Nằm ở Buzzard Point trong khu ghetto Anacostia đầy rẫy ma tuý và những vụ giết người, toà nhà hình dạng xấu xí của Văn phòng FBI tại Washington hoàn toàn ăn nhập với khung cảnh xung quanh. Phía bên kia đường Half là cái ga xép bụi bặm của Công ty điện lực Potomac. Cạnh đó là những bãi phế liệu với hàng đống kim loại, lốp cũ, được đem đi thiêu huỷ định kỳ. Cách đó một quãng ngắn là hai khối nhà được sơn lòe loẹt. Đấy là hộp đêm, nơi thỉnh thoảng vào lúc sáng sớm, người ta có thể chứng kiến những vụ bắn nhau dữ dội của đám thanh niên choai choai. Toàn bộ cái khung cảnh quái dị đó làm cho các nhân viên FBI làm việc tại Văn phòng Washington có được cái vẻ ngầu ngầu phóng đãng độc nhất vô nhị mà không một văn phòng nào khác có được.
Từ cửa sổ văn phòng của mình trên tầng 11, điệp viên đặc biệt FBI Robert Bryant có thể nhìn thấy những xoáy nước đầy rác rưởi trên sông Anacostia trước khi nó chảy vào sông Potomac, cách khoảng một phần tư dặm về phía dưới. Thỉnh thoảng, Bryant lại trông thấy những xác người bị xoáy nước ở chỗ hai con sông gặp nhau làm cho trồi lên và khi đó, ông ta liền bảo người thư ký:
“Hãy gọi cho cảnh sát. Báo cho họ biết là lại có một cái xác nữa ở trên sông đấy!”.
Bryant có biệt danh là Gấu. Nguyên do của biệt danh này không phải vì ông ta là huấn luyện viên của đợi bóng đá Mỹ nổi tiếng Alabama. Khi mới lên mười, một thằng bạn trong lớp chuyên đi bắt nạt những đứa yếu hơn đã vô phúc chọn Bryant làm mục tiêu của mình. Chỉ một chốc sau, thằng bé kia đã nước mắt ngắn nước mắt dài chạy về nhà, mếu máo mách: “Mẹ ơi, thằng Bobby Bryant nó đánh con như một con gấu!” Sự thực là với chiều cao chỉ hơn lm6 một chút, khuôn mặt có vẻ hoà nhã, dáng đi vụng về, lóng ngóng, trông Bryant quả là giống một con gấu tết bụng. Thế nhưng những ai đã có cơ hội làm việc chung với ông ta đều biết rằng một khi đã theo một vụ nào thì dù bằng cách này hay cách khác, ông ta sẽ đeo bám một cách dữ tợn cho đến khi nó được giải quyết xong mới thôi.
Sinh năm 1943 ở Springfield, Missouri, Bryant có bằng cử nhân của Đại học tổng hợp Arkansas. Công việc chính của Bryant ở FBI là chống các hoạt động tội phạm có tổ chức và ông ta đã thăng tiến rất nhanh trong nghề nghiệp. Cuối những năm 70, Bryant đã điều hành Văn phòng FBI ở Las Vegas, khi mà mafia và các quan chức tham nhũng của Công đoàn các tài xế xe tải đang kiểm soát chặt chẽ những sòng bạc ở đây. Sau đó, ở Kansas City, Bryant đã đương đầu với “gia đình” Civellơ của tổ chức Cosa Nostra, một trong những gia đình hùng mạnh nhất trong thế giới ngầm tại Mỹ.
Tháng 7-199l, ông ta được bổ nhiệm vào chức vụ chỉ huy Văn phòng FBI
Washington. Vào thời gian đó, văn phòng này đang hướng trọng tâm các hoạt động của nó vào công tác phản gián đối ngoại và do vậy, huy động tới hơn một nửa số nhân lực của văn phòng cho công việc này. Nhưng Bryant nhìn nhận sự việc theo cái cách riêng của ông ta. Đối với Bryant, một cuộc điều tra là một cuộc điều tra. Cho dù đối tượng là một bố già trong thế giới ngầm hay là một điệp viên KGB thì công việc vẫn là xây dựng và phát triển các nguồn tin, thu thập chúng để phục vụ cho việc truy tố hoặc nắm bắt thông tin. Lẽ dĩ nhiên, giữa hai công việc này có những sự khác biệt tinh tế khó nhận thấy và trong lĩnh vực này, Bryant luôn có thể trông cậy vào phụ tá chính của ông ta là John Lewis, người từng cầm đầu nhóm Courtship và có những hiểu biết và kinh nghiệm vô giá trong các hoạt động chống tội phạm cũng như phản gián.
Khoảng một năm sau khi Bryant đảm nhiệm công tác ở Buzzard Point, một nhân viên phản gián trẻ có tên là Les Wiser Jr để đạt nguyện vọng muốn thay đổi vị trí công tác. Wiser đã từng là thành viên của nhóm phản gián CI-l7, chuyên phụ trách các hoạt động liên quan đến địa bàn Đông Đức. Khi bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, nhóm này chuyển hướng các hoạt động điều tra của nó sang những đối tượng gián điệp hải ngoại, đặc biệt là những hoạt động gián điệp tại các sứ quán cũng như lãnh sự quán Mỹ ở nước ngoài. Wiser đặc biệt ưa thích cái trò chơi mèo vờn chuột với các điệp viên có trình độ cao của tình báo Đông Đức. Các cuộc đọ sức trong thế giới hoạt động gián điệp và chống gián Điệp ít ra cũng mang đến một sự thú vị nào đó. Nhưng rồi đột nhiên, những thách thức đó biến mất. Anh ta cảm thấy buồn chán khi cứ phải hàng ngày đọc những bài báo hoặc nghe các thông báo từ đồi Capitol rằng cuộc chiến tranh lạnh đã chấm dứt. Thêm vào đó, trong các hành lang của Văn phòng FBI
Washington lại lan truyền những tin đồn nói rằng Gấu Bryant đang hướng nhiều hơn các hoạt động của Văn phòng FBI vào việc chống lại các băng nhóm tội phạm cũng như những hoạt động buôn bán ma tuý trên địa bàn đặc khu Colombia. Wiser cho rằng cả về phương diện tâm lý của bản thân lẫn tương lai nghề nghiệp, với tư cách là một đặc vụ FBI, có thể anh ta sẽ phải quyết định tách ra khỏi các hoạt động chống tội phạm đơn thuần.
