Cái mũi thần tình Cưu Ma Trí nghe Đoàn Dự ngâm thơ, cười lạt nói:
- Chết đến gáy mà mi vẫn còn khoái lắm nhỉ. Vài bữa nữa rồi xuống âm
cung mà ngâm thơ vịnh phú với Diêm Vương.
Đoàn Dự cười nói:
- Thiên hạ ai là người không chết? Mi sống thêm mấy năm nữa có hơn ai
được cái gì không?
Cưu Ma Trí không nói nữa, quay ra hỏi thăm những người qua đường Tham
Hợp trang ở đâu. Lão hỏi đến bảy tám người mà chẳng ai biết. Sau có ông
già bảo:
- Thành Cô Tô không có đâu là Tham Hợp trang cả. Có lẽ hoà thượng nghe
lầm chăng?
Cưu Ma Trí lại hỏi:
- Lão trượng có biết đại trang chúa người họ Mộ Dung ở đâu không?
Ông già đáp:
- Trong thành Tô Châu này chỉ có họ Cố, họ Lục, họ Trương, họ Chu, họ
Văn... làm gì có đại trang chúa cùng Mộ Dung? Tôi chưa thấy ai nói đến
cả.
Cưu Ma Trí chưa biết tìm cách nào để hỏi cho ra địa chỉ Mộ Dung tiên sinh,
chợt nghe tiếng một người đang đi trên còn đường nhỏ về phía tây nói: tôi
nghe nói họ Mộ Dung ngụ ở ngoài thành, đi về phía tây chừng 30 dặm, chỗ
đó gọi là Yến Tử ổ. Chúng ta tới đó xem sao?
Rồi lại có tiếng người khác gạt đi:
- Thôi! Đây đã đến địa đầu rồi. Ta phải cẩn thận mới được.
Hai người nói rất khẽ, Đoàn Dự không nghe thấy chi cả Cưu Ma Trí vì tuyệt
giỏi nội công mới nghe rõ. Lão nghĩ thầm: phải chăng hai người này chủ
tâm nói cho ta nghe tiếng?
Cưu Ma Trí đưa mắt nhìn về phía vừa phát ra tiếng nói thì thấy một người
khí vụ hiên ngang, vận đồ tang phục còn một người thấp lủn thủn và gầy
đét, trông chẳng khác chi ác quỷ hung thần. Cưu Ma Trí biết ngay người đó
có võ công đáng kể. Lão còn đang suy nghĩ có nên cùng bọn này bắt
chuyện không bỗng Đoàn Dự lên tiếng gọi to:
- Hoắc tiên sinh! Hoắc tiên sinh đi đâu đấy?
Nguyên người thấp lủn thủn, hình dung cổ quái đó chính là Kim Toán bàn
Thôi Bách Kế và sư điệt ông là Truy hồn thủ Quá Ngạn Chi. Hai người sau
khi từ biệt Trấn Nam Vương phủ nước Đại Lý ra đi, quyết tâm báo thù cho
Kha Bách Tuế. Mặc dầu họ biết rõ khó có thể địch lại nhà Mộ Dung, mối
thù không đội trời chung vị tất đã trả được nhưng là những người nghĩa
dũng, họ can đảm tìm đến Cô Tô. Công việc đầu tiên của hai người là thám
thính họ Mộ Dung ngụ tại Yến Tử ổ, đang đi trên đường thì gặp Cưu Ma Trí
cùng Đoàn Dự. Thôi Bách Kế chợt nghe tiếng Đoàn Dự gọi rất đỗi ngạc
nhiên nhảy ngay đến trước mặt Cưu Ma Trí hỏi:
- Tiểu Vương gia đó ? Ô kìa đại hoà thượng! Xin buông ngay công tử
xuống cho! Hoà thượng có biết công tử là ai đó không?
Thực ra Cưu Ma Trí chẳng coi hai người vào đâu nhưng lão nghĩ rằng từ lúc
chưa đến Trung Nguyên mình đã biết khó lòng tìm ra chỗ ở của Mộ Dung
tiên sinh. Nay có bọn này dẫn lối cho kể cũng là một dịp may cho mình bèn
buông Đoàn Dự xuống, để chàng đứng vững rồi giải các huyệt đạo ở hai
chân chàng, đoạn quay lại bảo hai người:
- Tôi cũng đến chỗ Mộ Dung tiên sinh đây. Phiền hai vị dẫn đường cho!
Thôi Bách Kế tuy là người lịch duyệt giang hồ, biết nhiều hiểu rộng mà
chưa đoán ra lai lịch nhà sư này, bèn hỏi:
- Xin hỏi đại sư chúng tôi xưng hô với đại sư thế nào cho phải? sao đại sư
lại làm khó dễ với tiểu Vương gia họ Đoàn như vậy? Đại sư lên phủ Mộ
Dung có việc gì?
Cưu Ma Trí đáp lộc cộc:
- Bất tất phải hỏi nhiều, tới nơi sẽ biết!
Thôi Bách Kế lại hỏi:
- Phải chăng đại sư là chỗ bạn thân với nhà Mộ Dung?
Cưu Ma Trí đáp:
- Phải! Mộ Dung tiên sinh ở Tham Hợp trang, không biết đi về ngả nào?
Hoắc tiên sinh có biết thì chỉ dùm cho!
Lão thấy Đoàn Dự gọi Thôi Bách Kế là Hoắc tiên sinh cũng tưởng y là
Hoắc thật mặc dầu lão trí mưu hơn người nhưng cũng chưa hiểu lý do.
Thôi Bách Kế bóp trán suy nghĩ rồi hỏi Đoàn Dự:
- Tiểu vương gia! Bây giờ Tiểu Vương gia tính sao đây?
Câu hỏi này khiến cho Đoàn Dự phải chưng hửng. Chàng nghĩ thầm: "Cưu
Ma Trí võ công ghê gớm, trên đời này sợ không ai địch nổi. Bọn Thôi, Quá
tất nhiên so với lão không thấm vào đâu. Nếu hai người này lại cố ý cứu
mình thì chẳng những không ăn thua gì mà chết uổng hai mạng". Nghĩ vậy
chàng dùng lời cảnh cáo để bọn họ biết đường cao chạy xa bay là hơn chàng
nói:
- Vị đại sư đây một mình mà đánh bại bá phụ tôi cùng năm tay cao thủ nước
Đại Lý, bắt tôi đem đến đây. Nguyên đại sư là bạn cố tri với Mộ Dung tiên
sinh, nay đại sư đưa tôi đến hoả thiêu trước mồ Mộ Dung tiên sinh để tế
vong hồn người bạn quá cố. Tôi tưởng hai vị không có dính líu gì đến nhà
Mộ Dung thì nên chỉ đường cho đại sư rồi về đi là hơn.
Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi nghe lão đại sư này đánh bại Bảo Định
Đế cùng bọn cao thủ nước Đại Lý quả nhiên chột dạ, khi nghe lão là bạn
với bọn Mộ Dung thì lại càng khiếp sợ. Thôi Bách Kế tuy mặt mũi xấu xa,
hình dung cổ quái nhưng có nghĩa khí hào hiệp nghĩ thầm: "mình đã ẩn thân
tại phủ Trấn Nam Vương mười mấy năm trời chưa từng báo đáp ơn sâu.
Nay tiểu vương gia gặp nạn có lý đâu mình tự thủ bàng quan được? Hơn nữa
mình đã tìm vào Cô Tô thì cái mạng này coi có cũng như không, bất luận
chết dưới lưỡi đao của kẻ địch hay chết bới tay người khác cũng thế thôi".
Nghĩ vậy Thôi liền thò tay vào bọc lấy ra một cái bàn tính bằng hoàng kim
sáng rực, giơ cao lên, lắc cho nó kêu loảng xoảng rồi bảo Cưu Ma Trí:
- Này này đại hoà thượng! Đại hoà thượng là bạn thân với Mộ Dung tiên
sinh thì tiểu vương gia đây cũng là hảo hữu của tôi, đại hoà thượng nên
buông tha tiểu vương gia ra!
Thôi Bách Kế chưa nói dứt câu Cưu Ma Trí đã vươn tay ra giựt được cây
nhuyễn tiên của Quá Ngạn Chi đang cầm, rồi thuận tay lão quăng nhuyễn
tiên quấn lấy bàn tính ở trong tay Thôi Bách Kế. Hai binh khí chạm vào
nhau, rời khỏi tay người cầm, bay tung ra rớt xuống hồ. Ai nấy đều nhìn
thấy cặp khí giới quý báu này sắp chìm xuống đáy hồ. Không ngờ đà kình
lực Cưu Ma Trí xử khéo làm sao, một đầu cây nhuyễn tiên văng lại, mắc
vào một cành liễu trên mặt hồ.
Quá Ngạn Chi ngoại hiệu là "truy hồn thủ" ra tay cực kỳ mau lẹ, sử dụng
cây nhuyễn tiên lại là một môn tuyệt kỹ của chàng vậy mà chưa đánh xong
một đòn đã bị Cưu Ma Trí giật rời khỏi tay. Mấy cử động của Cưu Ma Trí:
nào xích lại gần, nào vươn tay giật roi nhuyễn tiên, nào vẫy roi cuốn lấy bàn
tính, nào lui về chỗ cũ lẹ đến nỗi cả Thôi Bách Kế lẫn Quá Ngạn Chi hai
người cũng không trông rõ nữa.
Cưu Ma Trí chắp hai tay để trước ngực, nét mặt vẫn thản nhiên như không
có chuyện gì xảy ra nói:
- Phiền đại giá hai vị dẫn đường cho!
Thôi, Quá hai người ngơ ngác nhìn nhau, không biết làm thế nào. Cưu Ma
Trí lại nói tiếp:
- Nếu hai vị không dẫn đường thì xin chỉ nẻo cho biết Yến Tử ổ, Tham Hợp
trang đi về ngả nào, đường lối ra sao, để tiểu tăng tự đi đến nơi cũng được.
Thôi, Quá hai người thấy võ công lão vô cùng lợi hại mà vẻ mặt lại khiêm
tôn, ôn hoà là thế muốn trở mặt không được mà không trở mặt không xong.
Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng rạt rào, trên mặt hồ nước biếc một con
thuyền nhỏ đang rẽ nước lướt tới. Trên thuyền một thiếu nữ áo xanh cầm
đôi mái chèo khuấy nước cho thuyền chạy, miệng cô đang ca khúc "Hạm
thiều hương". Giọng hát dịu dàng không có vẻ lả lơi khiến người nghe cũng
cảm thấy nỗi vui mừng.
Đoàn Dự ở nước Đại Lý từng đọc văn chương thơ phú của cổ nhân, tán tụng
phong cảnh nhân vật Giang Nam. Nay chàng được nghe khúc hát này tâm
hồn bất giác say sa như lạc vào cõi mộng. Quên mình đang đứng trước
hoàn cảnh hiểm nghèo quay ra nhìn thiếu nữ. Tay nàng nhỏ nhắn, nước da
trắng mịn ánh xuống hồ nước xanh biếc và trong leo lẻo.
Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi tuy đứng trước mặt kẻ địch ghê gớm cũng
không khỏi đưa mắt nhìn cô gái mấy lần. Chỉ mình Cưu Ma Trí là tựa hồ
như không trông thấy hay không nghe thấy gì mà thôi. Lão nói:
- Nếu hai vị không chịu chỉ Tham Hợp trang cho thì tiểu tăng xin cáo từ.
Lúc đó thiếu nữ đã chèo thuyền đến gần bờ. Nàng nghe Cưu Ma Trí nói vậy
liền cất tiếng:
- Chẳng hay đại hoà thượng đến Tham Hợp trang có việc gì?
Giọng nàng cực kỳ thanh tao êm ái khiến ai nghe cũng lọt tai. Thiếu nữ mới
chừng 15, 16 tuổi, nét mặt ôn nhu, con người thanh tú. Đoàn Dự nghĩ thầm:
"các cô gái ở Giang Nam có tiếng là xinh đẹp tưởng cũng đến thế này mà
thôi".
Cưu Ma Trí hỏi:
- Tiểu tăng muốn đến Tham Hợp trang. Tiểu nương tử có thể trỏ đường lối
cho tiểu tăng được không?
Thiếu nữ mỉm cười hỏi lại:
- Cái tên Tham Hợp trang người ngoài không ai biết đến. Đại sư nghe đâu
mà biết?
Cưu Ma Trí đáp:
- Tiểu tăng là bạn phương xa với Mộ Dung tiên sinh. Hôm nay đến tế mộ
tiên sinh cho vẹn lời ước năm xưa.
