Nhật ký của Aurore: tuổi thiếu niên Cần phải rời Pampelune, nơi chúng con đã bắt đầu bớt nghèo khó. Henri thậm chí còn dành dụm được đôi chút, và thật may cho bạn con. Con nghĩ lúc ấy con khoảng mười tuổi gì đấy. Một buổi tối bạn con về, vẻ băn khoăn lo lắng. Con đã làm tăng thêm mối bận tâm của bạn con khi cho bạn con hay, suốt ngày hôm đó, có một người đàn ông mặc áo choàng sẫm màu cứ đi đi lại lại trên phố, dưới cửa sổ của con. Henri không hề ngồi vào bàn ăn. Bạn con chuẩn bị vũ khí và mặc như chuẩn bị đi xa.
Đêm xuống, bạn con khoác cho con một chiếc áo chẽn bằng dạ và thắt dây giày cao cổ cho con. Bạn con ra đi, mang theo kiếm. Đã lâu con không thấy bạn con bồn chồn như thế. Khi bạn con trở về, thì đó là để gói ghém quần áo của bạn con và của con.
- Chúng ta đi thôi, Aurore. - Bạn con nói..- Có lâu không? - Con hỏi.
- Mãi mãi.
- Sao! - con thốt lên và nhìn căn nhà nhỏ nghèo nàn của chúng con, - chúng ta sẽ bỏ lại tất cả những thứ này? - ừ, tất cả những thứ này, - bạn con cười buồn bã trả lời. - Ta vừa đi tìm ở góc phố một kẻ và kẻ đó sẽ là người thừa kế của chúng ta.
Giờ thì kẻ đó sung sướng như một ông hoàng.
Mọi việc đâu vào đấy cả.
- Nhưng mà chúng ta đi đâu? - Có trời mà biết được, - bạn con trả lời cố tỏ ra vui vẻ, - lên đường, Aurore bé nhỏ, đến giờ rồi.
Chúng con ra đi. Khi chúng con xuống các bậc thềm, con nhìn thấy một vật tối sẫm nằm ở giữa phố hoang vắng. Henri muốn kéo con đi theo hướng tường thành, nhưng con đã thoát ra được vì bạn con còn đang lúng túng với các gói bọc mang theo, và con lao tới chỗ cái vật đã khiến con chú ý. Henri hét lên một tiếng để ngăn con lại. Con bao giờ cũng nghe theo bạn con, nhưng đã quá muộn. Con đã nhận rõ một hình người dưới một tấm áo choàng, và con tin rằng đã nhận được ra chiếc áo choàng của cái người lạ lùng cứ đi đi lại lại dưới cửa sổ phòng con lúc ban ngày. Con nhấc chiếc áo lên. Đúng là người con đã nhìn thấy trong ngày. ông ta đã chết, ngập trong vũng máu của mình. Con ngã vật ra sau, như thể chính mình bị một cú đánh chết người. Đã có cuộc đánh nhau ở đó, ngay bên con, vì khi ra đi Henri đã mang theo kiếm.
Lại một lần nữa Henri liều mạng sống vì con.
Mãi sau, con tỉnh dậy trong một căn phòng tồi tàn nơi chúng con ngủ. Con khẽ gọi Henri bạn con. Không ai trả lời con. Nhưng con thấy một bóng người bò trên sàn và một lát sau, Henri ngồi dậy bên đầu giường con. Bạn con ra hiệu cho con im, và nói rất khẽ vào tai con: - Bọn chúng đã phát hiện ra dấu vết chúng ta. Bọn chúng đang ở dưới nhà.
- Ai vậy? - Con hỏi.
- Đồng bọn của tên nằm dưới tấm áo choàng.
Tên bị giết! Con cảm thấy run rẩy từ đầu đến chân, và nghĩ rằng mình lại sắp ngất đi. Henri nắm lấy tay con, nói tiếp: - Bọn chúng vừa mới ở sau cửa. Chúng tìm cách mở cửa. Ta đã luồn tay vào các vòng chốt như một thanh ngáng. Bọn chúng không đoán ra được và đã đi tìm một cái kìm, để phá cánh cửa ở phía trong: bọn chúng sẽ trở lại! - Nhưng cha đã làm gì chúng vậy, Henri bạn của con, - con thốt lên, - khiến cho chúng đuổi theo cha riết thế?.- Cha đã giật miếng mồi, mà chúng sắp cắn xé, khỏi miệng chúng, cái lũ sói ấy. - Bạn con trả lời.
Con ư? Đó là con! Con là nguyên do của tất cả, con đã phá vỡ đời bạn con.