Nhưng với một sự ngạc nhiên lớn, Wiser nghe thấy sếp Bryant bảo: “Tại sao cậu không tiếp tục làm việc với nhóm phản gián thêm ít nhất là 6 tháng nữa!”
Trong những trường hợp tương tự, một gợi ý như vậy của Gấu được hiểu tương đương với một mệnh lệnh. Thế là Wiser tiếp tục ở lại. Và Wiser đã được tưởng thưởng bằng việc nhóm phản gián của anh ta nhận lệnh hướng trọng tâm hoạt động vào các quốc gia mà trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh lạnh đã không phải là mục tiêu được chú ý lắm như các nước ở châu Á: Nhật Bản, Pakistan; các quốc gia Trung Đông; tăng cường thêm các hoạt động hướng vào lục địa châu Phi. Các quốc gia này luôn sẵn sàng chỉ chờ cơ hội thuận tiện là xoáy ngay các bí mật của Mỹ trên đủ mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế cho đến Tác Giả: Peter Maas ĐIỆP VIÊN Ở WASHINGTON Người Dị{ch: Yên Ba khoa học công nghệ. Wiser bắt đầu công việc chỉ với 5 điệp viên, có người đã có kinh nghiệm hoạt động lâu năm nhưng cũng có người chưa đủ kinh nghiệm dù chỉ để làm công tác giám sát. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, Wiser đã xây dựng được một nhóm hành động cực kỳ linh hoạt và năng động khiến cho điệp viên của các nhóm phản gián khác đều muốn gia nhập nhóm của anh ta. Tất cả những động thái đó đều không lọt qua khỏi sự chú ý của Bryant.
Khi đề đạt với Bryant nguyện vọng muốn thay đổi môi trường công tác, Wiser không hề biết rằng khi đó Gấu đã khởi đầu ở Buzzard Point một điệp vụ phản gián lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ và điệp vụ này sau đó đã theo mỗi bước chân của Wiser, vào cả trong những giấc ngủ hằng đêm của anh ta.
- o O o -
Mùa xuân năm 1991, Paul Redmond, Phó giám đốc CIA đặc trách công tác phản gián đã đề nghị có một cuộc gặp ngay tại Tổng hành dinh FBI với Ray Mislock, Trưởng Ban Liên Xô thuộc Phòng 5 của FBI, chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc gia Mỹ. Đối với Redmond, đây không phải là một chuyến viếng thăm dễ chịu gì. Ông ta buộc phải thừa nhận một sự thật cay đắng. “Đang có kẻ thọc dao vào lưng chúng tôi - ông ta nói với Mislock - Chúng tôi cho rằng hiện đang có một kẻ xâm nhập sâu vào trong nội bộ của chúng tôi, ở cấp rất cao”.
Và cũng là lần đầu tiên, FBI được CIA chia sẻ toàn bộ những bí mật đang xảy ra, khẳng định chắc chắn những mối lo ngại của cơ quan này là có cơ sở. Kể từ sau hai vụ xử tử Valery Martynov và Sergey Motorin, giờ đây, FBI mới lại được biết rằng một nguồn tin quý giá khác của FBI ở Liên Xô đã tồn tại từ ba mươi năm nay, kể từ năm 196l, cũng đã bị phát hiện và hành quyết. Đó là một sĩ quan cấp tướng hoạt động trong Cục tình báo quân sự GRU của Liên Xô, đã được FBI chuyển giao cho CIA khi người này rời khỏi nước Mỹ. Đó có thể là nguồn tin thuộc vào loại quý giá bậc nhất của CIA tại Liên Xô. Cũng còn một tổn thất thứ tư nữa, một trung tá KGB dơ Văn phòng FBI tại San Franciscơ tuyển mộ. Cũng như trường hợp trước, khi người này quay trở lại Liên Xô, anh ta đã được FBI chuyển giao cho CIA.
Anh ta chỉ đơn giản là đã biến mất không để lại một tăm tích nào và không ai biết được số phận của anh ta ra sao.
Vẫn chưa hết. CIA cũng buộc phải xấu hổ thú nhận rằng ít nhất có tới nửa tá nguồn tin của chính CIA đã trở thành con mồi cho các đội xử bắn hay tệ hơn, trong các nhà tù của KGB. Đó là số phận dành cho những kẻ phản bội.
Tình hình đã ở vào tình trạng tuyệt vọng và CIA không biết phải bắt đầu lần mò từ đâu. Với sự chuẩn y của Giám đốc CIA khi đó (cũng là cựu giám đốc FBI) là William Webster, CIA buộc phải miễn cưỡng nhờ đến các kỹ năng điều tra của FBI. Kể từ khi được thành lập vào năm 1947, giờ đây, CIA mới cho phép FBI tiếp cận không chỉ những tài liệu tóm tắt mà cả những tài liệu gốc, toàn bộ chi tiết các vụ việc đã xảy ra để có thể lần ra những manh mối của một sự phản bội chết chóc.
FBI đặt mật danh cho cuộc điều tra này là. Playactor - Kép Hát.
Playactor được chia làm hai phần. Trong phần đầu, hai điệp viên từ Tổng hành dinh của FBI là Jim Holt và Jim Milbum sẽ cùng làm việc với hai nữ chuyên viên phân tích của CIA tại Tổng hành dinh CIA ở Langley, Virglnia, đầu não của mọi hoạt động và cũng có thể là nơi phát sinh ra những rắc rối chết người. Công việc của họ là tìm ra những khâu mà điệp viên của đối phương có thể xâm nhập, phương cách xâm nhập và cuối cùng, cũng là yếu tố quyết định nhất, ai có thể là “chuột chũi” của tình báo Liên Xô.
