mà còn bị hại, ông tức giận không chịu nhịn thua. Ổng cậy Biện Tố làm đơn kêu nài. Ổng biểu chép ra ba bổn rồi ổng gom hết những người trồng mía tựa nhà, ổng đọc đơn cho họ nghe, rồi ổng biểu ký tên với ổng đặng ổng thay mặt đi hầu quan chủ tỉnh mà kêu nài. Nếu quan chủ tỉnh không chịu bãi lịnh cấm mà để cho dân thong thả trồng mía làm đường như cũ thì ổng sẽ ra Tòa kiện, dầu phải tốn hao mấy ngàn mấy muôn ổng cũng chịu hết, không để cho bà con chịu đâu. Hơn 40 người trồng mía đều uất ức nên nghe ông cả nói như vậy ai cũng hăng hái ký tên hoặc lăn tay vào đơn đặng ổng đi kêu nài dùm.
Ông cả xuống chợ Bà Chiểu hầu quan Tham biện chủ tỉnh Gia Định mà đưa đơn. Quan Tham Biện nói đó là lịnh của quan trên dạy ông phải thi hành, bởi vậy ông không có quyền bãi bỏ. Ông lại cắt nghĩa rằng đường của người Việt làm dơ dáy bán cho dân ăn sợ sanh bịnh. Hãng lập ra có máy làm đường cát sạch sẽ dân ăn có đủ bảo đảm về vệ sinh, lại làm đường nhiều để bán ra ngoại quốc làm lợi cho cả nước. Ông biểu về khuyên dân trồng mía thêm cho nhiều đặng khoán trương nền kinh tế trong nước. Trồng mía có hãng bao mua cho thì có lợi quá, tại sao mà lại kêu nài. Ông Cả cắt nghĩa về sự hãng độc quyền mua nên mía không có giá, lại hãng còn làm eo sách, thiệt hại cho người bán mía, bởi vậy nếu nhà Nước không bãi bỏ lịnh ép buộc đó chắc dân uất ức sẽ thù nước Pháp. Tham Biện cười rồi kiếm cách mà trả lời với ông Cả, khuyên ông về cắt nghĩa cho dân nghe mà dạy dân lo trồng tỉa, chẳng nên nghe lời kẻ háo loạn xúi giục rồi kêu nài bậy bạ mà ở tù bị tội.
Ông Cả nghe lời hăm he ông càng thêm tức nên ra khỏi Tòa Bố ông không chịu về, ông ra Sài Gòn đến phòng một trạng sư người Pháp, đưa một bổn đơn cho trạng sư xem và cậy làm đơn mà kiện vụ nầy ra Tòa, đặng Tòa lấy luật công chánh mà phân xử cho dân ở thôn quê nhờ, trạng sư dạy thông ngôn dịch lá đơn cho ổng nghe rồi ổng nói việc nầy thuộc về huấn lịnh của nhà cầm quyền hành chánh, Tòa Hộ cũng như Tòa Hình không có thẩm quyền mà phân xử được. Nếu ông Cả muốn cậy ông giúp mà kêu nài đặng hủy bỏ luật lệ bất công hà hiếp nông dân mà làm lợi "nhà tư bổn" thì ông sẽ tận lực mà giúp cho. Ông sẽ dắt ông Cả đến ra mắt quan Thống đốc, ông Cả kể các điều thiệt hại của nông dân trồng mía cực khổ, lại tốn hao nhiều lại bán mất giá, có mía mà không được làm ra đường mà bán, lại để cho hãng làm đường bán mắc đặng thủ lợi to, rồi ông sẽ tiếp mà cắt nghĩa thêm rành rẽ cho quan Thống Đốc thấy chỗ bất công coi người nói lẽ nào rồi ông sẽ làm đơn nữa, ông dùng lý lẽ nhơn đạo, ông dùng thuyết chánh trị khéo léo mà công kích chế dộ thực dân. Ông Cả nghe luật sư nói cứng cỏi thì ông khoái chí ông chịu cậy ông Trạng sư giúp ông cãi với quan Thống đốc. Ông hỏi Trạng sư định tiền công bao nhiêu.
Trạng sư nói 2 ngàn, ông lấy bạc mà đóng liền. Trạng sư cũng khoái nên dùng dây thép nói kêu văn phòng Thống đốc mà xin định ngày giờ cho ông dắt thân chủ của ông đến ra mắt đặng bày tỏ nỗi khổ của nông dân về luật lệ mới qui định cuộc trồng mía làm đường. Người ta trả lời chiều bữa sau 4 giờ thì lại được.
Trạng sư biểu ông Cả về rồi bữa sau lối 2 giờ rưỡi ra đặng ông dắt đi.
Ông Cả Hớn về thuật chuyện ông đi kêu nài cho mấy người ở gần nghe. Biện Tố là người viết đơn cho ông, anh có 7 mẫu đất mía anh có ký tên trong đơn, nên anh xin ông cho anh theo đặng anh tiếp với ông mà kêu nài cho mạnh mẽ hơn.
Chiều bữa sau ông cả Hớn với Biện Tố khăn đen áo dài đàng hoàng ra hiệp với Trạng sư mà đi kêu nài. Ông Cả ỷ có Trạng sư theo ủng hộ, ông không sợ gì hết, quyết giáp mặt với chúa tể thực dân, ông sẽ trút túi oan ức của người dân Việt cho quan Pháp hiểu đám nông dân xứ nầy tuy thất thế nên bị kềm kẹp song cũng còn biết giận, cũng còn dám thù những kẻ cậy quyền cậy thế mà hà hiếp, toan lợi dụng công lao khổ của họ toan cướp giựt chén cơm của họ, chớ chẳng phải ngu hết đâu.
