Đã là ngày thứ năm lão Đình ngồi bên cạnh vợ. Vợ lão đang vật lộn với những ngày sống cuối cùng. Thỉnh thoảng bà mới có vài phút ra khỏi cơn hôn mê. Bà cựa quậy như người bị mỏi. Lão chỉ chờ khi ấy để giúp vợ thay đổi thế nằm. Mỗi lần như vậy lão Đình lại thì thầm: “Bà dậy thôi chứ, sao cứ ngủ mãi thế. Bà định bỏ tôi lại một mình ư?”. Có lẽ vợ lão không còn nghe được những lời của lão nữa. Hoặc bà nghe và hiểu nhưng không sao đáp lại được. Bởi chỉ sau vài phút bà lại chìm vào cơn hôn mê. Lão tiếp tục áp cằm vào gối, đăm đăm nhìn người hấp hối. Mặt bà bắt đầu phù nề, hơi thở dồn dập từng chặp. Lão biết rằng vợ lão không còn mấy thời gian nữa. Lão chỉ sợ vào đúng giây phút vợ trút hơi thở cuối cùng, vì lí do nào đó mà không có lão bên cạnh. Lão sẽ không thể tha thứ cho mình nếu việc đó xảy ra. Vì thế lão không dời khỏi vị trí nửa bước.
Lạ thay, mặc dù thức trắng đã năm đêm, lão không thấy mệt mỏi, thậm chí đầu óc cứ tỉnh táo đến độ trong suốt. Nhưng mà lão cô đơn. Không chỉ vì sắp tới lão còn lại một mình mà vì thấy thấm thía tận gan ruột nỗi buồn chung cho kiếp nhân sinh. Cuối cùng thì thời gian cũng ấn bẹp, nghiền nát rồi xoá đi tất tật. Rốt cuộc thì cái ý nghĩa đích thực của việc ra đời một con người là gì? Để có ngày ngồi chứng kiến sự tàn tạ, đau đớn này ư? Vì ngay như cuộc đời lão chẳng hạn, ngày nối ngày trôi qua là vô vàn tai ương, hoạn nạn. Lão ra đời trong cái ổ chó. May mà lũ kiến chưa kịp tha đi. May mà đêm tối, rắn rết, chuột bọ chưa đánh hơi thấy. Chỉ có trời biết vì sao sự sống vẫn dai dẳng bám theo lão hay ngược lại, để cuối cùng lão còn lại là lão Đình bây giờ.
Không, phải là hơn một lão Đình bởi lão được sinh thêm lần nữa khi có vợ. Sự vô lí thành ra có lí; mọi cay nghiệt trước đó hoá ra lại là một kiểu ân sủng; thù hận thành ơn nghĩa... tất cả cứ như có phép màu bắt đầu từ cái đêm cách đây đúng nửa thế kỉ.
Hồi đó lão Đình mới mười chín tuổi và đang chăn vịt chia với chánh tổng. Lão làm chủ cả một cánh đồng hoang rộng mênh mông. Chẳng ai biết tên họ lão, nhất nhất gọi là gã chân sào. Ngày ngày gã chân sào, đầu tóc bù xù, khoác tấm bao bố, đi thúng một chân đẩy sào lao vun vút lúc ẩn lúc hiện giữa những búi cỏ lác um tùm. Ngoài lùa vịt, gã cũng đặc biệt có tài bắt chim, bẫy cá. Đêm xuống đàn vịt ngủ ngay trên nước còn gã ghé vào một gò đất. Gã đốt lửa xua muỗi đồng thời để khỏi bị đêm tối, rắn rết và những hồn ma oan nghiệt nuốt chửng. Gã gần như câm lặng bởi tuyệt giao với mọi người quá lâu. Lí do của sự tuyệt giao chỉ đơn giản do gã nghèo, không có nổi bộ cánh ra hồn.