Thiếu nữ trầm ngâm rồi nói:
- Nếu vậy không may cho đại sư rồi! Hôm kia Mộ Dung công tử mới ra đi.
Giả tỷ đại sư đến đây trước ba hôm thì được gặp.
Cưu Ma Trí nói:
- Tiểu tăng thật vô duyên cùng công tử nghĩ cũng đáng buồn. Song tiểu tăng
từ nước Thổ Phồn, đường xa muôn dặm, lặn lội về đến Trung Nguyên chỉ
mong được tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh lạy một lạy cho chọn nghĩa xưa.
Thiếu nữ nói:
- Nếu đại sư đã là chỗ giao hữu cùng Mộ Dung tiên sinh thì xin mời đại sư
hãy vào dùng trà để cháu sẽ vào báo trang nên chăng?
Cưu Ma Trí hỏi lại:
- Tiểu nương tử là người thế nào trong phủ công tử? Xưng hô sao cho phải
phép?
Thiếu nữ mỉm cười đáp:
- Cháu là kẻ nữ tỳ chầu chực công tử trong cung đàn tiếng sáo tên gọi A
Bích. Xin đại sư miễn khách sáo và đừng kêu bằng đại nương tử tiểu nương
tử chi hết. Cứ gọi thẳng tên A Bích cho tiện.
Đoạn nàng tiếp:
- Từ đây vào Yến tử ổ toàn là đường thuỷ. Quý vị có muốn vào thì xuống
thuyền để tiểu nữ chở đi.
Cưu Ma Trí cám ơn rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền,
thuyền chỉ đầm xuống một chút chứ không tròng trành.
A Bích nhìn Cưu Ma Trí và Đoàn Dự mỉm cười tựa hồ thán phục võ công
của hai người.
Quá Ngạn Chi khẽ hỏi Thôi Bách Kế:
- Sư thúc tính sao bây giờ?
Hai người cốt tìm đến nhà Mộ Dung để báo thù nhnưg chưa tới nơi đã xẩy
ra mấy vụ rùng rợn vẫn còn nơm nớp lo âu.
A Bích tươi cười nói:
- Hai vị đã đến Tô Châu nếu không có việc gì gấp xin mời vào tệ xá xơi
nước. Cái thuyền này tuy nhỏ nhưng hai vị xuống nữa cũng được.
Nàng vừa nói vừa ghé thuyền vào bên cây liễu, giơ bàn tay xinh xắn ra với
lấy cây bàn tính, tiện tay nàng gẩy bàn tính lách cách.
Đoàn Dự nghe vui tai buột miệng nói:
- Cô gẩy khúc thái tang tử phải không?
A Bích mỉm cười nói:
- Công tử tinh thông âm nhạc gẩy chơi một khúc đi!
Đoàn Dự thấy nàng ăn nói tự nhiên, tính tình khả ái cười đáp:
- Tôi không biết gẩy đàn bằng bàn tính.
Rồi chàng quay lại bảo Thôi Bách Kế:
- Hoắc tiên sinh! Cái bàn tính của tiên sinh mà cô nương đây gẩy nghe cũng
vui tai đấy chứ?
Thôi Bách Kế cười hềnh hệch đáp:
- Quả vậy! Hay lắm! Cô nương thực là người tao nhã. Cái đồ vật phàm tục
dùng làm sinh kế vào tay cô nương cũng thành ra nhạc khí được.
- Trời ơi! ghê quá! Của tiên sinh đấy ? Bàn tính gì mà đẹp quá vậy? Chắc
tiên sinh giàu có lắm, cái bàn tính cũng đúc bằng vàng ruột. Tôi xin trả tiên
sinh đây!
Nàng vừa nói vừa cầm bàn tính giơ lên. Thôi Bách Kế đứng trên bờ không
với tới, lẹ làng nhảy xuống thuyền, đưa tay ra với lấy bàn tính rồi quay đầu
lại trừng mắt nhìn Cưu Ma Trí một cái. Cưu Ma Trí thuỷ chung vẫn giữ bộ
mặt tươi cười vui vẻ, tuyệt không lộ vẻ gì tức giận cả. A Bích lại đưa tay trái
ra lượm cây nhuyễn tiên, năm ngón tay nàng cũng bật cũng gõ vào cây roi
thành những âm thanh trong trẻo vang dội như kiểu gẩy đàn tỳ bà. Thì ra cả
đến những binh khí của các bậc anh hùng hào kiệt vào tay nàng cũng thành
nhạc khí cả.
Đoàn Dự lại reo lên:
- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Cô nương gảy khúc nữa đi!
A Bích trông lên Quá Ngạn Chi hỏi:
- Cây nhuyễn tiên của tiên sinh phải không? tôi đem ra nghịch thực vô lễ
quá. Tiên sinh xuống thuyền đi rồi tôi hái cho tiên sinh mấy trái hồng lăng.
Quá Ngạn Chi nóng lòng báo cừu cho sư phụ chàng căm thù cả bè lũ nhà
Mộ Dung thấu xương nhưng thấy cô bé này xinh tươi, chất phác không có
vẻ gì là nham hiểm độc ác nên chàng tuy giận đầy ruột mà không dám phát
cáu. Chàng nghĩ thầm: "thị dẫn ta về nhà là có chuyện không hay đây. Thôi
được, nếp tẻ gì không cần, ta hãy vào giết mấy đứa cho hả giận đã". Nghĩ
vậy chàng gật đầu bước xuống thuyền.
A Bích trịnh trọng quấn cây nhuyễn tiên lại đưa cho Quá Ngạn Chi. Đoạn
thả mái chèo xuống nước, quay thuyền bơi về hướng tây.
Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau mấy lần. Hai người cùng
nghĩ bụng: "nay mình vào hang cọp, chưa biết sống chết ra sao. Bọn Mộ
Dung thủ đoạn ác độc vô cùng. Cô bé này xem ra tuy không phải là hạng
đóng kịch giả hiệu nhưng biết đâu chẳng là kế kiêu binh của chúng để mình
phóng tâm không đề phòng cho chúng dễ bề hạ thủ?". Thuyền đi vòng vèo
vài khúc quanh thì đến cái hồ lớn rộng bát ngát, mông mênh những nước
cùng trời. Quá Ngạn Chi chột dạ nghĩ thầm: "cái hồ này có lẽ là Thái Hồ
đây. Mình cùng Thôi sư thúc đều không quen bơi lội, thuyền chỉ lật đi một
cái thời mình đành làm mồi cho cá, còn đâu nữa mà báo cừu cho sư phụ?".