Việc lựa chọn Holt và Milbum tham gia điệp vụ Playactor là một quyết định sáng suốt. Cho đến những ngày này, giữa CIA và FBI vẫn còn tồn tại một sự cách biệt lớn về văn hoá. Trong CIA, nhiều người vẫn tiếp tục giữ một thái độ kẻ cả, coi FBI chỉ như là một đám những kẻ rình mò thô thiển còn sót lại từ thời J. Edgar Hoover. Nhưng Holt, với bản tính trầm tĩnh, hoà nhã, người đã từng tham gia điều khiển Valery Martynov, cũng đã phối hợp một cách tuyệt hảo với điệp viên CIA được giao nhiệm vụ cộng tác trong chiến dịch Courtship. Còn Milbum, người đã làm công tác phản gián khi bắt đầu làm việc cho FBI kể từ năm 1978, thậm chí cả Langley cũng phải nể phục bởi vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng của anh ta đối với các hoạt động của KGB. Anh ta nắm rất rõ lịch sử phát triển của KGB, những chiến dịch mà cơ quan này tiến hành trong các thời điểm khác nhau, những ưu tiên trong hoạt động của KGB, cách thức mà cơ quan tình báo này điều hành các điệp viên. Đã từng tồn tại một giai thoại nổi tiếng vào cuối những năm 80, khi một nguồn tin của Milbum đang trình bày về một kịch bản chiến dịch đặc biệt của KGB. Trong khi người này đang thao thao bất tuyệt thì bất chợt Milbum cắt ngang: “Nhưng chẳng phải là họ đã thay đổi cái kịch bản này vào khoảng hai tháng trước đây hay sao?” Thế là người kia ngượng ngùng thừa nhận:” “Vâng, ông nói đúng. Tôi đã quên mất điều đó”.
Phần hai của Playactor bắt đầu vài tháng sau đó, là một cuộc điều tra song song được tiến hành ngay tại văn phòng FBI ở Washington. Tim Caruso, 44 tuổi, một người có phông cách làm việc tỉ mỉ, nguyên tắc, trưởng nhóm phân tích chống tình báo Liên Xô thuộc Phòng 5, được biệt phái từ Tổng hành dinh FBI tới để thành lập và đứng đầu một nhóm tham gia vào giai đoạn này. Nom bề ngoài, Caruso có dáng vẻ như vị hiệu trưởng lạnh lùng của một trường tư thục dành cho con em tầng lớp tinh hoa trong xã hội. Các điệp viên vẫn thường vụng trộm bông đùa rằng nếu như mặc thêm một cái quần kẻ sọc với cái áo choàng đuôi tôm thì hẳn là Caruso sẽ bị Bộ ngoại giao trưng dụng ngay.
Khi được giao nhiệm vụ mới, Caruso lập tức nhớ đến câu nói của một nhà hiền triết: “Chẳng có gì mới khi mọi sự lặp lại từ đầu”. Năm năm trước đó, vào một buổi chiều giá lạnh buồn thảm của tháng 11 năm 1986, khi đang đảm nhiệm công tác giám sát các hoạt động của KGB trong các cơ quan chính phủ Mỹ, Caruso đã được triệu đến văn phòng Phó trợ lý giám đốc Phòng 5 để nghe thông báo về những. khả năng tồi tệ có thể xảy ra đối với Martynov và Motonn. Việc chỉ trong có một thời gian ngắn mà FBI bị mất liên tiếp hai nguồn tin quý giá là điều không thể chấp nhận được. Liệu đã có một sai sót nào đó chăng? Cuộc Điều tra này được đặt mật danh là Amace, tên của một loại dao găm có từ thời Trung cổ. Vấn đề là ở chỗ hiện ai đang nắm giữ con dao găm ấy?
Trong mười tháng sau đó, Camso cùng với hai điệp viên của tổng hành dinh FBI và ba nhân viên Văn phòng FBI Washington hàng ngày đều gặp nhau ở Mái Vòm, tiếng lóng chỉ một căn phòng cách âm, không có cửa sổ, được bảo đảm bí mật tối đa, bề ngang 5 mét, rộng 6 mét, nằm sâu trong lòng toà nhà J.
Eđgar Hơover trên đại lộ Pennsylvanya. Họ nghiên cứu tỉ mỉ một sơ đồ trên bức tường lớn - “bức sơ đồ giết người”. Trên đó, tất cả những hoạt động trong công tác điều khiển hai điệp viên của KGB đều được đánh dấu chữ thập. Các báo cáo về hai điệp viên, từng ngày một, được nhóm này nghiên cứu mộ cách hết sức kỹ lưỡng. Các báo cáo này ghi lại từng chi tiết hai điệp vụ liên quan đến hai điệp viên mất tích, kể từ khi họ. được chọn làm mục tiêu cho đến khi bị tuyển mộ.
Tất cả các cuộc gặp gỡ bí mật đã từng diễn ra đều được săm soi như dưới kính hiển vi.
Toàn bộ đều được tái hiện lại. Sai sót đã xảy ra ở khâu nào? Trong quá khứ, đã có nhiều chiến dịch liên quan đến các điệp viên được tuyển mộ bị đổ vỡ mà nguyên nhân là bởi chính các điệp viên này. Đã có một sự phản thùng chăng?
Đây là sai lầm của FBI? Phải chăng trong số những điệp viên được tuyển mộ đã có người hồi tâm nghĩ lại? Liệu điệp vụ có được giữ hoàn toàn trong vòng bí mật hay không? Những ai được quyền tiếp cận với các thông tin về những điệp vụ này? Những “ngôi nhà an toàn” có thực sự an toàn không? Các điệp viên đã thường xuyên sử dụng chúng hay thi thoảng mới dùng đến các ngôi nhà này làm nơi hẹn gặp bí mật? Liệu có tồn tại một sự xâm nhập bằng kỹ thuật của đối phương, một “con rệp” điện tử, băng ghi trộm hay một bức điện đã bị đối phương chặn bắt được? Hay đã có một điệp viên nằm vùng? Cũng có thể là một sự mua sắm hoang phí lơ đễnh nào đó đã vô tình trở thành đầu mới dẫn người Nga đến Martynov và Motorin? Hay là họ đã không giữ mình cẩn thận và cái giá phải trả chính là cái đầu của họ?