Sau đấy con biết rằng bạn Henri của con đã bế con trên tay, lúc bấy giờ dở sống dở chết, suốt từ Pampelune đến tận ngôi nhà hẻo lánh này. Mệt quá, bạn con đã vào nhà xin được ở nhờ. Đó là những người nghèo. Họ đã nhường cho bạn con căn phòng này, nơi chúng con đang ở. Henri đang định đi nằm trên một tấm đệm rơm tự chuẩn bị lấy, thì nghe thấy những tiếng ngựa phi trên cánh đồng. Tiếng ngựa dừng lại trước cửa ngôi nhà cách biệt. Henri đoán ngay rằng mình sẽ phải gác giấc ngủ lại sang một đêm khác. Thay vì đi ngủ, bạn con mở cửa thật khẽ và đi xuống vài bậc thang.
Bọn họ đang nói chuyện trong phòng dưới.
Người chủ trại ăn mặc rách rưới nói: - Tôi là một chính nhân quân tử và tôi sẽ không giao nộp những người khách của tôi.
Henri nghe thấy tiếng một nắm vàng được ném lên bàn. Chủ trại - người chính nhân quân tử - há hốc mồm. Một giọng nói mà bạn con nhận ra, ra lệnh: - Vào việc đi, và làm nhanh lên! Henri nhanh chóng lùi lại và đóng thật kỹ cửa. Các cành của hai cây sồi bần cao lòa xòa ngay ngoài ô cửa sổ không kính. Có một vườn cây nhỏ gần bên một hàng rào thấp. Sau đồng cỏ, rồi đến sông Arga, mặt trăng ló rạng qua các cành cây.
Henri mở khung cửa sổ đúng lúc chúng con lại nghe thấy tiếng bước chân dưới cầu thang.
Con bám vào các cành của cây sồi bần, trong khi bạn con lao ra cửa.
- Khi con xuống được dưới kia, - bạn con nói thêm, - con hãy ném một hòn sỏi vào căn buồng để làm hiệu. Sau đó, con hãy chạy dọc theo hàng rào ra tới bờ sông.
Con nghe theo. Xuống tới nơi, con nhặt một hòn sỏi và ném vào qua ô cửa sổ. Ngay sau đấy con nghe thấy một tiếng kêu tắc nghẹn ở tầng trên. Tiếng kêu đó khiến con rụng rời chân tay; con đứng như trời trồng. Hai tiếng súng vang lên. Bạn con nhảy phắt xuống, gần ngay bên con.
- A! Con gái khốn khổ! - bạn con nói khi nhìn thấy con, - ta cứ tưởng con đã thoát rồi! Bọn chúng sẽ bắn đấy.
Bạn con bế thốc con lên. Nhiều tiếng súng vang lên bên ô cửa. Con cảm thấy bạn con quằn người lại.
- Cha bị thương sao? - Con thốt lên..Lúc ấy bọn con đang ở giữa vườn. Bạn con dừng lại giữa ánh trăng, và quay ngực về phía bọn cướp đang nạp lại đạn bên ô cửa, bạn con hét lên hai lần liền: - Lagardère! Lagardère! Rồi bạn con băng theo hàng rào chạy ra sông.
Bọn chúng đuổi theo chúng con.
Bạn con chạy về phía ngôi nhà của gã chủ trại đã phản bội chúng con. Hai vợ chồng đang cười nói ở phòng dưới, giữa họ là một lò ấp ấm cúng. Hạ gục người đàn ông và trói gô gã lại cùng với mụ vợ đối với Henri chỉ là một công việc chớp nhoáng.
- Im đi, - bạn con bảo họ, - vì họ cứ tưởng sắp bị giết đến nơi nên gào khóc thảm thiết.
- Đã từng có thời ta sẵn sàng đốt phăng cái ổ chuột của các người, vì các người thực đáng bị thế lắm. Nhưng ta sẽ chẳng làm hại các người.
Đây là vị thiên thần đã bảo vệ cho các người! Bạn con đưa tay vuốt ve mái tóc mềm mại của con. Con muốn giúp bạn con băng vết thương. Bạn con bị thương ở lưng và máu chảy ra xối xả.
Bạn con nói: - Ta không còn đau nữa, con đã chữa lành cho ta! Lão chủ trại và mụ vợ không còn động đậy như thể đã chết rồi. Henri lên trên phòng rồi xuống ngay cùng với bọc hành lý nhỏ của chúng con. Khoảng ba giờ đêm, chúng con rời khỏi ngôi nhà, cưỡi trên một con la già mà Henri lấy trong chuồng ra, không quên ném lên bàn hai đồng tiền vàng để trả cho nó. Khi ra đi, bạn con nói với người chồng và mụ vợ: - Nếu bọn chúng quay lại, hãy chuyển tới chúng lời hỏi thăm của hiệp sĩ de Lagardère và bảo chúng thế này: "Chúa và Đức Mẹ Đồng Trinh sẽ che chở cho đứa trẻ mồ côi. Lúc này, Lagardère chưa rảnh tay xử lý chúng, nhưng rồi sẽ đến lúc!".