Thôi Bách Kế cũng tưởng đến chỗ đó tự nhủ: "giả tỷ mình cầm mái chèo
trong tay thì ả này có muốn lật thuyền cũng không phải dễ", liền nói:
- Cô nương! cô để tôi bơi thuyền đỡ một lúc. Cô cứ chỉ đường cho tôi là
được.
A Bích cười nói:
- Trời ơi! cháu đâu dám thế? Công tử mà biết ra sẽ trách phạt cháu về tội
khinh mạn tân khách.
Thôi Bách Kế thấy nàng không chịu lại càng ra dạ ngờ vực bèn xoay chiều:
- Thật ra không dám giấu gì cô nương. Xin cô nương cho chúng tôi nghe
thêm vài khúc đàn nhuyễn tiên tuyệt kỹ nữa.
A Bích cười nói:
- Tiên sinh dạy quá lời.
Thôi Bách Kế lấy cây nhuyễn tiên trong tay Quá Ngạn Chi đưa cho A Bích
miệng bảo nàng gẩy đàn, tay đưa ra đón lấy mái chèo.
A Bích nói:
- Tiên sinh cho tôi mượn cả cái bàn tính nữa.
Thôi Bách Kế ngấm ngầm nghĩ bụng: "ả thu cả khí giới của bọn mình, hay
là có âm mưu gì đây?". Nghĩ vậy thì nghĩ chứ không có cách nào từ chối
đành cầm bàn tính đưa cho nàng.
A Bích đặt bàn tính xuống tấm ván gỗ đầu thuyền ngay trước mặt. Tay trái
nàng giữ lấy chuôi nhuyễn tiên, chân phải dậm lên một đầu cho cây roi
dựng thẳng lên, năm ngón tay phải vừa bật vừa vê đi vuốt lại, cây nhuyễn
tiên phát ra tiếng leng keng, tuy không trong trẻo vang dội bằng tiếng đàn tỳ
bà nhưng nghe cũng thành nhạc điệu giòn dã, du dương. Năm ngón tay A
Bích vừa lần gẩy nhuyễn tiên vừa gẩy xen lẫn tiếng bàn tính kêu lách cách
tựa hồ tiếng sắt tiếng vàng chen nhau nghe càng thêm thú vị. Giữa lúc đó
đôi chim én lượn qua đầu thuyền, bay về hướng tây. Đoàn Dự nghĩ bụng:
chỗ Mộ Dung ở gọi là Yến Tử ổ chắc có nhiều chim én. Bỗng nghe A Bích
cất tiếng hát. Đoàn Dự nghe giọng hát du dương mà lòng những bâng
khuâng như say như tỉnh. Chàng lẩm bẩm một mình: "nếu mình suốt đời ở
tận nơi đèo heo hút gió thì làm sao nghe được những khúc tiên nhạc này?
Công tử Mộ Dung có những ả nữ tỳ tài tình thế này tất không phải hạng tầm
thường". A Bích ca hát một hồi rồi đưa trả bàn tính cùng nhuyễn tiên cho
Thôi, Quá và cười nói:
- Đàn hát kém quá, chỉ tổ làm trò cười cho quý khách. Xin Hoắc tiên sinh
quay mũi thuyền về mé tả, sắp đến nhà rồi.
Thôi Bách Kế lái mũi thuyền theo tay nàng trỏ, đi vào lạch nước đầy sen
mọc. Nếu không có A Bích trỏ nẻo thì không ai ngờ giữa chỗ lá sen chi chít
lại là lối thuyền đi. Thôi Bách Kế chèo một lúc nữa A Bích lại trỏ tay bảo:
- Đi vào nẻo trong kia!
Quãng này trên mặt nước toàn một giống hồng lăng. Nước biếc lá xanh,
phong cảnh tuyệt đẹp. A Bích đưa tay ra hái ít trái hồng lăng đa cho mọi
người. Đoàn Dự tuy hai tay đã cử động được nhưng từ sau khi bị điểm huyệt
không còn mảy may khí lực nào nữa, vỏ trái hồng lăng hơi rắn một chút mà
chàng không sao bóc được.
A Bích cười nói:
- Công tử không phải là người Giang Nam, không biết bóc vỏ hồng lăng, để
cháu bóc cho.
Nàng bóc luôn mấy trái đặt vào tay Đoàn Dự. Nhân cùng thịt trái này trắng
bóng và tinh khiết. Đoàn Dự cầm bỏ vào miệng ăn, vừa ngọt vừa thơm,
chàng cười bảo A Bích:
- Mùi vị của trái thuý hồng lăng này cũng ngon ngọt như khúc hát của cô
nương.
A Bích hai má ửng hồng cười nói:
- Đa tạ công tử. Đem điệu hát ví với trái hồng lăng, nay cháu mới nghe thấy
công tử nói là một.
Chưa đi hết lạch hồng lăng, A Bích lại trỏ tay cho thuyền đi ra ngả có lau
sậy rậm rạp. Đến khu này cả Cưu Ma Trí cũng phải lưu tâm nhớ lấy nẻo đi,
để đề phòng lúc về biết lối mà ra. Vì chỉ trông thấy toàn một mầu lá lau, lá
lăng, lá giao, lá sen rất khó phân biệt đường đi. Hơn nữa chỉ một cơn gió là
các thứ hoa trên mặt nước này bay qua, lướt lại, mất hết dấu vết, dù có nhận
xét kỹ càng nhưng thoáng cái cucï diện lại biến đổi khác đi. Cưu Ma Trí, Thôi
Bách Kế, Quá Ngạn Chi ba người đều để ý nhìn nhận phương pháp tìm nẻo
đi của A Bích, xem nàng lấy gì làm mục tiêu nhưng chỉ thấy nàng cứ điềm
nhiên hái trái hồng lăng mà chẳng cần để ý gì đến đường đi. Thuyền đến
chỗ quanh, chỗ rẽ là nàng thuận miệng chỉ bảo, tựa hồ những lối dọc ngang
trên mặt hồ nàng đã thuộc lòng, không cần để ý nhìn nhận nữa. Thuyền đi
ngang rẽ dọc không biết bao nhiêu chỗ vào khoảng giờ mùi thì xa xa giữa
rặng liễu xanh om lộ ra một mái nhà.