Thống Đốc vui vẻ tiếp rước Trạng sư với hai thân chủ, ông mời ngồi tử tế. Trạng sư nói một hồi rất lâu, ông cả với Biện Tố không biết tiếng Pháp nên không hiểu cái lẽ nào. Ông nói rồi ông dỡ cặp da lấy lá đơn kêu nài mà trao cho quan Thống Đốc. Ông Thống Đốc nhận chuông. Có một người mở cửa vô. Ông nói ít tiếng, người ấy ra rồi cách một chút có một viên quan Việt vô. Ông đưa lá đơn. Người Việt cầm vừa coi vừa nói tiếng Pháp với Thống Đốc. Thống Đốc nhã nhặn nói một hồi. Người Việt đó mới cắt nghĩa hãng đường của người Pháp lập ra chủ tâm muốn mở rộng nền kinh tế trong nước chớ không phải cói ý bóc lột nông gia, có hãng làm đường thì người trồng mía có sẵn chỗ cho mình bán mía, dân có đường sạch sẽ mà dùng và Nhà Nước được thâu thuế số đường xuất cảng, mọi người đều có lợi hết. Ông hứa ông sẽ viết thơ cho chủ hãng mà dạy hễ nông gia chở mía đến bán thì phải mua liền không nên làm khó nữa. Ông khuyên ông Cả về dạy dân cứ lo trồng mía làm phương tiện mà giữ gìn quyền lợi của dân. Vậy dân chẳng nên nghe lời xúi giục của kẻ ham quậy nước cho đục mà thả câu, nên gieo ác cảm trong lòng dân đối với nhà nước.
Ông Trạng sư nói chuyện với ông Thống Đốc một hồi nữa rồi đứng dậy dắt hai thân chủ về văn phòng của ông. Ông biểu thông ngôn khuyên hai người về nghỉ để ông lo vụ nầy cho. Ông sẽ thay mặt viết thơ mà kêu nài nếu không có hiệu quả thì ông sẽ cậy vài tờ báo chữ Pháp viết bài mà công kích chế độ thực dân và tố cáo người thay mặt cho nước Pháp cai trị xứ nầy là đệ tử của chế độ đó nên phục vụ quyền lợi của thực dân không kể quyền lợi của quần chúng.
Ông cả Hớn với Biện Tố ra về chắc ý mình sẽ đựợc thắng lợi trong vụ tranh chấp nầy.
Ông cả Hớn có mạng làm giàu to, nhưng về hào vợ con ông không được mau mắn cho lắm. Lúc đó ông chưa tới sáu mươi tuổi, mà vợ ông đã mất rồi, mất cách ba bốn năm trước để lại cho ông có một người con gái là cô Cao Thị Ngọc bây giờ ở dưới Sài Gòn đó mà thôi, chớ không có con trai. Con gái ông đã được 20-21 tuổi rồi, hồi nhỏ ông có cho cô ở học trong Nhà trắng năm sáu năm, chừng vợ mất ông mới đem con về đặng hủ hỉ với ông cho trong nhà lợt bớt cái vẻ hiu quạnh. Ít con nên ông cưng, ông sắm xe hơi để cho con đi chơi. Cô Ngọc tuy là con nhà giàu ở vườn song nhờ có học ở Nhà Trắng nhiều năm nên cô quen với nhiều bạn gái giàu sang, cô có trí thức rộng rãi, cô có giáo dục về xã hội cũng như về gia đình, chớ không phải lù mù như nhiều cô gái quê khác. Cô còn hơn bạn gái vài điểm nữa là cô có sắc đẹp diễm kiều, mà tánh nết lại ôn hòa, cử chỉ lại khiêm cung nho nhã. Có xe hơi ban đầu cô đi thăm chị em bạn dưới Sài Gòn thì sốp phơ lái xe cho cô đi. Cô tập lái xe trong ít tháng cô lái xe cũng lanh như sốp phơ rồi, nhiều khi cô đi chơi một mình không cần sốp phơ theo nữa.
Lúc sau đó có nhiều chỗ gắm ghé muốn cưới cô Ngọc. Ông Cả cứ nói con ông còn nhỏ, để thủng thẳng ông lựa người nào đó có đủ tài đủ trí mà tiếp tục giữ gìn sự nghiệp của ông rồi ông sẽ gả, không gấp gì. Con ông có một đống bạc chồng chất trong nhà, thiếu chi người ham muốn mà phải lo gả sớm.
Ông Cả đi kêu nài về sự hãng độc quyền góp mua mía bà làm đường đó, tối ông về ông thuật mọi việc cho con nghe. Cô Ngọc nghĩ có Trạng Sư giúp biện hộ cho nông dân được thong thả làm ăn, bởi vậy cô không lo chi lắm.
Cách vài tuần sau, buổi sớm mơi, ông Cả đi thăm sở mía, cô Ngọc đứng dựa cửa sổ trong buồng mà ngó ra vườn, trí lửng lơ, sắc mặt có vẽ lo lắng, nên cô buồn hiu. Tình cờ người nhà vô cho hay có khách lạ đến. Cô vội vã đi ra ngoài cửa thì thấy có một chiếc xe hơi lớn đậu ngoài lộ và có bốn năm người lạ mặt đương đi vô sân. Cô đứng chờ mà hỏi coi khách đến việc chi. Người đi đầu mặc âu phục thiệt đẹp, tuổi đã bốn mươi, tướng mạo nghiêm chỉnh đàng hoàng, khi vô tới thềm người hỏi phải nhà ông Trần Cao Hớn ở đây hay không, cô Ngọc nói phải, người ấy nói người là nhân viên Sở Mật Thám dưới Sài Gòn liên kết lên kiếm ông cả có chuyện quan hệ, cô Ngọc nói ông thân cô mới đi ra ngoài sở mía. Cô mời khách vô nhà ngồi chờ đặng cô sai người đi cho ông thân cô hay.