Đó là những câu hỏi cực kỳ khó trả lời. Nhưng một cú điện thoại của Motorin cho cô bạn gái ở Washington đã hầu như loại bở hết tất cả những nghi ngờ. Cho mãi tới tận mùa hè năm sau đó mới phát hiện được rằng đó thực ra là một tuyệt chiêu nghi binh của KGB.
Rồi lại còn phải phân tích những dữ kiện liên quan đến Edward Lee Howard nữa chứ. Howard, người mà thời kỳ năm 1983 đã biết rất nhiều bí mật có độ nhạy cảm cao, kể cả danh tính các điệp viên Mỹ tại Liên Xô, để chuẩn bị cho chuyến công vụ của ông ta tại trạm CIA ở Moscow, đã không qua được kỳ kiểm tra cuối cùng trên máy phát hiện nói dối. Kết quả kiểm tra cho thấy Howard đã dùng ma tuý và nghiện rượu, những lý do đủ để sa thải ông ta. CIA chỉ đơn giản thông báo cho Howald rằng ông ta bị đuổi việc, dửng dưng tống ra vỉa hè một con người cảm thấy nhục nhã, tài khoản trống rỗng và không có thu nhập. Mà CIA cũng chẳng thèm cảnh báo cho FBI biết về khả năng tiềm tàng của con người này có thể dẫn tới những tai hoạ. Rỡ ràng việc thú nhận một việc như vậy khiến cho CIA cảm thấy bị mất mặt.
Cho đến cuộc đào thoát năm 1985 của đại tá KGB Yurchenko, FBI mới biết được rằng đã từ lâu, Howard tình nguyện cung cấp tin tức cho phía Liên Xô.
Lập tức, FBI cho đặt một máy quay phim bên ngoài căn hộ của Howard ở Santa Fé, bang New Mexico, nơi ông ta đã tìm được việc làm trong một hãng luật.
Nhưng không may cho FBI là Howard, người mà trong thời gian làm việc ở CIA từng trải qua những khoá huấn luyện kỹ càng về các kỹ năng phát hiện và loại bỏ sự giám sát, đã dễ dàng qua mặt được người điệp viên FBI trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm phụ trách việc ghi hình ngôi nhà của ông ta, bằng cách thay thế một hình nhân giả vào chỗ của mình trên xe khi trở về nhà vào ban đêm. Sau đó, người ta chỉ biết được về Howard khi ông ta đã an toàn ở Moscow. Mặc dù FBI có thể chống chế rằng đã phát hiện ra Howard quá muộn và không có bằng chứng buộc tội đủ mạnh để bắt giữ Howard nhưng rõ ràng thất bại này là một nỗi nhục đau đớn của cơ quan này.
Nhưng nhóm Amace của Caruso đã đi tới kết luận rằng mặc dù Howard có thể là người đã tiết lộ tung tích của Valery Martynov nhưng ông ta không thể nào là người giúp KGB phát hiện ra Sergei Motorin. Đơn giản bởi vì Howard đã ra khỏi CIA trước khi chiến dịch Meges liên quan đến Motorin được thông báo cho Langley.
Còn có những vụ việc khác không thể không xem xét Cũng vào khoảng thời gian đó, một lính thuỷ đánh bộ trong đơn vị canh gác toà nhà sứ quán Mỹ tại Moscow, hạ sĩ Clayton Lonetree, đã bí một nữ điệp viên của KGB mua chuộc và cho phép KGB thực hiện được chiến dịch đột nhập khắp toà nhà sứ quán, tiếp cận được cả với trung tâm thông tin tối mật của sứ quán. Lonetree và một lính thuỷ đánh bộ khác canh gác sứ quán đã vi phạm luật lệ khi quan hệ với những phụ nữ Xơ viết duyên dáng xinh đẹp; nhưng không có bằng chứng nào cho thấy họ đi xa hơn thế.
Sau đó, lại có những phát hiện chưa chắc chắn lắm về việc KGB đã có một chiến dịch gài máy nghe trộm trong khắp toà nhà sứ quán. Từ đó nảy sinh một mối lơ ngại khác. Phải chăng khoá mật mã an ninh quốc gia đã bị đối phương giải được?
Tháng 9-1987, nhóm điều tra Amace soạn thảo một báo cáo, trong đó đề nghị phải siết chặt hơn nữa các biện pháp bảo vệ an ninh trong nội bộ FBI. Báo cáo này chỉ ra rằng có thể một số những đổ vỡ có nguyên nhân từ Howard, nhưng không phải là tất cả. Vụ việc liên quan đến toà nhà sứ quán Mỹ tại Moscow vẫn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn, nhưng những dấu hiệu thu thập được cho thấy có thể đi tới một kết luận rằng đã có một sự xâm nhập của điệp viên đối phương, mà không phải là trong FBI!
Vậy thì chỉ còn có một nơi khác: CIA. Nhưng trong khi CIA cũng khẳng định rằng cơ quan này bị mất một số nguồn tin của chính mình thì những dấu hiệu thu thập được tỏ ra khá sơ sài. Cũng không hề có một tiếng chuông báo động nào đáng kể được gióng lên từ Langley. Cho dù thế nào đi nữa thì FBI cũng chẳng bao giờ lại tự mình thực hiện một cuộc điều tra về CIA nếu như không được mời. Vào thời điểm đó thì đúng là FBI đã không được mời thật!
- o O o -
Nhưng nay, vào cái buổi chiều ngày 8- 11-199l, khi mà thời tiết bên ngoài cũng lạnh lẽo và u ám như 5 năm trước đó, Caruso lại được triệu đến phòng Phó trợ lý giám đốc FBI phụ trách chiến dịch. Tại đó đã có mặt Ray Mislơck, người đứng đầu bộ phận mà Camso đang làm việc và Gấu Bryant, mới được bổ nhiệm làm Trưởng Văn phòng FBI tại Washington.