A Bích nói:
- Đến nơi rồi, hôm nay cháu làm nhọc sức Hoắc tiên sinh bơi thuyền đến
quá nửa ngày.
Nàng thấy Đoàn Dự gọi Thôi Bách Kế là Hoắc tiên sinh cũng tưởng ông ta
họ Hoắc. Thôi Bách Kế miệng cười méo mó đáp:
- Cứ được ăn hồng lăng, lại được nghe thanh ca, dù có phải bơi thuyền hàng
năm cũng không biết mỏi.
A Bích vỗ tay cười nói:
- Tiên sinh muốn ăn hồng lăng cùng nghe hát thì khó gì? Cứ ở cùng tụi trên
hồ này không ra nữa là được.
Thôi Bách Kế nghe A Bích nói: "cứ ở trên hồ này, không ra nữa" bất giác
thất kinh, đưa mắt nhìn hồi lâu thì chỉ thấy lúc nào nàng cũng tươi cười dễ
dãi, tuyệt không lộ vẻ con người tâm cơ xảo trá. Tuy nhiên Thôi vẫn không
vững dạ chút nào.
A Bích đón lấy mái chèo, gạt thuyền vào dưới bóng liễu, đến chỗ có cành
cây tùng rủ xuống mặt nước. Nàng vừa buộc thuyền vào cành cây xong,
chợt nghe tiếng một con chim nhỏ hót líu lo, giọng hót rất trong trẻo và
vang dội. A Bích cũng bắt chước giọng chim gáy lên vài tiếng rồi quay lại
bảo mọi người:
- Xin mời quý vị lên bờ.
Mọi người lên bờ trông vào thấy lưa thưa có bốn năm căn nhà nhỏ, dựng
trên một cái đảo nhỏ hay cái bán đảo thì đúng hơn. Các phòng ốc tuy bé
nhỏ nhưng rất sáng sủa, xinh xắn.
Cưu Ma Trí hỏi:
- Phải chăng đây là Tham Hợp trang trong yến tử ổ?
A Bích lắc đầu đáp:
- Không phải! chỗ này công tử dựng lên cho cháu ở, chật hẹp, quê mùa
không đáng để tiếp khách. Đại sư bảo vào tế mồ Mộ Dung tiên sinh, tôi đâu
dám tác chủ, chẳng qua thỉnh quý vị vào đây ngồi chờ, để cháu nói cho A
Châu tỷ nương hay.
Cưu Ma Trí có vẻ không bằng lòng, nét mặt lầm lỳ. Cưu Ma Trí là một vị
hộ quốc pháp vưng nước Thổ Phồn, địa vị cao sang là thế. Phi chỉ quốc
vương nước Thổ Phồn đem lòng kính trọng, mà sang đến triều đình nước
Đại Tống hay các nước Đại Lý, Liêu Quốc các vị vua chúa cũng tiếp đãi lão
vào hàng thượng khách. Huống chi lão là bạn cố tri với Mộ Dung tiên sinh,
vì tình nghĩa mà thân hành đến tế mộ. Công tử Mộ Dung vắng nhà không
biết đã đành còn những người ở nhà cũng không mời lão vào đại sảnh, tiếp
đãi long trọng, lại để cho con thị tỳ đưa vào nhà riêng, thực là đáng giận.
Nhưng lão thấy A Bích luôn miệng tươi cười, tuyệt không tỏ vẻ khinh mạn
thì nghĩ rằng: "Nó là con ăn con ở, có hiểu gì đâu mà mình đem đặt nó vào
địa vị người có kiến thức?". Nghĩ vậy lão trở lại nét mặt ôn hoà vui tươi.
Thôi Bách Kế hỏi:
- A Châu tỷ nương là ai?
A Bích cười đáp bằng một giọng ngây thơ:
- A Châu tỷ nương là A Châu tỷ nương! vì chị A Châu lớn hơn cháu một
tháng nên cháu kêu bằng A Châu tỷ nương chứ biết sao được? Ai bảo chị
lớn hơn cháu một tháng làm gì? Như tiên sinh thì cần gì phải gọi A Châu là
tỷ nương? nhưng nếu cứ gọi A Châu tỷ nương thì chị ta cũng khoái lắm.
Nàng nói liến láu một hồi, giọng nói trong trẻo như người tấu nhạc rồi dẫn
bốn người vào trong nhà. Đoàn Dự nhìn lên thấy trên cửa căn nhà nhỏ có
tấm biển viết hai chữ "cầm vân", nét chữ rất tốt. A Bích mời mọi người ngồi
chơi. Một lát có gã con trai bưng trà và bánh điểm tâm ra. Đoàn Dự vừa
cầm chén trà thì một mùi thơm ngát đưa lên mũi. Chàng thấy nước trà màu
xanh lạt, cánh trà mầu xanh biếc, nhỏ như hạt châu, trên mặt lá có lông nhỏ
li ti. Thứ trà này chàng chưa thấy bao giờ. Chàng vừa nhấp thử một hớp,
miệng đượm mùi thơm, lưỡi dơm dớp vị ngọt. Cưu Ma Trí và Thôi Bách Kế
thấy lá trà kỳ dị không dám uống. (Nguyên thứ trà này là đặc sản ở miền
phụ cận Thái Hồ, đời sau gọi là trà Bích La Xuân. Bấy giờ về đời Bắc Tống,
chưa có cái tên thanh nhã này.) Cưu Ma Trí ở khu Tây Vực và cư trú tại
miền rừng núi nước Thổ Phồn, chỉ quen uống trà sắc đen, vị chát, giờ thấy
thứ trà sắc xanh biếc, có lông ngờ là có chất độc.
Bốn thứ điểm tâm là mứt mai côi, bánh dẻo phục linh, bánh nướng Phi Thuỷ
và bột ngó sen. Thứ nào cũng chế rất công phu, tựa hồ như làm để bày cho
đẹp chứ không phải để ăn. Đoàn Dự khen nức nở rồi hỏi:
- Những món điểm tâm coi đẹp thế này mà bỏ vào miệng ăn đi thì uổng quá
phải không cô nương?
A Bích nói:
- Mời công tử dùng đi! Trong nhà hãy còn.