Chúng con lại lên đường để xa rời vĩnh viễn vùng biên giới nước Pháp và đi sâu vào Tây Ban Nha. Một hôm, đang trên đường đi Salamanque thì đêm đến. Đấy là cái đêm mà, thưa mẹ, chúng con đã gặp Flor bé nhỏ của con, cô gái bôhêmiêng thân thiết của con, người bạn gái đầu tiên và duy nhất của con. Con đường vượt qua một cái vực. ở ngay bên miệng vực có một đứa trẻ đang ngủ. Con nhìn thấy cô bé trước, và yêu cầu Henri dừng la lại. Con nhảy xuống đất, đến quỳ bên đứa trẻ. Đó là một đứa trẻ bôhêmiêng trạc tuổi con, và xinh xắn! Con không hiểu tại sao con muốn ôm hôn cô bé ngay. Nụ hôn của.con đã đánh thức cô bé dậy. Cô bé hôn đáp trả con và mỉm cười, nhưng khi nhìn thấy Henri thì hoảng sợ.
- Đừng sợ, - con nói, - đó là người bạn tốt của tôi, người cha yêu quý của tôi, bạn tôi sẽ yêu cô, vì tôi cũng đã yêu cô. Cô tên là gì? - Flor, còn chị? - Aurore.
Cô bé lại cười. Henri gọi chúng con. Cô bé đặt tay lên ngực và bỗng thốt lên: - ôi! Tôi đói.
Và con thấy mặt cô bé tái mét. Con ôm cô bé vào lòng. Henri cũng xuống la. Flor bảo với chúng con rằng cô đã không được ăn gì từ sáng hôm qua. Henri có một ít bánh mì, liền đưa cho cô bé cùng với chút rượu vang xêret còn lại dưới đáy bình. Cô bé ăn ngấu nghiến. Khi uống xong, cô bé nhìn vào mặt Henri, rồi nhìn sang con: - Ngài và chị không giống nhau, - cô thì thầm. - Tại sao cháu không có ai để yêu cơ chứ? Cô khẽ đặt môi lên tay Henri và nói thêm: - Cám ơn, hiệp sĩ, ngài thực tốt mà lại đẹp nữa. Cháu xin ngài, đừng để cháu lại ban đêm trên đường.
Henri lưỡng lự, người bôhêmiêng là những kẻ nguy hiểm và ranh mãnh. Đứa trẻ bị bỏ lại biết đâu không là một cái bẫy. Nhưng con cứ nói mãi và một mực đòi nên cuối cùng Henri buộc phải đồng ý đem theo cô bé bôhêmiêng. Trên đường, Flor đã kể cho chúng con về cuộc đời cô.
Chúng con đi, cưỡi trên cùng một con la, người này bám vào người kia và nói huyên thuyên suốt dọc đường. Cô bé rất mến con, và con cũng coi cô ấy như em.
Cuối cùng chúng con tới thủ đô Tây Ban Nha.
Con rất sung sướng, vì bạn con đã chấp thuận để cho Flor ở lại với chúng con. Henri bảo con: - Aurore bé nhỏ của ta, con sẽ có một đứa em.
Mọi việc diễn ra thật tốt đẹp trong vòng một tháng. Flor muốn được giáo huấn về đạo Cơ đốc.
Cô ấy đã được rửa tội ở tu viện Incarnation và làm lễ ban thánh thể đầu tiên cùng với con ở nhà thờ riêng của trẻ vị thành niên. Một buổi sáng đẹp trời, chúng con lại thấy cô ấy mặc bộ quần áo bôhêmiêng cũ. Henri cười bảo cô bé: - Con chim xinh xắn, cháu đã chậm trễ bay đi rồi đấy.
Khi Flor ôm hôn con, cô ấy cũng đầm đìa nước mắt, nhưng ý nguyện ở cô ấy còn mạnh hơn. Chao ơi! Buổi tối, con thấy cô ấy trên quảng trường Santa giữa một nhóm người cùng bộ tộc.
Cô ấy nhảy theo tiếng đệm của một cái trống xứ Basque, trước khi xem hậu vận cho những khách qua đường. Chúng con không còn bị thiếu thốn nữa.