Người đó vô ngồi còn mấy người đi theo thì đứng ngoài cửa sổ. Thấy người nhà đi kêu công Cả thì người đó ra dấu cho một người đứng ngoài đi theo rồi hỏi Biện Tố nhà ở chỗ nào. Cô Ngọc nói ở phiá trong cách đây hai cái nhà. Người khách đó kêu một người đứng ngoài biểu đi mời Biện Tố lại đây nói chuyện.
Khách tỏ ý muốn đi xem làm đường, cô Ngọc thấy hơi lo nhưng phải dắt khách qua chỗ đạp dường cho khách xem. Biện Tố lại trước thấy cô Ngọc ở bên lò đường, đương cắt nghĩa cách thức làm đường cho khách hiểu, anh ta đi ngay lại đó. Khách hỏi Biện Tố phải anh có đi với ông cả kêu nài về sự bán mía và làm đường hay không. Biện Tố nói phải, khách biểu ông Cả về rồi sẽ nói chuyện.
Ông Cả Hớn về tới. Ông mời khách trở vô nhà. Biện Tố với cô Ngọc đi theo. Khách mới xưng mình là trưởng phòng tra vấn trong Sở mật Thám. Vì có tờ tố cáo hai ông nên phải lên rước hết hai ông xuống sở đặng hỏi và lấy khai.
Ông Cả nóng giận nên ông nói lớn: "Thuở nay bọn nông dân chúng tôi làm ăn thong thả, không bao giờ dám phạm phép nước. Người ta ỷ quyền ỷ thế muốn cướp giựt chén cơm của chúng tôi nên chúng tôi mới đi kêu nài. Đi đâu thì đi, dầu lên tới trời chúng tôi cũng khai ngay ra như vậy chúng tôi có sợ gì đâu".
Người khách cười và khuyên ông ra xe mà đi xuống Sở Mật Thám rồi sẽ nói chuyện.
Ông Cả đưa chìa khóa cho con, biểu mở tủ lấy cái bóp với áo dài cho ông. Ông bỏ bóp vào túi rồi bận áo. Ông dặn cô Ngọc cất chìa khóa và ở nhà coi nhà rồi ông cùng với Biện Tố ra xe hơi mà đi với khách.
Ông chủ tiệm nói:"Ông Cả với Biện Tố bị Sở Mật Thám bắt chớ gì!".
Ông Giáo nói:"Phải, bắt giam hơn nửa tháng, người quen với tôi cũng có ruộng mía nên thuật tỉ mỉ cho tôi nghe đủ hết. Ông nói chừng ông Cả về thuật lại mới biết người lên nhà bắt ông đó là ông Phủ Tạ Tấn Cù, một nhơn viên cao cấp của Sở Mật Thám Pháp, ông giúp sức cho sở đắc lực, lập nhiều công lớn nên nhà nước ban cho ổng chức phủ hàm, chớ ổng không phải Phủ thiệt thọ trong ngạch Huyện Phủ. Tuy vậy mà ông Cả Hớn nhờ ổng lắm".
Bà Chủ nói: "Chắc ông Cả gả con cho ông Phủ đó, nên bây giờ cô Ngọc trong nhà lầu đó mới được người trong nhà gọi là bà lớn".
Ông Giáo nói: "Bà đoán trúng. Nhưng để thủng thẳng tôi nói hết cho ông bà hiểu. Những người trồng mía có đứng tên trong đơn kêu nài họ hay ông cả với Biện Tố bị Sở Mật Thám bắt thì họ xanh mặt, sợ cũng sẽ bị bắt nữa. Cô Ngọc chờ đến chiều không thấy cha về, đến sáng cũng không có. Cô nóng nảy biểu sốp phơ đem xe ra đặng cô đi Sài Gòn. Cô đến phòng Trạng sư mà nói cho ông hay sớm mơi hôm qua Sở Mật Thám có sai người lên nhà bắt ông Cả với Biện Tố chở đi đến sáng nay cũng chưa thả về.
Trạng Sư ngạc nhiên. Ông quay dây thép nói mà kêu Sở Mật Thám, ông hỏi thăm cụ Cả Hớn là thân chủ của ông, rồi ông nổi giận ông nói với cô Ngọc rằng bọn cá mập bóc lột dân cần lao, dân ngước mặt lên mà phản kháng, bây giờ chúng nó kiếm cớ cáo ông Cả làm đầu xúi dân nghịch nhà nước. Chúng nó tra vấn muốn buộc ông về tội khuấy cuộc trị an. Làm Trạng Sư, lúc Mật Thám tra xét ông không có quyền can. Vậy cô cứ về nghỉ, đừng sợ chi hết. Chừng họ giải ông Cả qua Biện Lý ông sẽ ứng trực mà biện hộ mạnh mẽ cho ông Cả. Ông sẽ viết báo mà kể tội ác của chế độ thực dân ở xứ nầy cho hoàn cầu biết.
Tuy trạng Sư nói cứng song cô Ngọc về nhà cô lo sợ đêm ngày ăn ngủ không được. Mấy người đứng đơn với ông Cả họ càng sợ hơn. Có người nhát quá giao đám mía cho vợ coi chừng họ đi bậy mà ẩn mặt cho khỏi bị bắt. Mà mấy người làm gan mà ở nhà thì họ sợ bị tình nghi nên không dám léo đến nhà ông cả mà hỏi thăm. Còn cô Ngọc ngày nào cô cũng có xuống dưới Sài Gòn mà lóng nghe tin tức cha. Đôi ba bữa cô ghé thăm ông Trạng Sư một lần, lần nào ông cũng khuyên cô an lòng để mặc ông lo cho. Ông vận động nên nhựt báo Pháp văn bắt đầu nói tới vụ đó. Một bữa cô bạo gan đi ngay vô Sở Mật Thám tìm ông lên bắt cha cô hôm nọ mà xin phép thăm cha cô. Ông Phủ Cù niềm nở tiếp rước nhưng ông dùng lời nhã nhặn mà nói vì ông Cả bị cáo về tội làm quốc sự nên ông không dám vị tình mà cho cô thăm được. Ông lại nói nhỏ cho cô nghe rằng riêng về ý ông thì ông biết ông Cả là người ngay thẳng, ổng ưa làm ăn chớ không ưa bạo động. Ổng sẽ tận tâm kiếm kế mà cứu giùm ông Cả cho cô. Ông khuyên cô yên tâm coi nhà và nhắc tôi tớ săn sóc mấy sở mía. Việc nầy cô phú cho ông tự lo cho, cô đừng sợ đừng buồn chi hết.