Caruso được thông báo rằng ông ta đã được chọn để tham gia vào một cuộc điều tra gián điệp lớn và hết sức phức tạp. Nớ cũng có nghĩa rằng ông ta được phép tự chọn lấy các nhân viên điều tra của mình. Caruso được hoàn toàn tự do hành động. Vấn đề là ở chỗ đã có một sự xâm nhập của đối phương vào sâu trong hàng ngũ CIA và gây ra vô sớ những vụ bắt bớ cũng như hành quyết các nguồn tin điệp báo quý giá. Không nghi ngờ gì nữa là cả FBI lẫn CIA đều phải chịu những thiệt hại nặng nề bởi sự xâm nhập này. Và đó là một điệp viên.
Những nguyên nhân như sai sót trong điều hành chiến dịch, việc tiêu pha hớ hênh hay sự xâm nhập bằng các thiết bị kỹ thuật đã bị loại trừ. Đơn giản là vì chúng không thể xảy ra trong một thời gian ngắn, lại ở nhiều vị trí khác nhau đến như thế. CIA sẵn sàng hợp tác lâu dài và đầy đủ. Một đội đặc nhiệm hỗn hợp FBI - CIA được thiết lập ở Langley, cố gắng lần tìm ra những dấu vết để
Caruso có thể theo đó điều tra. Ông ta nghĩ gì về nhiệm vụ mới này?
Tim Caruso không thấy có lý do gì phải vui mừng cả. Ông ta đang trên con đường tiến tới vị trí phụ trách một văn phòng lớn trong một lĩnh vực hoạt động quan trọng của FBI và đủ kinh nghiệm để hiểu rằng nếu như bị tách ra khỏi Tổng hành dinh FBI vào lúc này thì cũng có nghĩa là ông ta sẽ mất đi sự chú ý đối với quá trình thăng tiến của mình.
Caruso trả lời, cố gắng bằng một giọng nhẹ nhàng nhất: “Các ông biết không? Quả thực là ngộ nghĩnh - ông ta nói - Cũng năm năm trước đây, tôi đã ở chính trong căn phòng này, ngồi trong chính chiếc ghế này, ngoài kia cũng lạnh buốt như thế. Đúng là giống nhau như lột”.
Không một ai trong phòng cất tiếng cười.
Caruso trở lại nghiêm túc. Ông ta biết rằng không thể nói “Không, xin cảm ơn” rồi đi ra khỏi phòng. Nhưng ông ta muốn được đảm bảo rằng sẽ không phải chịu sức ép bắt buộc ông ta phải giải quyết vụ việc chỉ trong vòng vài ba tháng.
“Tôi rất sung sướng vì sự tín nhiệm của các ông đốl với tôi - ông ta nói – Nhưng công việc điều tra và phân tích không phải bao giờ cũng mang lại sự hài lòng.
Phần lớn chúng đều không đi tới những kết luận rõ ràng. Và tất nhiên là chúng chiếm mất rất nhiều thời gian. Thường thì ban đầu người ta bao giờ cũng đầy hăng hái, nhiệt tình, nhưng rồi với thời gian, những cái đó sẽ mất dần đi. Tôi biết rõ điều đó. Tôi sẽ đảm nhận công việc. Nhưng tôi phải biết rằng mình sẽ nhận được sự ủng hộ kiên định trước sau như một.”
Dĩ nhiên là tất cả những người có mặt trong phòng đều đảm bảo với Caruso là ông ta sẽ có được sự ủng hộ đó. Nhưng sự có mặt của Gấu Bryant mới đặc biệt khiến cho Caruso yên tâm. Mặc dù kinh nghiệm của Bryant chủ yếu dựa trên những công việc liên quan đến đám tội phạm, là một lĩnh vực không quen thuộc đối với Caruso, nhưng ông ta đã nghe nói nhiều về Gấu, về bản tính lỳ lợm của ông ta, việc ông ta luôn dành sự ủng hộ tuyệt đối đối với những nhân viên của mình. Camso biết rằng Gấu không bao giờ né tránh những quyết định cứng rắn và cũng không trốn tránh trách nhiệm để đổ tội cho cơ chế. Và mặc dù đã trên cương vị chỉ huy nhưng ở Bryant vẫn còn những phẩm chất của một điệp viên lăn lộn trên đường phố. Trong điệp vụ này, Caruso sẽ làm việc trong lãnh địa của Bryant, tại Văn phòng FBI ở Washington.
Camso cũng biết rằng FBI đã cử Jim Holt và Milburn tham gia vào chiến dịch Playactor cùng với bên CIA. Caruso giữ một thái độ vì nể cả hai người này.
Holt đã từng tham gia nhóm Amace trước kia, còn Milbum, với những hiểu biết vô song của anh ta về cộng đồng tình báo Xô viết, xứng đáng nhận được sự tham khảo ý kiến thường xuyên. Caruso đặt cho họ một biệt danh là Jim Squared.
Giờ đây, trong cái buổi chiều tháng 11 này, trong khi đi dọc theo hành lang để trở về văn phòng của mình, Camso có thể nghe thấy tiếng gót giày của ông ta vang trên sàn nhà. Trước đó, khi nhóm Amace đưa ra kết luận rằng tình báo Xô viết không phải đã xâm nhập vào FBI thì đó vẫn là một kết luận mang tính tiêu cực. Đây không phải là một mối đe doạ tưởng tượng. Vẫn có một con “chuột chũi” cực kỳ nguy hiểm náu ở đâu đó.
Tháng giêng năm 1992, Caruso đã tập hợp được tất cả những thành viên mà ông ta muốn có trong nhóm Playactor. Cả nhóm lại tập hợp trong căn phòng số 11610 ở trụ sở của Văn phòng FBI Whasington, một căn phòng bí mật khác, không cửa sổ, cách âm và phải có giấy tờ đặc biệt mới được vào. Trước đó, căn phòng này là nơi làm việc của nhóm phản gián đặc biệt chịu trách nhiệm điều tra vụ đánh bom chiếc máy bay số 103 của hãng hàng không Pan Am năm 1988 trên bầu trời Lockerbie, Scơtland, được cho là có liên quan đến tình báo Libya.