Đoàn Dự ăn đến đâu lại trầm trồ khen ngợi đến đó. Cưu Ma Trí và Thôi
Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi không dám ăn. Đoàn Dự thấy vậy trong lòng
sinh nghi tự hỏi: "Cưu Ma Trí tự xưng là bạn thân với Mộ Dung tiên sinh
vậy mà sao chỗ nào lão cũng gia tâm đề phòng? Nhà Mộ Dung đối đãi với
lão tựa hồ không có vẻ trịnh trọng là nghĩa gì?
Cưu Ma Trí thật là người rất nhẫn nại, lão đợi đến nửa ngày chờ sau khi
Đoàn Dự đã uống trà và ăn điểm tâm đủ thứ mới cất tiếng giục A Bích:
- Bây giờ xin cô nương đi mời A Châu cô nương đến cho!
A Bích cười đáp:
- Trại chị A Châu ở cách đây xa tới bốn chín đường thuỷ, bữa nay đi không
kịp mất rồi. Mời bốn vị hãy ở lại đây một đêm, sáng sớm mai cháu sẽ đưa
quý vị sang "thính hương tiểu trúc".
Thôi Bách Kế hỏi:
- Bốn chín đường thuỷ là nghĩa làm sao?
A Bích đáp:
- Một chín là 9 dặm, hai chín là 18 dặm, bốn chín là 36 dặm.
Nguyên một giải Giang Nam tính lộ trình từng 9 dặm một.
Cưu Ma Trí lại nói:
- Giá biết thế này thì cô nương đưa chúng tôi đến thẳng Thính hương tiểu
trúc có phải hay hơn không?
A Bích cười đáp:
- Cháu ở đây một mình không có ai trò chuyện, buồn chết đi được. Chẳng
mấy khi có quý khách đến chơi, thế nào cũng lưu quý vị ở lại đây một hôm.
Từ hồi nào tới giờ Quá Ngạn Chi chỉ ngồi lầm lỳ không nói câu gì, đột
nhiên đứng phắt dậy, quát hỏi:
- Thân nhân nhà Mộ Dung trú ngụ nơi đâu? Quá Ngạn Chi này đến Tham
Hợp trang không phải để ăn cơm, uống nước cũng không phải để gẫu
chuyện giải buồn cho ai đâu nhé. Ta đến để giết người báo thù, để đổ máu
cùng gây án mạng. Quá mỗ đã vào trong này, cô nương đi bảo chúng hay,
ta đây là đệ tử Kha Bách Tuế phái Tung Sơn đến đòi món nợ máu của sư
phụ ta.
Nói xong cầm cây nhuyễn tiên đập mạnh làm cho chiếc kỷ trà gỗ đàn hương
cùng cái ghế bằng thứ trúc Tương Phi gẫy ra từng mảnh.
A Bích không sợ hãi mà cũng không tức giận nàng nói:
- Các vị anh hùng hào kiệt đến chơi với Mộ Dung công tử mỗi tháng mấy
lần, cũng đã nhiều vị hùng hùng hổ hổ như Quá đại gia đây...
Nàng chưa dứt lời, chợt thấy một lão già nhỏ bé thấp lủn thủn, đầu tóc bạc
phơ chống gậy từ hậu đường đi ra hỏi:
- A Bích! Ai làm gì mà ầm lên thế?
Thôi Bách Kế đang ngồi ghế cũng nhảy vọt ra, đứng bên Quá Ngạn Chi
quát hỏi:
- Sư huynh ta là Kha Bách Tuế bị ai sát hại? Nói mau!
Đoàn Dự thấy lão già lưng còng, mặt mũi dăn deo chừng tám chín chục tuổi
nói ấp úng trong cổ họng:
- Kha Bách Tuế, Kha Bách Tuế ? đã thọ đến Bách Tuế thì chết là đáng đời
rồi còn gì?
Từ lúc Quá Ngạn Chi đến Tô Châu, tưởng đến thẳng nhà Mộ Dung chém
giết để báo thù cho ân sư nào ngờ gặp phải Cưu Ma Trí đoạt khí giới, mất
hết nhuệ khí, đang bực mình thì lại gặp A Bích, một cô gái rất hiền hoà khả
ái, bao nhiêu thù oán không phát tiết vào đâu được nên giờ vừa nghe lão già
ăn nói ỡm ờ, vô lễ liền vung roi nhằm hậu tâm lão quất xuống. Chàng sợ
Cưu Ma Trí ra tay can thiệp nên thấy Cưu ngồi đầu đằng tây liền giơ roi về
phía đông quất tới. Nào ngờ Cưu Ma Trí vươn tay ra, bàn tay lão tựa hồ có
đá nam châm, lão ngồi xa mà chụp được nhuyễn tiên nói:
- Quá đại hiệp! Chúng ta là khách phương xa đến, lấy lời lẽ dàn xếp với
nhau là hơn, hà tất phải dùng đến võ lực?
Đoạn lão cuộn cây nhuyễn tiên lại, trao trả cho Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn
Chi thẹn mặt đỏ bừng, đón lấy roi thì tức mình mà không đón lấy cũng
không tiện. Sau cùng nghĩ bụng: "mình đến đây cốt để báo thù là việc lớn,
hãy tạm nhẫn nhục trong nhất thời rồi sẽ liệu sau". Nghĩ vậy chàng đưa tay
ra đón lấy cây roi.
Cưu Ma Trí hỏi lão già:
- Tôn tính đại danh thí chủ là gì? Là người thân thích hay bạn hữu với Mộ
Dung tiên sinh?
Lão già toét miệng ra cười đáp:
- Già này là lão bộc của công tử Mộ Dung, làm gì có tôn tánh đại danh? Già
nghe nói đại sư là bạn thân với cố chủ nhận, vậy người có điều chi dạy bảo?
Cưu Ma Trí nói:
- Bần tăng cần gặp Mộ Dung công tử để trình bày.
Lão già đáp:
- Thế thì không may rồi! Công tử tôi mới ra đi hôm kia, không chừng một
hai ngày nữa mới về.
Cưu Ma Trí lại hỏi:
- Công tử đi chơi đâu?
Lão già nghiêng đầu, nghẹo cổ, đưa ngón tay lên gõ trán rồi nói:
- Tôi tuổi già lẫn lộn, không nhớ được rành mạch, dường như công tử sang
Tây Hạ hay Liêu Quốc gì đó, mà không chừng còn qua Thổ Phồn, Đại Lý
cũng nên.