Cô Ngọc cám ơn rồi ra về, trong lòng bớt lo. Cách mười bữa sau, ông cả mướn lô ca xông mà về với Biện Tố. Cô Ngọc mừng hết sức. Mấy người trồng mía với bà con lối xóm đều tựu lại mừng ông. Người ta hỏi việc đó đã xong hay chưa, thì ông Cả nói nhờ ông Phủ Cù che chở mọi bề nên ông mới về được. Nhưng việc nầy cũng còn lòng vòng chưa xong.
Cách ít bữa ông Phủ Cù lái xe một mình lên thăm ông cả Hớn lúc gần tối và mời ông Cả đi xuống Chợ Lớn ăn cơm với ông đặng bàn tính công việc riêng. Cô Ngọc đã quen với ông Phủ, lại nghe cha nói ổng là người ơn, bởi vậy cô niềm nở lo trà nước mà đãi khách. Ông Cả đi với ông Phủ quá 12 giờ khuya xe mới đưa về.
Bữa khác ông Cả mời ông Phủ lên nhà ăn cơm với ông rồi hai người rù rì nói chuyện với nhau đến khuya ông Phủ mới về.
Cô Ngọc dòm thấy cha thân mật với ông Phủ Cù là một nhơn viên có thinh thế lớn trong Sở Mật Thám Pháp thì cô hết lo nữa. Một bữa cô thỏ thẻ thưa với cha rằng, vì hôm trước cha bị việc rắc rối làm cho cô rầu lo nên cô bịnh. Nay có một bạn gái dưới Sài Gòn muốn đi Đà lạt ở dưỡng sức ít tháng nên rủ cô đi nghỉ đặng có chị em cho vui. Cô muốn xin cha cho cô đi nghỉ đặng có bạn. Ông Cả sẵn lòng cho phép con đi nghỉ để ông ở nhà ông lo làm ăn cho xong. Ông biểu con lấy năm mười ngàn mà đi chơi, muốn ở bao lâu tùy ý song mỗi tuần gởi thơ về cho ông biết tin tức vậy thôi.
Cô Ngọc đi rồi, thiệt mỗi tuần cô có gởi thơ về thăm cha. Cô nói may hôm đi cô có đem hờ theo 10 ngàn đồng nên cô kiếm mướn được một biệt thự nhỏ mà đẹp, trong nhà có đủ đồ dùng chung quanh có đủ thứ hoa đua nở. Cô mướn người ở nấu ăn và dọn dẹp trong nhà, phải chỗ cho cô nghỉ mà tiếp dưỡng lắm nên cô xin cha cho phép cô ở lâu lâu.
Ông Cả trả lời biểu cô ở tới chừng nào cũng được, nếu có cần dùng tiền thêm thì cho ông hay đặng ông mua bưu phiếu gởi lên cho.
Trong lúc cô Ngọc vắng mặt ông Phủ Cù cũng vẫn tới lui bàn tính vun trồng mía và làm đường với ông Cả hoài. Được chừng một tháng ổng cho ông Cả hay ổng vận động mà giữ gìn quyền lợi cho ông cả đã có mòi xuôi thuận. Ông Cả mừng. Tháng sau ông Phủ lại cho hay nhà nước Pháp chấp thuận ý kiến của ông nên đương tính sửa đổi chế độ trồng mía và lập lò đường lại, có lẽ trong ít tháng nữa ông Cả sẽ làm ăn như hồi trước mà nhờ có nhà nước bảo đảm nên ông Cả sẽ hoạt động mạnh hơn.
Ông Cả đắc ý gởi thơ cho con hay và biểu con cứ ở trên Đà Lạt mà tiếp dưỡng sức khỏe chừng nào ông với ông Phủ Cù sắp đặt cuộc làm ăn xong hết ông gởi thơ cho hay rồi sẽ về.
Nhờ vận hội như vậy cô Ngọc mới được ở yên trên Đà lạt mà nghỉ hơn sáu tháng, rồi nhà nước Pháp qui định chế độ lò đường thế nầy: không cho phép lập lò đường mới thêm nữa, nhưng các lò đường đã có rồi trong các tỉnh thì được phép tiếp tục hoạt động như thường, chỉ buộc mỗi lò không được sản xuất đường nhiều hơn số đã sản xuất mỗi năm trước. Trong mỗi vùng trồng mía đạp đường nhà nước chọn chủ lò đường lớn hơn hết mà ủy quyền thanh tra kiểm soát mấy lò đường nhỏ không cho sản xuất đường nhiều quá số cũ. Ông Cả Cao Văn Hớn được chỉ định làm thanh tra cầm quyền kiểm soát các lò đường trong tỉnh Gia Định, cũng như ở Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, mỗi tỉnh đều có đặt một vị thanh tra riêng vậy. Còn trồng mía thì nông dân ai có mía nhiều chở lên Đức Hòa mà bán thì hãng sẵn lòng mua giùm cho hết, mua lẹ làng và mua đồng một giá với mấy lò đường nhỏ.