Henri đã mau chóng đứng vào hàng những người dạy kiếm thuật hàng đầu ở Mađrit. Đó là một thời kỳ êm đềm và hạnh phúc. Sáng sáng Flor đến. Chúng con chuyện trò. Cô ấy tiếc không được ở bên con nữa, nhưng khi con bảo cô ấy trở về với cuộc sống ngày nào của chúng con, cô ấy lảng tránh bằng cách chỉ cười.
Một hôm, Henri nói với con: - Aurore, cô bé này không phải là người bạn mà con cần.
Con không biết là đã có chuyện gì, nhưng Flor ngày càng đến thưa dần. Chúng con cảm thấy lạnh nhạt khi ở bên nhau.
Rồi Henri ra đi, để lại con một mình và suốt một thời gian dài con không gặp bạn con. Mà con thì, trước đấy, sáng sáng vẫn thức dậy bởi nụ hôn người cha của bạn con! Khi con nghĩ đến khoảng thời gian hai năm ấy, nó dường như dài hơn tất cả phần còn lại của đời con. Con biết rằng Henri đã dành dụm được một món nhỏ để thực hiện một chuyến đi, bạn con cần phải tới Đức và Italia. Chỉ nước Pháp là khép lại trước bạn con, và con không biết tại sao. Mục đích của những chuyến đi đó cũng là một bí ẩn lớn đối với con. Một hôm sau khi bạn con, theo như thói quen, ra đi từ sáng sớm, con vào phòng bạn con để dọn dẹp. Trên bàn viết, có một gói giấy đựng trong một phong bì đã ngả vàng vì thời gian. Chiếc phong bì có đính hai con dấu gia huy giống nhau, trên đề một chữ Latinh như là câu châm ngôn: Adsum. Con nhờ thầy giáo giải thích từ đó thì được thầy trả lời: Có ta đây! Trong phong bì còn có một con dấu thứ ba, nó dường như thuộc về một nhà thờ nào đó. Con đã có lần thấy những tờ giấy ấy. Hôm chúng con từ Pam-pelune thoát ra tới bờ sông Arga, Henri quay lại trang trại chính là để lấy lại cái gói giấy quý giá này. Khi bạn con bình an trở lại, mặt bạn con rạng rỡ vui mừng. Con vẫn còn nhớ tất cả chuyện đó.
Ngoài gói giấy mà ngoài phong bì không đề một chữ nào, còn có một danh sách gì đó mới được ghi. Danh sách không cho con biết gì hơn ngoài các tên người và nơi ở. Con không biết bất cứ ai trong số những tên ấy. Chắc chắn đó là những người mà Henri cần phải gặp trong chuyến đi. Bản danh sách được kê như sau:
1. Đại úy Lorrain - Naples.
2. Staupitz -Nuremberg.
3. - Pinto - Turin.
4. El Matador -Glasgow.
5. Joel de Jugan - Morlaix.
6. Faenza -Paris.
7. Saldagne - Paris.
Rồi còn hai số nữa không có tên đằng sau: số 8 và số 9.
Hai năm sau, khi Henri trở về sau chuyến đi, con đọc lại danh sách. Nhiều tên trong đó.đã được xóa, chắc chắn đó là những người mà bạn con đã tìm gặp được. Ngược lại, có hai cái tên mới điền vào các khoảng trống. Số 8 mang tên Peyrolles; số 9, tên của Gonzague, cả hai đều ở Paris.
... Con đã sống hai năm không gặp lại bạn con, thưa mẹ. Con vào ở trong tu viện Incarna-tion.
Các xơ rất tốt với con, nhưng các bà không thể an ủi được con. Niềm vui của con đã bay theo bạn con. Con không còn biết hát, biết cười.
ại! Nhưng khi bạn con về, nỗi khổ tâm của con mới được đền đáp làm sao. Sau cái hôn đầu tiên, bạn con nhìn con, và con thật ngạc nhiên trước nét mặt bạn con.
- Tiểu thư đã là một người lớn rồi, Aurore, - bạn con nói, - và ta không ngờ lại thấy tiểu thư xinh đẹp như thế.
Ngay hôm ấy con ra khỏi tu viện Incarnation, và chúng con trở về chỗ ở cũ. Mọi cái đã thay đổi nhiều. Chúng con không thể sống riêng với nhau nữa, Henri và con, vì con đã là một cô gái.
ở nhà con thấy một bà già dễ ưa, bà Fran § oise Berrichon, và cháu bà là Jean-Marie. Bà Fran § oise nói khi thấy con: - Tiểu thư giống bà quá! Con giống ai? Chắc chắn là có những điều con không được biết, vì mọi người nhất mực tỏ ra kín đáo đối với con. Con nghĩ ngay rằng, và ý nghĩ này ngày càng được củng cố trong con kể từ đấy, Fran § oise Berrichon là một người hầu cũ nào đó của gia đình con.