Cưu Ma Trí hứ một tiếng, tỏ vẻ không bằng lòng vì lão già ấm ớ, chỉ trừ có
Đại Tống là không còn bốn nước thuộc hạt lão nói hết. Cưu lại biết rõ lão
già này giả bộ ngớ ngẩn liền nói tiếp:
- Đã vậy thì bần tăng không thể chờ công tử được, nhờ quản gia đưa bần
tăng đến tế mồ Mộ Dung tiên sinh cho tận tình cố nhân.
Lão già khua tay rối lên nói:
- Việc này tôi không thể tác chủ được đâu, tôi cũng không phải là quản gia,
quản giếc chi cả.
Cu Ma Trí lại hỏi:
- Vậy ai là quản gia tôn phủ? Xin mời ra đây nói chuyện?
Lão già gật đầu luôn mấy cái nói:
- Được thế thì được lắm! Tôi xin mời quản gia đến.
Lão trở gót người run lẩy bẩy đi ra, vừa đi vừa càu nhàu: "Cha này đáo để
thật! Trên đời chẳng có việc ác nào là lão từ, lại giả bộ thầy tu. Mình đã
ngần này tuổi đầu còn lạ gì trò hề mà lão toan bịp cả mình nữa mới đáng
ghét".
Đoàn Dự nghe lão nói bật lên tiếng cười khanh khách. A Bích vội quay sang
nói với Cưu Ma Trí:
- Xin đại sư phụ đừng giận, Hoàng lão bá có tính lẩn thẩn lại phải cái tật là
tự cho mình thông minh hiểu đời, ai cũng chê bai.
Thôi Bách Kế kéo áo Quá Ngạn Chi ra một chỗ khẽ bảo:
- Cái thằng trọc tự xưng là bạn với Mộ Dung tiên sinh kia, sao nhà này
không thấy ai tiếp đãi y một cách trọng vọng? Hiền điệt đừng có xung khắc
với lão, phải để ý xem sao rồi sẽ liệu.
Quá Ngạn Chi vâng lời về lại chỗ ngồi. Nhưng cái ghế dành cho chàng đã bị
đập gẫy nát rồi, thành ra phải đứng. A Bích vội bê cái ghế nàng đang ngồi
lại, tươi cười nói:
- Mời Quá đại gia ngồi đây.
Quá Ngạn Chi gật đầu, chàng tự nhủ: "giả tỷ mình vào đây, có giết hết cả
nhà Mộ Dung, cũng nên tha cho con nhỏ này".
Từ lúc lão bộc họ Hoàng ra nhà khách, Đoàn Dự cảm thấy trong lòng thắc
mắc, hình như có điều chi lệch lạc, không ăn nhập với nhau trong hoàn cảnh
chỗ này mà chàng nghĩ mãi không ra. Chàng hết nhìn cái phòng khách nhỏ
bé cùng đồ cần thiết trong nhà, lại nhìn mấy bức hoạ treo trên vách, các
khóm hoa ngoài sân rồi chàng lại nhìn A Bích, Cưu Ma Trí, Thôi Bách Kế,
Quá Ngạn Chi mà không sao tìm ra cái trạng thái mỗi lúc chàng càng cảm
thấy kỳ dị hơn. Đoàn Dự còn đang nghĩ ngợi phân vân, bỗng nghe thấy
tiếng chân người rồi từ trong nhà đi ra một ông già trạc ngoại ngũ tuần,
người ốm o, nước da vàng vọt, dưới cằm có một túm râu ngắn nh râu dê
nhưng vẻ mặt tinh lanh mẫn cán, cách phục sức rõ ra một tên quản gia trong
phủ Mộ Dung.
Gã gầy nhom quay mặt về phía Cưu Ma Trí cùng mọi người thi lễ nói:
- Tiểu nhân là Tôn Tam xin bái kiến liệt vị. Thưa đại sư phụ! Nay người có
thịnh ý đến tế mồ Mộ Dung lão gia chúng tôi cảm kích vô cùng. Song công
tử chúng tôi vắng nhà, không ai đáp lễ sao cho phải đạo kính khách. Vậy
chờ công tử về, tiểu nhân sẽ đem thịnh ý của đại sư phụ trình lại công tử là
đủ...
Gã vừa nói đến đây thì mũi Đoàn Dự bỗng thoáng ngửi thấy một mùi hương
thoang thoảng, chàng chợt nghĩ ra điều gì tự hỏi: "chẳng lẽ lại thế ?".
Nguyên lúc nãy người lão bộc họ Hoàng đến, Đoàn Dự cũng đã ngửi thấy
một mùi hương u nhã. Mùi hương này cũng phảng phất như mùi hương
trong người Mộc Uyển Thanh tiết ra. Tuy có chỗ khác nhau thật song lại
vẫn là mùi hương của thiếu nữ. Thoạt tiên thì chàng cho là mùi hương ở
mình A Bích tiết ra nên không để ý. Thế rồi sau khi lão bộc ra khỏi nhà
khách, mùi hương đó tự nhiên đi đâu mất. Đoàn Dự sở dĩ thắc mắc mãi là ở
điểm này: có lý đâu một ông già tám chín chục tuổi đầu lại còn tiết ra một
mùi hương của cô gái mười tám đôi mư. Bây giờ gã gầy nhom tự xưng là
Tôn Tam này vừa vào, chàng lại ngửi thấy mùi hương ban nãy. Trong bụng
suy nghĩ lung lắm, bao nhiêu câu hỏi xoay lộn trong óc: phải chăng phía
sau nhà khách có thứ kỳ hoa, dị thảo gì nên mỗi khi người ở nhà trong đi ra
lại quyện lấy mùi hương này đi theo, khiến người ngửi phải mê mẩn tâm
thần? Nếu không đúng thế thì cả lão bộc già nua kia lẫn quản gia gầy nhom
này đều do một thiếu nữ đóng vai. Mùi hương tuy làm cho Đoàn Dự sinh
nghi nhưng nó rất đạm bạc, nó rất vi tế, phải là cái mũi đặc biệt của Đoàn
Dự mới ngửi thấy còn Cưu Ma Trí, Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi thì
không hay biết gì hết. Sở dĩ Đoàn Dự có được cái mũi thần tình như thế là
vì chàng đã bị giam cầm trong thạch thất với Mộc Uyển Thanh. Trải qua
một thời gian cực kỳ nguy hiểm mũi chàng quen thuộc với mùi hương của
nàng. Có thể nói là chàng đã khắc xương ghi dạ cái mùi hương thiếu nữ tiết
ra. Đối với cái mũi của chàng, mùi hương này mạnh hơn cả cái thơm của gỗ
đàn hương hay của bách hoa.