Thế thì ông cả Hớn nhờ có ông Phủ Cù vận động giúp sức nên ông tranh đấu đã đắc thắng hoàn toàn. Ông đã không mất số lợi lớn của ông. Mà còn có quyền kiểm soát các lò đường trong tỉnh nữa. Ông hân hoan cực điểm ông gởi thơ cho cô Ngọc hay rồi biểu cô về mau mau.
Cô Ngọc về tới ông gả cô cho ông Phủ Cù. Vì cô Ngọc là gái mới lớn lên, còn ông Phủ Cù đã gần năm mươi tuổi tóc đã điểm bạc tự nhiên cô dụ dự. Ông cắt nghĩa lợi hại cho cô nghe. Ông nói sự nghiệp to tác của ông ngày sau sẽ về cô hưởng hết. Cô phải có một người chồng trộng tuổi có đủ tài đủ trí như vậy mới gìn giữ sự nghiệp của ông được. Huống chi ông mang ơn Phủ Cù nặng quá, nhờ người nên ông khỏi tù tội, mà cũng khỏi mất lợi, lại được thêm oai quyền. Ông ép uổng nên cô Ngọc phải ưng. Ông gả con cho Phủ Cù, rồi mua nhà lầu ngoài Sài Gòn cho con rể ở".
Bà chủ tiệm nói:"Té ra chồng bà hồi trước làm ông Phủ nên tôi tớ mới kêu bà là bà lớn. Lại ổng lớn tuổi hơn bà nhiều, nên ổng mới chết trước mà bà còn nheo nhẻo. Bây giờ nhờ có ông Giáo nói tôi mới hiểu. Hồi nãy tôi có biểu cậu Khánh về thưa với mẹ để tôi ở trong nầy ăn cơm rồi tôi sẽ về chơi, vậy để tôi đi về cho khỏi thất ước với người lớn và sắp nhỏ cũng khỏi trông".
Anh sốp phơ cũng đã ăn cơm rồi, bà Hòa mới lên xe mà về. Vô nhà bà hay các con vẫn còn ở chơi bên nhà lầu, bà mới đi qua đó. Bước vô nhà thấy mấy cô cậu đương ngồi bên phòng khách uống nước đá mà nói chuyện, còn bà Ngọc thì nằm bên ván. Bà Ngọc thấy khách, bà lật đật ngồi dậy chào mừng. Bà kêu bằng chị, mời đi ngay lại bộ ván mà ngồi với bà và nói: "Từ sớm mơi tới giờ có mấy cháu qua chơi thiệt tôi vui quá. Ở gần phải có tình thân thiện với nhau, mình kết nghĩa chị em đặng qua lại chơi cho vui. Tôi có dặn mấy cháu kêu tôi bằng dì hai, chớ đừng kêu bằng bà nghe lợt lạt lắm. Tôi xin bà chị vui lòng cho phép tôi kêu bằng chị còn chị cứ kêu tôi bằng em xưng hô như vậy có tình hơn. Tôi nhỏ tuổi thì tôi làm em là phải".
Bà Hòa chịu để sắp nhỏ kêu bà Ngọc bằng dì hai, còn phận bà thì bà xin để bà kêu bằng cô vậy thôi.
Bà Ngọc nhắc lại chuyện hồi sớm mơi, bà có xin Đào với Lý lúc nầy bãi trường mỗi bữa qua nói chuyện chơi với bà một vài giờ cho bà vui. Hai cô ái ngại sợ thiên hạ dị nghị. Bà bảo đảm gìn giữ không để cho ai thất lễ với hai cô đâu. Bà xin bà Hòa vui lòng cho phép hai cô mỗi bữa qua chơi đừng nghi ngại chi hết.
Bà Hòa biết bà Ngọc là con nhà giàu sang tử tế, lại thấy bà có tình thành thiệt yêu con bà, nên bà vui lòng cho con thong thả qua chơi.
Chủ khách thân mến vui chơi tới năm giờ chiều rồi cậu Hoài về. Bà Hòa cũng từ giã mà về với ba con, để chủ nhà nghỉ.
- o O o -
Tấm lòng thành thiệt với lời nói khiêm nhường dễ gây cảm tình cho người ta, dầu cảnh đời dĩ vãng của mình có điểm nào không được đẹp, người ta cũng có thể làm lơ mà dung chế cho mình được.
Bà Hòa nhờ ông Giáo Hiệp bà biết được rõ tông tích của bà Ngọc vốn con một cự phú có sắc đẹp, có tiền nhiều mà lại lấy một ông chồng già, mặc dầu ông chồng là một tay sai trung thành của người Pháp, một cánh tay lợi hại của Sở Mật Thám Pháp là sở của chế độ thực dân tạo ra để gieo khủng khiếp trong đầu óc nhân dân; thuở nay đánh khảo đày lưu và giết chết không biết số bao nhiêu sanh mạng mà kể cho xiết. Cậu Khánh là con của một người hung bạo ấy mà cậu lại mềm mỏng nhỏ nhoi vui vẻ, dễ thương. Còn bà Ngọc là vợ của kẻ dữ tợn ấy mà bà lại tử tế hiền lành, không kiêu căng không làm mặt bà lớn. Có phải những đức tánh của mẹ con bà Ngọc như vậy đó làm cho bà Hòa quên đi địa vị tàn ác của ông Phủ Cù ngày trước, chỉ còn nhớ tánh tình cứng cỏi và sự nghiệp nguy nga của ông Cả Hớn mà thôi, nên bà mến mẹ con bà Ngọc, hay là tại bà Hòa gốc ở trong hạng nghèo khổ mà xuất thân, bây giờ bà nhờ Trời cho vợ chồng bà có cơm tiền đủ ăn lại có con gái con trai đều ham học hết, bà phỉ chí hài lòng nên bà rộng rãi với mọi người, không ghét ai không chê ai hết?
Mà cách cư xử của bà Ngọc và cậu Khánh thiệt cũng khó mà ghét hay là chê được.