Bạn con đã thay đổi. Cung cách của bạn con không còn như trước nữa. Con luôn thấy bạn con lạnh lùng, và đôi khi rất buồn. Dường như từ lúc nào đó đã có một bức tường ngăn cách giữa chúng con.
Con đoán hẳn là bạn con đau khổ và bạn con tìm sự an ủi trong công việc. Mọi người từ khắp nơi tìm đến xin bạn con giúp đỡ. Chúng con sống khá giả, gần như là phong lưu. Những người bán vũ khí ở Mađrit, có thể nói, bán đấu giá các khí giới của Cincelador.
Nhiều tháng trôi qua.
Henri nhận được một bức thư nặng mang dấu nước Pháp. Ngày hôm sau, chúng con khởi hành đi Paris. Chúng con tới nơi khi đã tối mịt.
Con ngồi trên ghế xe cùng với Fran § oise. Henri cưỡi ngựa đi trước chúng con. Chúng con đi xuôi theo một phố dài, có nhiều nhà cao và tối sẫm, sau đó tiến vào một phố nhỏ hẹp dẫn tới trước một nhà thờ, xung quanh là một nghĩa địa. Bấy giờ con mới biết đó là nhà thờ và nghĩa địa Saint-Magloire.
Đối diện là một dinh thự đầy vẻ ngạo.mạn và vương giả, dinh thự de Gonzague. Vài phút sau, chúng con vào ngôi nhà nơi mà con đang viết những dòng này cho mẹ đây, mẹ yêu quý của con. Henri đã thuê ngôi nhà từ trước,.
Từ khi con bước qua ngưỡng cửa, con không hề ra khỏi nhà. Con ở đây, cô đơn hơn bao giờ hết, vì Henri có nhiều việc ở Paris hơn cả những nơi khác. Thi thoảng con mới gặp bạn con vào giờ ăn. Bạn con cấm con ra ngoài. Con cần phải cẩn thận khi ngồi bên cửa sổ.
Nếu như Henri lạnh nhạt với con từ bấy lâu, thì có nên kết tội bạn con về chuyện ấy không? Con đồ rằng dòng dõi của con cao hơn của bạn con, và có thể tài sản cũng thế. Điều đó khiến bạn con xa lánh con. Bạn con e sợ yêu con. ôi! Nếu con biết chắc là thế, con sẽ từ bỏ ngay tài sản của mình, con sẽ giẫm đạp lên danh hiệu quý tộc của mình! Lợi thế do sinh ra thì có là gì so với niềm vui do trái tim đem lại? ... Cách đây hai hôm, gã gù đến gặp con.
Nhưng mà con vẫn chưa kể với mẹ về cái kẻ dị dạng bí ẩn này, người duy nhất có thể ra vào chốn ẩn cư của chúng con. Gã gù này đến chỗ chúng con, nghĩa là đến với Henri, vào bất cứ lúc nào, trong căn phòng ở tầng hai. Chúng con nhìn thấy gã vào nhà và đi ra. Những người hàng phố xem gã như một thứ yêu tinh. Không bao giờ người ta thấy Henri và gã gù cùng với nhau, mà họ thì không rời được nhau! Đó là lời của những bà ngồi lê đôi mách ở phố Chantre. Thực tế, chưa bao giờ có mối quan hệ nào lạ lùng và bí ẩn hơn thế. Ngay cả chúng con, con muốn nói là Fran § oise, Jean-Marie và con, chúng con không bao giờ thấy hai con người không thể chia cắt này ở bên nhau. Họ giam mình hàng ngày liền trong căn phòng ở tầng trên, rồi một trong hai người ra đi, trong khi người kia ở lại canh giữ không biết kho báu lạ lùng nào nữa. Cứ thế kéo dài đã mười lăm ngày nay kể từ khi chúng con đến, và mặc dù Henri đã hứa hẹn, con vẫn không biết được gì hơn so với lúc ban đầu.
Thôi mẹ nhé, trời đã tối, con rời bút và nhắm mắt lại để ngắm khuôn mặt mẹ hiền trong giấc mơ của con. Hãy đến với con, mẹ vô vàn yêu quý, hãy đến với con!...
Đó là những lời cuối cùng trong cuốn sổ của Aurore. Nàng yêu chúng, những trang viết ấy, người bạn đường tốt nhất của nàng. Cất chúng lại trong chiếc hộp, nàng nói: - Mai nhé!.
|
|
|