Trong khi Holt và Miibum cùng với các đồng nghiệp trong CIA ở Langley kiên nhẫn sàng lọc những đầu mối bị tình nghi thì các điệp viên trong nhóm của Caruso, với những dữ liệu mới do CIA cung cấp về việc phản gian Liên Xô đã
“dọn dẹp” các nguồn tin tình báo của Mỹ như thế nào, bắt đấu xem xét lại những vụ việc vẫn còn chưa được giải quyết trước đó. Hầu hết những vụ việc này đều chỉ dừng lại ở dạng hết sức mập mờ, không rõ ràng, và công việc của các điệp viên trong nhóm Playactor là lần lại từ đầu, xới tung chúng lên, cố gắng tìm ra những khả năng có thể dẫn tới một sự đổ vỡ trên một quy mô lớn đến nhường ấy. Thực chất, công việc của họ giống như đi tìm những tế bào ung thư đã xâm nhập vào cơ thể trong nhiều năm trời rồi vậy.
Trong khi đang tiến hành cái công việc nặng nhọc và tỉ mỉ đó thì nhóm của Caruso có một “đồng minh” bất ngờ: đó là sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và cùng với nó là sự phá vỡ những quy định, luật lệ trong xã hội Xô viết trước đây Vào cái năm 199l ấy, không một ai ở cái đất nước được gọi là Liên bang Nga ấy có thể biết rằng những sự đổ vỡ, rạn nứt tiếp theo sẽ xảy ra từ đâu. Cũng không một ai biết chắc rằng liệu những phúc lợi xã hội trước đó có còn được đảm bảo nữa hay không. KGB, khi đó được tổ chức lại, trang bị mới và đổi tên thành SVRR, cũng không được miễn nhiễm khỏi tình trạng hỗn loạn này. Cho dù có một cái tên mới hay không, nó vẫn được xây dựng dựa trên cơ sở của những con người cũ. Camso nhìn nhận đây là một tình thế mà ông ta hoàn toàn có thể lợi dụng để đạt được các mục đích của cuộc điều tra. Tất cả mọi nỗ lực đều được huy động nhằm tìm ra người đã cung cấp tin tức cho đối phương, dù là trực tiếp hay gián tiếp, dù chỉ trong thời gian ngắn hay có quan hệ bí mật trong một thời gian dài.
Trong khi đó, lại có thêm một thành viên mới tham gia vào nhóm Playactorở Langley (phía CIA đặt mật danh cho nhóm này là Skylight). Đó là một chuyên viên phân tích tài chính có tên là Dan Payne. Nhiệm vụ của Payne là tìm hiểu nguồn gốc khoản tiền cá nhân của những đối tượng bị tình nghi trong một danh sách đã được lập ra. Một cái tên trong danh sách này đã gây nên sự chú ý đặc biệt. Xét về bề ngoài, khoản tiền lương của đối tượng không thể nào đủ để cho phép người này mua được một căn nhà - với một khoản tiền mặt lớn - ở Bắc Arlington, Virginia, khu vực dành cho giới giàu có, cách không xa mấy tổng hành dinh của CIA. Ông ta cũng không có một tài sản độc lập nào đáng kể.
Thực ra, trước đây CIA cũng đã từng lưu ý đến việc người này mua căn nhà đắt tiền đó, nhưng khi đó đã có những tin đồn đại rằng ông ta được hưởng thừa kế từ người cha dượng của vợ. Những người khác thì lại cho rằng chẳng có ai phản bội lại hành xử một cách thô thiển để thu hút sự chú ý của người khác như thế.
Dường như tất cả đều đã quên đi câu chuyện ngụ ngôn về chú bé con với vị Hoàng đế cởi truồng.
FBI, khi đó vẫn chưa chính thức khởi tố vụ án, nên không có quyền tìm hiểu về những tài khoản ở ngân hàng của các cá nhân. Nhưng CIA, được miễn trừ khỏi đạo luật về bí mật tài chính cá nhân, lại được phép kiểm tra những tài khoản của nhân viên đang làm việc cho cơ quan này. Bởi vậy mà với sự chấp thuận của FBI, Payne đã gửi một bức thư mật cho các ngân hàng và các công ty tín dụng mà đối tượng có sử dụng thẻ tín dụng của họ; trong bức thư này, Payne viện dẫn đến an ninh quốc gia, yêu cầu cho phép điều tra tài khoản của đối tượng bị tình nghi.
Kết quả thu được thật đáng kinh ngạc. Đã phát hiện ra được một quá trình gửi tiền của đối tượng từ năm 1985 vào hai tài khoản ở Virginia. Chỉ trừ có 3 lần, còn lại tất cả những lần gửi tiền khác, đối tượng và vợ đều gởi bằng tiền mặt và dưới 10.000 USD, con số giới hạn mà ngân hàng nào cũng yêu cầu phải có giải trình về nguồn gốc cho Cục thu nhập nội bộ. Lần theo những bức điện chuyển tiền, các nhân viên điều tra cũng phát hiện ra dấu vết tài khoản ở một ngân hàng Thuỵ Sĩ. Các thẻ tín dụng được đối tượng sử dụng rất nhiều, với số lượng lớn.
Sau khi được thông báo về những hiện tượng này, các nhân viên trong nhóm điều tra của Tim Caruso đã lần xem lại cuốn băng video cũ ghi lại cảnh đối tượng, với tư cách là nhân viên phản gián của CIA, đã tới khu nhà sứ quán Liên Xô ở Washington. Họ cũng nghe lại cuốn băng ghi âm ghi lại cuộc nói chuyện điện thoại, trong đó đối tượng đề nghị bố trí một cuộc gặp với Sergey Chuvakhin, một nhà ngoại giao Liên Xô làm việc trong lĩnh vực kiểm soát vũ khí. Và rồi họ cũng đã thiết lập được lịch gửi tiền của đối tượng trong hai năm 1985 và 1986, đều diễn ra ngay sau mỗi cuộc tiếp xúc với Chuvakhin.