Sáng bữa sau, ăn lót dạ rồi, bà Ngọc biểu con đi với bà qua thăm mấy mẹ con bà Hòa, bởi vì người ta đã đến thăm mình mà mình không đáp lại, té ra mình không biết lễ. Bịnh cũng phải ráng.
Bà Hòa đương ngồi trong nhà, thấy mẹ con bà Ngọc vô sân thì bà chưng hửng. Bà kêu Đào với Lý ra mà chỉ, rồi mấy mẹ con ra đứng trên thềm chực mà chào mừng.
Bà Ngọc đi chậm rãi, tuy mặc y phục thường như ở nhà chớ không có trang điểm, song gương mặt hiền lành lại sáng rỡ tướng đi yểu điệu lại khoan thai, người đã có sắc đẹp thiên nhiên, không tô điểm ấy là tô điểm, bởi vì vẻ đẹp của thợ trời có sẵn một ám lực thiên nhiên đủ gây mối cảm cho người, rồi nó hấp dẫn, lôi cuốn chinh phục tình yêu mạnh hơn là áo và phấn son.
Vô chưa tới thềm, không đợi chủ nhà chào bà Ngọc chúm chím cười nói: "Trót hơn 10 năm tôi không còn thấy một chị em nào nữa hết. Trời xui khiến chị với mấy cháu về đây, chị tưởng tình lân cận, chị qua thăm tôi rồi chị còn thương thân hiu quạnh của tôi. Nên chị cho phép hai em Đào với Lý qua lại chơi với tôi đặng đời sống của tôi bớt lạnh lẽo một chút. Vì cái ơn tri ngộ ấy cho nên dầu sức khỏe suy kém tôi cũng ráng qua tạ ơn chị cho khỏi thất lễ. Ấy vậy mà cái nhà chị là cái nhà thứ nhứt tôi được hoan hỉ bước vào trong khoảng 20 năm sau nầy".
Bà Hòa rất vui mà đáp: "Vậy thì chánh cô đem hạnh phúc vào nhà mẹ con tôi. Mẹ con tôi chẳng những là hoan hỉ, lại còn thêm vinh diệu mà tiếp rước cô, với tấm lòng chơn thành khẩn vái cho cô khỏe mạnh đặng bà con qua lại chơi với nhau cho vui".
Bà Hòa với mấy con niềm nở mời mẹ con bà Ngọc vào ngồi. Bà Ngọc rất thiệt tình, bà kêu Đào với Lý mà nói: "Dì Hai với Khánh mới lót lòng rồi qua đây. Hai con ngồi nói chuyện chơi đừng có lo bánh nước gì hết. Bây giờ bên nầy với bên dì cũng như một nhà. Nếu dì có khát thì dì biểu đem nước cho dì uống, không cần phải lo".
Thái độ của bà Ngọc càng phút càng gây thân yêu thêm hoài, không để chỗ nào trống cho cái chê hay cái ghét phát sanh ra được, bởi vậy rồi đó mẹ nói chuyện với mẹ, con nói chuyện với con, tạo ra một không khí êm ấm, thuận hòa và kéo dài cuộc vui vẻ đến gần 11 giờ mẹ con bà Ngọc mới từ mà về. Bà Hòa với mấy con phải theo đưa khách ra tới cửa rào. Đào với Lý phải hẹn buổi chiều sẽ qua chơi rồi mới trở vô được.
Từ đây, hai nhà khắn khít với nhau cũng như bà con ruột thịt. Ngày nào Đào với Lý cũng qua chơi với bà Ngọc, lần lần hết ái ngại nữa, hai cô tuông pha khi mở tủ lấy bánh mà ăn khi vô phòng kiếm sách mà đọc, cử chỉ chẳng khác nào con cháu trong nhà. Nhờ hai cô thân thiết gọi bà Ngọc bằng dì hai ngon lành, vẻ buồn của bà lần lần cũng lợt phai để cho nét tươi cười phát hiện trên mặt. Bây giờ năm bảy bữa không thấy bà Hòa qua chơi thì bổn thân bà Ngọc qua mà thăm bạn. Có khi thừa buổi chiều trời tốt, bà Ngọc qua mời bà hòa với Đào, Lý đi xe chơi với bà một vòng đặng hứng gió, bữa đi qua thương khẩu xem tàu ra vô, bữa đi vô Chợ Lớn chen trong cuộc rần rộ, bữa đi lên phía Phú Thọ, Chí Hòa thưởng thức cảnh vắng vẻ im lìm. Có bữa cũng vô Bà Chiểu rồi ghé tiệm bàn ghế cho bà Ngọc thấy cuộc buôn bán của vợ chồng bà Hòa, mà cũng cho bà Ngọc làm quen với ông Thái đặng hai đàng hiểu biết bụng nhau khỏi sanh nghi kỵ phá tan niềm hòa khí.
Cậu Hoài cũng hay lên chơi với cậu Khánh. Mà anh em hội hiệp thì thường dắt nhau qua thăm chị Đào chị Lý rồi rủ em Tòng đi chơi. Bà Hòa thấy hai cậu đều giữ lễ phép đàng hoàng nên nói chuyện chơi với Đào Lý bà không nghi ngại chi hết mà rủ Tòng đi dạo chơi bà cũng không lo sợ.
Hai nhà thân thiện khắng khít với nhau như vậy cha mẹ hai bên đều vui lòng, bà Ngọc bớt buồn nên bà hay rủ bà Hòa đi chơi mà vợ chồng ông Thái cũng mừng con đi học có bạn thân chăm nom binh vực.