Lần ấy, sau khi viên quan ba Pháp bỏ mạng trên đường từ Hà Đông về Xuân Mai, lính Pháp nống ra các vùng phụ cận lùng bắt du kích. Đến Đồng Lác thì chúng quay lại. Vì thế đám dân chạy loạn tìm được nơi nương náu tuyệt đối an toàn là gò anh chăn vịt. Trong số những người đến tá túc có một thôn nữ không phải dân địa phương. Cô ta từ Hưng Yên, do không chịu nổi ông bố dượng hà khắc, bỏ đi buôn hàng xén rồi phiêu dạt đến vùng này. Cô ta có khuôn mặt nhẹ nhõm, nhân hậu. Khi mọi người ai trở về nhà người ấy thì cô ta dường như không biết đi đâu. Buổi chiều hôm ấy gã chân sào về muộn. Gã chỉ muốn lăn ngay ra đánh một giấc. Nhưng khi lầm lũi bước vào lều gã thấy cô gái ngồi gục đầu xuống gối, toàn thân rung lên từng chặp, thì gã phát bẳn lên: “Định ăn vạ ai ở đây?”. Cô gái ngẩng lên nhìn gã, không có vẻ gì là sợ sệt mặc dù giọng run run:
- Cháu xin cậu! Cháu chẳng có chỗ nào để mà về.
- Hay nhỉ! - Gã hậm hực nhưng vội đưa tay khép tấm bao bố giấu đi những chiếc xương sườn và chiếc ngực lép kẹp. Gã bèn quay ra chất củi đốt. Mùi chim nướng thơm phức nhưng gã chẳng thiết gì ăn. Trong khi đó cô gái bắt đầu quan sát gã. Trong ánh lửa bập bùng, thân hình tiều tuỵ của gã hòa vào bóng tối khiến cô thấy trào lên một nỗi thương cảm xót xa. Linh tính đàn bà cho cô biết gã là người tốt. Gã sẽ không lợi dụng hoàn cảnh để làm khó cho cô. Chỉ có điều cô không nghĩ ra mình phải làm gì. Bỗng gã mở miệng:
- Không chê thì... ăn tạm, cũng đỡ đói đấy.
Cô ngoan ngoãn đến ngồi bên đống lửa. Gã bắt đầu xé thịt chim nhai trệu trạo.
- Tại sao cậu không thổi cơm?
Gã không đáp mà cúi xuống thổi cho lửa bùng lên.
- Cô không sợ tôi à? - Giọng gã đã mềm hơn.
- Cháu cũng chả biết. Cùng đường thì liều thân, cậu không thương... thì cũng còn hơn chết đường, chết chợ.
- Nếu tuần bắt gặp thì tôi biết ăn nói thế nào?
Gã lấy hết can đảm hỏi cái điều gã vẫn lo sợ. Nào ngờ cô gái như có sẵn lối thoát cho gã.
- Thì cậu cứ nhận cháu là vợ...
Gã rùng mình, toàn thân ớn lạnh nhưng mồ hôi lại đang rỉ ra. Câu nói của cô gái còn hơn cả tiếng sét bên tai gã. Nó thổi lên khối lửa vẫn ngủ im trong ngực gã. Ngọn lửa bắt đầu bốc cao, liếm sang xung quanh khiến bụng gã nóng rực. Những gì vẫn nham hiểm lẻn đến làm khổ gã trong mơ, thì nay công khai hiện ra. Hoá ra còn có nỗi khổ ghê gớm khác, hơn cả nỗi khổ đói cơm, rách áo, ấy là sự cô đơn. Lần đầu tiên gã biết sợ sự đơn lẻ. Gã thèm khát cuộc sống nhưng không phải cái cuộc sống mà gã đang có.
Gã nhảy xuống thúng, chống sào lao vút đi. Đàn vịt đang ngủ bị khua dậy bao ào ào, kêu váng cả cánh đồng. Gã cứ lao đi trong đêm đen, bất chấp cỏ gai cào vào mặt. Gã muốn mặt nước đen thẫm kia nuốt chửng gã. Thực ra vì gã không chịu nổi khi thấy mình không còn giống là mình.