Thêm vào đó, Dell Spry, một nhân viên trong nhóm Playactor chịu trách nhiệm theo vết những khoản chi tiêu bằng thẻ tín dụng của đối tượng, đã phát hiện ra rằng vào tháng 10-1992, đối tượng đã bay đi Bogota, Colombia, bằng máy bay của Hãng hàng không Mỹ, sau đó còn đi Caracas, Venezuela. Từ
Langley, Milburl khẳng định rằng đối tượng đã không báo cáo về chuyến đi này, vi phạm một điều khoản bắt buộc của CIA là tất cả mọi nhân viên không được phép đi ra nước ngoài nếu như không có sự chấp thuận của CIA.
Đến tháng 12 năm 1992, Gấu Bryant thấy những kết quả điều tra đã đủ để khởi tố vụ án. Những kinh nghiệm trong thời gian chống tội phạm có tổ chức cho phép ông ta nghĩ rằng một khi những dấu vết dẫn tới những khoản tiền bất minh thì sau đó bao giờ toà án cũng phải vào cuộc. Mà ở đây thì đã có đủ những gì cần phải có cho một vụ án như vậy. Mặt khác, Bryant cũng có những vấn đề riêng của ông ta. Giờ đây, nhóm làm việc của Camso chỉ còn phải chờ một báo cáo phân tích của nhóm đặc nhiệm hỗn hợp ở Langley, một báo cáo mà tất cả mọi người đều cho rằng lẽ ra đã phải có từ mấy tháng trước. Một số thành viên chủ chết trong nhóm của Caruso đã được điều động đi làm những công việc ở các văn phòng khác trên khắp nước Mỹ. Họ đã xa gia đình, ở lại Washington tới gần một năm rồi. Mà cũng đã tới gần lễ Noel và không phải là không có lý khi với tình trạng là còn rất ít công việc phải làm, họ muốn quay trở về với gia đình, trở lại với công việc hàng ngày của họ. Bryant có thể thấy nhóm làm việc của Caruso đang tan rã ngay trước mắt mình.
Nhưng CIA không cho là như vậy. Cơ quan này tiếp tục cái công việc là đào sâu bên dưới chính gót chân của mình. Nó muốn có được những kết quả điều tra chính xác 100%. Trong quá khứ, CIA đã từng có những bài học kinh nghiệm đau đớn về những điệp viên nhị trùng. Một nhân viên CIA, trong thời gian làm việc tại Indonesia, đã bán những bí mật của cơ quan này cho các tình báo viên Xô viết. Một nhân viên cấp thấp khác cũng đã bán những sơ đồ và kế hoạch liên quan đến các vệ tinh dò thám của Mỹ. CIA cũng không ít lần dính đòn điệp báo của các cơ quan tình báo đối phương. Một điệp viên “đào thoát” của Tiệp Khắc, dưới vỏ bọc là một phiên dịch, đã là một điệp viên nhị trùng hoạt động cho cơ quan tình báo Tiệp Khắc: Một phiên dịch khác người Trung Quốc, sau khi trở thành công dân Mỹ, đã thu thập được những tài liệu tối mật và chuyển nó cho tình báo Trung Quốc trong suốt 33 năm làm việc của ông ta. Dĩ nhiên cũng phải kể đến Edward Lee Howard nữa. Tuy nhiên, không có bất cứ một vụ nào trong quá khứ đó lại có thể sánh được về quy mô so với vụ việc mà cả CIA và FBI đang tiến hành điều tra.
Thêm nữa, CIA vẫn còn chưa tiêu hoá hết cái dư vị cay đắng mà James Jesus Angleton, người đã từng có thời đứng đầu bộ phận phản gián của cơ quan này, để lại Trong suốt hai mươi năm trời, Angleton đã bị ám ảnh rồi chính bản thân ông ta gieo rắc mới lo ngại rằng có một “chuột chũi” đã chui sâu vào trong hàng ngũ những quan chức cấp cao của CIA. Thậm chí đã có lúc người ta thì thầm rằng có thể giám đốc CIA cũng đang hoạt động cho tình báo Xô viết. Angleton chẳng bao giờ tóm được con: chuột chũi” của ông ta cả, nhưng cũng đã thành công trong việc phá hỏng tiền đồ sự nghiệp của một vài nhân viên CIA trong sạch mà kết quả là cơ quan này đã phải bỏ ra những khoản tiền lớn để bồi thường. Sau cùng thì Angleton cũng bị sa thải và ông ta chết vào năm 1987. Giờ đây, trong khi đang nằm dưới mồ, có thể ông ta đang cười khẩy vì đã để lại một gia tài tinh thần đổ vỡ.
Trái với mong muốn của Bryant muốn nhanh chóng kết thúc vụ việc, Tổng hành dinh FBI lại đồng ý với quan điểm của CIA. Cả Jim Holt và Jim Milbum đều được khuyến cáo là phải hết sức thận trọng.
“Tôi sẽ thúc đẩy công việc nhanh hơn - Bryant nói với John Lewis, trợ lý đặc biệt của mình trong văn phòng FBI Washington - Tôi sẽ xới tung lên cho mà xem.”
Vốn đã có kinh nghiệm làm việc ở cả Tởng hành dinh FBI lẫn Văn phòng FBI địa phương cộng với những hiểu biết về cung cách điều hành các chiến dịch của CIA, Lewis trả lời: “Đôi khi có những hạn chế trong đầu óc con người mà anh không thể vượt qua được. Nó giống như đánh nhau với cối xay gió vậy.
Nhưng ông cứ đợi đấy, rồi cũng đến lúc nó phải kết thúc thôi”
Rốt cuộc thì đến giữa tháng 3 năm 1993, nhóm hỗn hợp Playactor Skylight cũng đã soạn xong một dự thảo báo cáo. Trong bản cáo này còn lại tên của 5 kẻ bị tình nghi nhất. Một trong số đó cần phải có sự chú ý đặc biệt. Nhưng vấn đề là ở chỗ vẫn chưa thể loại bỏ hoàn toàn 4 kẻ tình nghi kia ra khỏi danh sách này.
Và rồi bỗng dưng hoạt động điều tra chi tiết của nhóm Caruso được đền đáp xứng đáng. Tên của một trong số 5 kẻ tình nghi được đặt lên hàng đầu tiên. Có thể chưa hoàn toàn chắc chắn 100%, nhưng đã rất gần với những gì mà người ta muốn có trong tay.