Chừng khai trường cô Đào với cô Lý được qua học trường trung học Trương Vĩnh Ký học lớp thứ nhì chung 1 lớp với hai cậu Khánh và Hoài, hai chị em dặn nhau phải ráng mà học đừng để thua sút bạn trai người ta chê cười. Mấy cậu trai năm nầy có năm sáu cô gái học chung, mấy cậu cũng lo mà học cho hơn phái yếu để giữ danh dự cho nam tử.
Bữa đầu cô Đào thấy cậu Khánh cỡi xe gắn máy mà đi học, cô mời cậu đi chung xe hơi với chị em cô, chớ đi xe máy rủi trời mưa ướt hết. Khánh cám ơn, cậu nói bổn phận làm trai phải đi xe máy cho giãn gân cốt. Lại sớm mơi phải tập thể thao thường cậu phải đi sớm, nên đi chung xe không tiện. Bà thân cậu để sớp phơ ở luôn, bữa nào trời mưa thì sốp phơ sẽ lấy xe nhà đưa rước cậu.
Học được vài tuần ông Thái hỏi hai con học kịp bạn trai hay không. Hai cô nói kịp. Ông hỏi thăm sức học của Khánh, với Hoài thì hai cô nói cả hai đều học giỏi hết, cô Lý lại nói Khánh với Hoài cần tập thể thao lung lắm, ban đêm Hoài còn học Nhu đạo; các bạn đều nói Hoài giỏi Nhu đạo, nên dầu mấy anh lớn học lớp trên cũng kiêng nể Hoài. Vợ chồng Thái nghe nói như vậy càng thêm mừng, bởi vì Hoài được chúng bạn kiêng, mà Hoài kêu Đào với Lý bằng chị, vô trường chơi với nhau, thế thì có cậu nào dám động tới con mình mà sợ.
Trẻ nhỏ mắc đi học, bà Hòa với bà Ngọc ở nhà qua lại nói chuyện đời với nhau. Có bữa bà Ngọc biểu đem xe ra rồi mời bà Hòa đi xuống chợ Sài Gòn hoặc vô Chợ Lớn mua đồ. Có bữa bà Hòa rủ bà Ngọc vô Bà Chiểu mà viếng tiệm bàn ghế.
Một bữa hai bà nằm chơi với nhau, bà Hòa muốn gây cho bà Ngọc kể tung tích coi giống như chuyện ông Giáo Hiệp thuật hay không, nên bà hỏi thăm quê quán của bà nọ hồi còn nhỏ.
Bà Ngọc nghe hỏi tới việc trước thì bà buồn, bà dụ dự một chút rồi bà ngồi dậy mà nói: "Tôi gốc trên làng Bình Phước. Cha mẹ tôi sanh có một mình tôi, bởi vậy tôi không có anh chị em nào hết. Mẹ tôi lại khuất sớm, mất hồi tôi mới được mười mấy tuổi. Cha tôi làm ăn lớn có nhà cửa tử tế, có vườn, có đất trồng mía, có lò đường. Cha tôi không chịu cưới vợ khác, nói sợ mẹ ghẻ họ ăn hiếp tôi, mà có lẽ cha tôi mắc lo trồng mía làm đường có lợi to quá nên không có thì giờ rảnh mà tính tới sự chấp nối, cha con hủ hỉ với nhau, đến tôi khôn lớn mới gả tôi lấy chồng rồi mua cái nhà nầy cho vợ chồng tôi ở. Tội nghiệp cha tôi ở trển có một mình nhưng tánh ưa hoạt động nên cha tôi vui với công cuộc làm ăn rần rần không để ý tới cảnh già hiu quạnh. Cách ít năm, cha tôi mất. Nhà cửa, vườn tược, sở mía, lò đường đều bỏ hết không ai coi. Cha thằng Khánh không thể về trển ở mà tiếp tục làm công việc của cha tôi. Tôi xin trở về một mình tôi làm, ổng không chịu. Cùng thế tôi phải kêu người cháu họ của cha tôi cậy về ở nhà cha tôi, thay mặt cho tôi mà trồng mía mà làm đường, mỗi năm tính sổ lời được bao nhiêu tôi sẽ chia cho phân nửa. Đôi ba tháng cha thằng Khánh lên thăm một lần vậy thôi. Cha tôi chết, tôi buồn rầu rồi sanh bịnh, lại sợ thấy cảnh cũ tôi buồn thêm nữa nên tôi không dám đi. Khá, người bà con đó biết làm công chuyện, mà thay mặt cho tôi thì có sẵn nhà mà ở, được hưởng cây trái trong vườn, lại biết trồng mía làm đường có lợi lớn nên ảnh tận tâm lo mà làm, mỗi năm tôi chia số lời cho ảnh mấy chục ngàn, ảnh mừng quá mà tôi cũng không tiếc. Ngặt mạng số ảnh không được hưởng lâu dài nên ảnh làm được có mấy năm rồi thời cuộc lộn xộn xảy ra, nhà cửa với lò đường họ đốt phá tan hoang, cây trái trong vườn họ đốn rạp hết. Đất trồng mía cũng bỏ cho cỏ mọc, chớ còn ai đâu mà trồng. Năm kia cha thằng Khánh có nhắn anh bà con đó xuống rồi cậy ảnh về kiếm người cho mướn đất dùm, vì thời cuộc coi đã yên rồi, có lẽ trồng mía và lập lò đường lại được. Ảnh về ảnh cho mướn được một mớ đất lấy tiền đem về mướn nhơn công làm. Ảnh cũng lấy tiền lập lò đường lại rồi kế cha thằng Khánh mất. Tôi giao quyền cho ảnh lo làm. Khá, mùa rồi tôi có lợi được mười mấy ngàn. Năm nay trồng mía đã giáp đất hết, có lẽ mùa tới sẽ khá hơn".
Bà Hòa nói:
- Đường bây giờ bán có giá quá. Nếu trồng mía được cho nhiều, đích thân mướn người làm đường dưới quyền của mình thì huê lợi lớn lắm.