Nửa đêm gã mới quay trở lại gò. Cô gái vẫn thức chờ gã bên đống lửa. Giờ đây trông cô ta hồng hào và xinh đẹp hẳn ra. Gã lầm lũi bước lên, bóng đổ dài về phía sau. Gã nhìn cô gái rồi lại nhìn ngọn lửa. Chợt gã gần như quỳ xuống.
- Hay... - gã nuốt khan - chúng mình làm vợ chồng thật đi?
Gã chờ đợi, như chờ đợi lời phán quyết số phận mình.
- Vâng, cô gái cúi xuống nhay nhay chiếc dải yếm, nếu số trời đã định thế. Đừng đánh em nhé!
Gã ngước mắt lên trời, lầm rầm thề ước một điều gì đó. Chỉ trong khoảnh khắc gã thành người khác hẳn. Từ nay cuộc đời gã bớt đi những lạnh lẽo và gã phải chứng tỏ mình là đấng phu quân mạnh mẽ.
Suốt đêm ấy, dưới ngọn lửa leo lét, cô gái, từ nay là vợ gã chân sào, ngồi khâu lại tấm bao bố cho chồng. Gã ngồi thu lu ở góc tối, xúc động nhìn những động tác mềm mại của vợ. Gã tưởng tượng ngày nào đó vợ gã cũng ngồi thế kia trong ngôi nhà ba gian, khâu những chiếc áo nhỏ xíu. Và cứ thế gã bò như một đứa trẻ, từng bước, từng bước về phía vợ gã. Nàng vẫn mải mê với công việc. Khi nàng quay lại thì bắt gặp cặp mắt gã, vừa thèm muốn vừa sợ. Cái đầu bù xù của gã vội gục xuống. Nàng vòng tay ôm ghì nó vào ngực...
Đêm tân hôn của vợ chồng lão Đình đáng để cả hai cùng đem theo xuống mồ. Lão vụng về tập làm chồng. Vợ lão, dù đã được các bà mụ dạy, vẫn không giúp gì được lão. Mãi gần sáng, khi bất ngờ điều ấy xảy ra, tuyệt đối bí hiểm, thì cũng bất ngờ vợ lão chồm bật dậy, chân tay khua khoắng loạn xạ. Có tiếng quăng mình phần phật của con rắn nào đó đang hốt hoảng bỏ chạy...
“Bây giờ bà ấy chẳng biết gì nữa”. - Lão Đình thở dài như trút ra những năm tháng vẫn nén chặt trong lồng ngực. Lão chăm chăm nhìn vào mặt vợ như để tìm lại nét thôn nữ ngày nào. Thời gian thật khủng khiếp. Lão thì thầm nói với vợ: “Chúng ta đã có nhau ngần ấy năm. Ví thử không có mình làm sao tôi sống nổi. Vậy mà mình nỡ bỏ tôi một mình với tuổi già, bệnh tật. Đã hẹn cùng sống cùng chết kia mà”.
Vợ lão vẫn chìm sâu vào cơn hôn mê. Lão lại lang thang ngược thời gian về với những kỉ niệm.
Năm sau, hết mùa vịt, lão Đình thôi không làm chân sào nữa. Có được ít lưng vốn, lão đưa vợ về quê chuộc lại ruộng vườn bị bố lão gán mất vì thua bạc. Em lão ba đứa chết mất hai. Mẹ lão vẫn phiêu dạt theo những người nhà quê ra phố làm vú nuôi. Lão bắt tay gây dựng lại từ đâu. Ngoài làm ruộng, vợ chồng lão đi buôn chuyến. Lão mò lên tít vùng Kim Bôi, Lạc Thủy mua sa nhân về bán cho các lái buôn người Tàu. Có đêm cả hai vợ chồng lão suýt bị hổ ăn thịt ở dốc Cun. Khi con hổ chồm chỗm hiện ra, đuôi quật xuống đất lão cầm chắc chết cả mười phần, nhưng chả hiểu sao con hổ nhìn vợ chồng lão ôm nhau thì bỏ đi. Có lần vợ chồng lão bị lính Pháp bắt vào đồn. Chúng ra điều kiện: hoặc giết chết cả hai hoặc tha cho nếu lão đồng ý để vợ lại hầu hạ chúng một đêm. Lão còn chưa nghĩ ra phải làm gì thì vợ lão đã rút con dao nhọn đặt thẳng vào cổ mình. Bọn Pháp thoạt đầu tròn mắt, há mồm rồi cùng gật gù. Một tên nói tiếng Việt lơ lớ: “Tiết liệt! Tiết liệt” và thả cho đi cùng với hai gánh hàng.