Kẻ bị tình nghi số một này, trên thực tế, chính là người đàn ông đã mua căn nhà ở Bắc Arlington. Tên ông ta là Aldrich H. (Rick) Alnes. Vào năm 1993, ông ta 5l tuổi và đã có 3l năm làm việc cho CIA, từng nắm giữ nhiều trọng trách có độ nhạy cảm cao trong hệ thống tổ chức của CIA. Trước đó, cha của ông ta cũng đã từng là một nhân viên CIA.
- o O o -
Với sự chấp thuận của Tổng hành dinh FBI, ngày 12-5 1993, Gấu Bryant chính thức khởi tố vụ án.
Theo logique thông thường thì rõ ràng Tim Caruso phải là người tiếp tục cầm đầu các hoạt động điều tra. Thế nhưng Caruso muốn quay trở lại làm việc ở Tổng hành dinh FBI và ông ta có những lý lẽ để biện hộ cho quyết định của mình. “Tôi đang dẫm chân lên người khác - ông ta nói với Bryant - Kể từ nay, mọi việc phải được điều hành theo phương thức trực tiếp bởi văn phòng FBI địa phương. Hiện nay, John Lewis là nhân vật số 2 ở đây Nếu như tôi tiếp tục ở lại, tôi sẽ phải báo cáo trực tiếp với anh và trên thực tế, John sẽ không có quyền hành gì hết. Với phương thức như vậy, anh sẽ không thể tiến hành chiến dịch một cách hiệu quả được.”
Gấu đồng ý.
Câu hỏi đặt ra là ai sẽ thay thế Caruso điều hành nhóm công tác trong giai đoạn mới. “Đó không nhất thiết phải là một nhân viên giám sát tốt nhất - Caruso nói với Lewis- Tất cả bọn họ đều có nghiệp vụ rất tốt. Vấn đề là ai thích hợp nhất với cương vị này?” Theo ông ta thì đó là Les Wiser. Mới 38 tuổi, Wiser là nhân viên giám sát trẻ tuổi nhất trong văn phòng FBI Washington, thế nhưng anh ta đã từng là một nhân viên phản gián đấy nhiệt huyết, hiểu biết rất rõ giá trị của những chứng cứ trong một vụ án. Anh ta đã có bằng luật của Đại học Tổng hợp Pitlsburlgh, từng làm cả công tố viên và chưởng lý trong lực lượng hải quân trước khi vào làm việc cho FBI. Wisel chính là đại diện cho một thế hệ mới trong FBI. Cao khoảng 1m80, người mảnh dẻ, Wiser có một bộ ria lớn mà mặc dù được xén tỉa gọn gàng nhưng người ta cho rằng trong thời gian trước đấy, khó có thể được chấp nhận trong FBI. Lewis cũng không có điều gì phải phàn nàn về Wiser. Ông ta đã có lần cùng với Wiser hoạt động trong thời gian một tuần lễ ở Đức nhân một vụ việc có liên quan đến CIA và đánh giá rất cao năng lực của Wiser.
Vào cuối buổi chiều ngày 24-5-1993, -Bryant gọi Wiser vào phòng làm việc của mình và bảo anh ta đóng cửa lại. Gấu đứng lên khỏi bàn làm việc của ông ta rồi cùng với Wiser bước sang phòng hợp. Ông ta hỏi Wiser: “Này, anh có biết họ đang làm gì trong cái phòng trước đây dùng để điều tra vụ máy bay số 103 của hãng Pan Am không?”.
Wiser trả lời rằng anh ta cũng có nghe nói đôi chút về công việc đó. Anh ta biết rằng có tồn tại một nhóm điều tra mang mật danh là Playactor. Chỉ có vậy thôi, còn ngoài ra anh ta không biết gì hơn nữa và cũng không có ý định tìm hiểu. Đó không phải là công việc của anh ta. Anh ta cho rằng nếu như người ta cần anh ta phải biết điều gì đó thì hẳn là anh ta sẽ được thông báo cấp kỳ.
Đó chính là câu trả lời mà Bryant muốn nghe. Cộng đồng tình báo Mỹ, mà chính xác là CIA, đang bị xâm nhập. Một vụ rất lớn đấy - Bryant nói - Vẫn còn chưa rõ mọi việc cho lắm, nhưng có thể nói rằng chúng ta đã xác định được gần như chắc chắn cái gã đó là ai. Đây có thể là vụ quan trọng bậc nhất của FBI từ trước tới nay.”
Wiser cảm thấy sống lưng mình gai gai.
“Anh có muốn nắm vụ này không.” - Bryant hỏi:
“Sếp! Tôi đã chờ đợi một vụ như thế từ lâu lắm rồi” - Wisel đáp.
Trong khi sẽ nhận được một số tin tức do nhóm của Camsơ cung cấp, Wiser vẫn có thể tự do lựa chọn những nhân viên mà anh ta muốn từ bất kỳ một phân ban phản gián nào trong phạm vi điều động của Văn phòng FBI Washington.
Camso và Mike Anderson, người đã hy sinh công việc giám sát của ông ta để tham gia làm việc cùng với Caruso, sẽ cung cấp mọi thông tin cho Wiser.
Hôm sau, cùng với một điệp viên trong nhóm phản gián của anh ta, Wiser vẫn phải đi Connecticut. Đó là một cuộc gặp đã được bố trí từ trước và không thể hiểu được Công tác móc nối với một nguồn tin của cơ quan tình báo một nước thuộc thế giới thứ ba được tiến hành từ lâu và đã đến ngày thu lượm kết quả.
Ngày hôm sau, thứ tư, 26-5-1993, Wiser tham dự buổi thông báo tình hình đầu tiên của Caruso và Anderson. Anh ta được họ đưa cho xem một tấm ảnh của Ames.
Nhìn vào tấm ảnh, Wiser không khỏi cười thầm. Với cặp mắt hiếng, khuôn mặt hóp và cái mũi nhọn, trong Ames rất giống một con chuột chũi.
|
|
|