- Hồi trước cha tôi làm mỗi năm lời cả trăm ngàn. Tôi yếu đuối đi đứng không tiện mà thiệt tôi buồn tôi không ham muốn làm giàu, nên tôi giao cho người ta làm. Mỗi năm có lợi bao nhiêu cũng được, miễn đủ cho tôi nuôi con ăn học vậy thôi. Tôi thầm vái Trời Phật cho tôi sống mà nuôi thằng Khánh đến khôn lớn cưới vợ cho nó rồi giao sự nghiệp của cha tôi cho nó đặng tôi yên lòng. Ngày sau nếu nó muốn làm giàu thì nó lo mà làm. Tôi mong ước có một điều là ngày tôi nhắm mắt theo ông theo bà, tôi trả dứt nợ đời không bỏ lòng thòng ở sau chút nào hết, tôi khỏi ôm ân hận theo xuống cửu tuyền vậy là đủ.
Đến chiều bà Hòa về nhà, bà nhớ câu chuyện của bà Ngọc nói thì trúng với lời ông Giáo Hiệp thuật hôm nọ. Nhưng bà Ngọc nói sơ lược, bà bỏ dẹp câu chuyện ông Phủ Cù giúp ông Cả Hớn chống với chế độ thực dân, lại cũng dấu biệt trường hợp ông Cả gả bà lấy chồng. Bà Hòa suy nghĩ rồi chắc bà Ngọc hổ phận trẻ mà lấy chồng già nên bà không chịu nói và chắc bà Ngọc bất mãn về cuộc tình duyên không được đẹp đó mà bà buồn rầu nên sanh bịnh.
Còn vài điểm khác nữa làm cho khó hiểu. Cuộc làm ăn của ông Cả Hớn có lợi to. Tại sao ổng chết rồi, rể ổng không chịu tiếp tục mà làm, lại phải giao cho người khác làm đặng họ thủ lợi, lại thủ một phần nhiều? Có phải tại gốc người ta là tay sai thực dân Pháp nên không dám lên ở cheo leo trên Bình Phước mà làm chăng? Mà với cái dĩ vãng không tốt đẹp đó, sao mấy năm hỗn độn người thoát khỏi tai hoạ đến năm rồi đây mới chết?
Đó là mấy điểm mờ mà bà Hòa muốn biết. Nhưng đó cũng là việc riêng của bà Ngọc, có lẽ vì đó mà bà Ngọc phải chịu đau khổ, không ham chức bà lớn, không tham tiền bạc nhiều bởi vậy bà Hòa không dám bươi móc ra việc kín của người ta giấu.
Đến bãi trường Tết, Khánh với Hoài tập đánh tơ-nít, lái xe hơi ban đêm. Hoài lại dạy dùm cho Khánh biết Nhu đạo.
Còn Đào với Lý nghĩ đời nay trai hay gái đều phải nên tập thể thao nên hai cô xin cha mẹ rồi mỗi buổi sáng ba chị em đi một vòng cho giãn gân cốt.
Học mãn niên khóa đó, Khánh với Hoài cũng như Đào với Lý đều được sắp theo ưu hạng nên lên lớp nhứt khỏi thi. Biết mãn năm nay sẽ bắt đầu thi tú tài, bốn trẻ đều nỗ lực học ngày học đêm. Hễ bền chí tự nhiên thành công, bởi vậy cuối năm bốn trẻ đều đậu Tú tài phần thứ nhứt.
Bà Ngọc vui mừng. Bà làm tiệc mời hết bốn trẻ vui chơi một bữa. Bà mời hết cả nhà ông bà Thái với Hòa lại cũng mời luôn vợ chồng ông Võ Quan Trứ là cha mẹ của cậu Võ Quan Hoài nữa.
Bữa sau vợ chồng ông Thái mời đãi lại tại nhà ông, cũng mời đủ hết như bữa trước.
Vợ chồng ông Võ Quan Trứ muốn đủ lễ thù tạc, ngặt tiệm buôn chật hẹp không thể đãi tại nhà được, nên vợ chồng ông cũng mời đủ hết và đặt cỗ tại một cao lầu trong Chợ Lớn.
Nhờ dịp thù tạc đó mà nhà của bà Ngọc với nhà của vợ chồng ông Thái càng khắng khít hơn nữa, hai nhà cũng như một, lại còn thân thiện thêm với vợ chồng ông Trứ, nên bà Ngọc rất vui lòng.
Vợ chồng ông Thái nhận thấy cái đà tiến thủ của nhà mình được xuôi thuận luôn luôn, thì lấy làm đắc chí, nên không cần nhớ dĩ vãng của thân sanh cậu Khánh ngày trước.
Khánh với Hoài đều ưa toán-pháp, lại nghĩ đời mới nầy là đời kỹ thuật, học môn toán pháp đắc dụng hơn, Cô Đào với cô Lý học toán cũng khá, cô Đào muốn ngày sau cô học thuốc đặng làm Bác sĩ còn cô Lý lại muốn học bào chế thuốc đặng sau làm Dược Sư. Vì vậy nên khai trường học lại cả bốn bạn trẻ đều học toán cũng còn học chung với nhau nữa.
Mẹ con bà Hòa trở vô nhà chơi cho bà Ngọc khỏi buồn. Đến xế Đào, Lý với Tòng về tắm rửa để cho mẹ ở lại.
Hai bà nằm nói chuyện chơi với nhau tới chiều bà Hòa mới về. Bà Ngọc đưa bạn ra cửa bà dặn tối làm ơn cho cô Lý qua ngủ với bà chơi cho vui, có sẵn cái phòng trên lầu có giường nệm tủ bàn đủ hết, Đào hay Lý qua ngủ đó được. Bà Hòa nói ăn cơm rồi bà sẽ biểu Lý qua liền, đem sách qua bên nầy mà học .
|
|
|