Đoàn Dự tuy nghi Tôn Tam là thiếu nữ hoá trang, song chàng ngó lui, ngó
tới mà không sao khám phá ra được. Gã Tôn Tam cũng rất thần tình, từ
tướng mạo cho đến cử chỉ, nói năng hoàn toàn ra vẻ đàn ông, không có kẽ
hở mảy may nào để lộ chân tướng. Sau chàng chợt nghĩ ra: Gái giả trai
muốn giỏi đến đâu thì giỏi cũng không thể nào giả ra được cái bìu cổ họng.
Thế rồi chàng cứ nhè chỗ cổ họng Tôn Tam để khám phá... Nhưng gã đã
khôn ngoan để chùm râu dê rủ xuống che khuất cái bìu đi, không sao mà
nhìn thấy được. Chàng liền đứng dậy, giả vờ xem những chữ treo trên vách,
rồi lại gần bên Tôn Tam, ghé mắt trông vào chỗ bìu cổ, quả cổ phẳng lỳ
không có tật nổi lên, rồi thì chàng lại nhìn xuống thấy bộ ngực gồ lên. Tuy
chưa chắc đã là ngực đàn bà nhưng đã trông nét mặt gầy đét của gã đàn ông
thì quyết nhiên ngực không thể đầy thế được. Đoàn Dự khám phá ra điều bí
mật này, chẳng lấy làm thú vị, lẩm bẩm: vai trò vẫn còn dài, chưa hết. Thử
xem cô ả diễn xuất ra sao?
Bỗng thấy Cưu Ma Trí thở dài nói với Tôn Tam:
- Bần tăng gặp quý chủ nhân hồi ở bên Thiên Trúc có bàn đến võ nghệ rồi
cùng nhau ý hợp tâm đầu, kết bạn tâm giao. Ai ngờ trời chẳng cho thọ, để
mình kẻ phàm phu tục tử này sống trộm ở đời, còn quý chủ nhân vội về thế
giới cực lạc. Bần tăng lặn lội từ nước Thổ Phồn xuống đến Trung Nguyên
chẳng qua vì tình bạn hữu thâm trọng, cốt sao được lạy trước mộ một lạy
còn có người đáp lễ hay không phỏng có chi là quan hệ? Phiền quản gia dẫn
bần tăng đến nơi là được.
Tôn Tam chau mày ra chiều suy nghĩ, gã ngập ngừng:
- Việc này... việc này...
Cưu Ma Trí ngắt lời:
- Nếu có điều chi nan giải, xin nói rõ cho biết!
Tôn Tam nói:
- Đại sư phụ là chỗ thâm giao với lão gia tiểu nhân, hẳn biết rõ tính người
lúc sanh thời. Lão gia tiểu nhân ghét cay, ghét đắng bất luận là ai đến thăm
người. Người thường bảo: những bọn đến đây chẳng là hạng tới sinh sự báo
thù thì lại là kẻ đến tầm sư học nghệ, dưới nữa là phường đến vay mượn,
hoặc thừa cơ đục nước buông câu, nhân lúc lộn xộn chẳng dắt trộm cừu
cũng khuân đồ vật. Người còn nói: đám sư mõ đến lại càng khó chịu... Chết
rồi... khó nói quá...
Gã nói đến đây tựa hồ như người buột miệng lỡ lời xúc phạm đến Cưu Ma
Trí, vội giơ tay lên bịt miệng. Những cử chỉ càng rõ ra vẻ một thiếu nữ, mắt
tròn xinh xinh và con ngươi đen láy. Tuy gã vội chớp mắt, rủ lông mày
xuống che đi nhưng làm sao dấu nổi Đoàn Dự đang lưu tâm dò xét. Chàng
thấy nàng bại lộ cơ quan, bất giác cả mừng lẩm bẩm: Gã Tôn Tam phi chỉ
là đàn bà mà còn là một vị nữ lang đang độ xuân xanh. Chàng liếc nhìn A
Bích thì khoé hạnh cô này đang nở một nụ cười ranh mãnh. Chàng không
còn nghi ngờ gì nữa, nghĩ thầm: "Cả gã Tôn Tam này cho chí lão già họ
Hoàng lúc nãy chỉ là một người, chưa biết chừng chính là A Châu tỷ
nương".
Cu Ma Trí vẫn giữ một bộ mặt từ bi than rằng:
- Người đời gian trá thì nhiều mà thật thà thì ít, Mộ Dung tiên sinh không
muốn giao kết với người phàm tục là phải lắm.
Tôn Tam nói:
- Quả vậy! Lão gia tiểu nhân có di ngôn rằng bất luận kẻ nào đến xin viếng
mồ quét mả, nhất thiết không cho vào. Thậm chí người còn bảo: mấy thằng
cha trọc, đa số không phải vì hảo tâm mà đến, chúng chỉ có ý muốn quật
mả ta lên mà thôi. Trời ơi! Đại sư phụ đừng phiền, lão gia tiểu nhân thoá
mạ thằng trọc là thoá mạ người ta kia, không phải có ý mạt sát sư phụ đâu.
Đoàn Dự nghe nói phải cười thầm: ai đời lại trước mặt nhà sư mà thoá mạ
thằng trọc bao giờ? Rồi chàng lại nghĩ: lão Cưu Ma Trí này bị người thoá
mạ đến thế mà y vẫn bình tĩnh được, tuyệt không lộ vẻ cáu giận chút nào.
Lão là con người đại gian đại ác phi thờng mới giữ được thái độ này.
Cưu Ma Trí nói:
- Quý chủ nhân di ngôn lại mấy câu đó rất có lý. Vì hồi sinh thời ông uy
danh lừng lẫy khắp thiên hạ, do đó mà dễ kết mối thâm cừu rất nhiều. Còn
sống họ không làm gì được nên ông chết rồi tất họ cố tình tìm đến động
chạm vào di thể ông để trả thù đó là một điều dĩ nhiên.
|
|
|