Sau đận ấy lão Đình gia nhập đội du kích Cửa Đền. Lão được phân công phụ trách một tổ quay trở lại địa bàn cũ hoạt động bí mật. Hồi này vùng quê lão Pháp đã lập tề nên lão ở dưới hầm suốt này. Mọi tiếp tế đều do vợ lão thực hiện. Có lần mưa to suốt cả tháng ròng, nước ngập lênh láng, nhóm du kích của lão phải đội hầm chui lên rút vào ẩn náu ở cánh đồng Soi Hạ. Anh em kiệt sức dần vì đói và rét. Bên ngoài bọn lính Tây và đám tuần đinh sục sạo suốt ngày đêm. Vậy mà không hiểu bằng cách nào vợ lão vẫn lọt được qua mắt chúng, lội suốt đêm trong mưa tiếp tế kịp thời cho chồng và anh em trong đội. Lão nhớ hôm đó lão cứ ôm chặt lấy vợ mà khóc...
Những giọt nước mắt sót lại suốt năm chục năm, tìm đường bò nốt ra khỏi mắt lão Đình. Có phải vì những khổ cực, cơ hàn ngày ấy mà giờ đây vợ lão thành ra thế kia. Lão lại thì thầm: “Mình còn chưa nói cho tôi biết bằng cách nào, với chỉ một con dao cùn mà mình chẻ thành củi toàn bộ số cột gỗ lim cháy dở tịch thu của chánh tổng. Tôi thì ngồi tù trong khi một nách mình hai đứa con dại”. Đến đây thì lão Đình không còn cầm lòng được khóc nấc lên. Suốt ngần ấy năm sau khi được minh oan, lão cứ hẹn sẽ hỏi vợ lão xem bà đã làm điều đó bằng cách nào. Nhưng rồi công việc cuốn lão đi. Có vô số điều kì diệu khác hấp dẫn lão khiến lão quên hẳn. Bây giờ thì... nhân chứng còn đây mà đành chịu để một việc thấy nhãn tiền thành bí ẩn vĩnh viễn.
Con gái cả của lão giờ cũng đã là bà ngoại lặng lẽ ngồi xuống bên lão.
- Bố nghỉ đi một lát, để con ngồi với mẹ. Mẹ không muốn nhìn thấy bố thế này đâu.
Lão ngước mắt nhìn con. Lão thèm được ôm nó vào lòng, vuốt ve nó như ngày nào. Chẳng có gì ngăn lão làm điều đó nhưng lão cảm thấy giữa lão và nó cách biệt nhau một khoảng không thể với tới được.
- Con cứ để bố ngồi với mẹ. Có còn nhiều nhặn gì nữa đâu.
- Hồi trẻ mẹ con thế nào?
- Bố không thể sánh được với bà ấy. Sau này có hàng chục phụ nữ quý mến bố nhưng không ai bén gót bà ấy. Con có biết con ra đời như thế nào không?
- Bố nói đi!
- Một đêm, nhớ mẹ con không chịu nổi, bố chui lên khỏi hầm, chỉ muốn nhìn thấy mẹ con một thoáng. Rồi bố cứ nấn ná không muốn đi. Điều đó liên quan đến chuyện sống chết nên mẹ con yêu cầu bố không được ở lâu. Bà ấy kiên quyết từ chối... nhưng cuối cùng mẹ con đã mềm lòng...
Hai bố con lão ngồi tựa vào nhau như tin rằng bằng cách đó sẽ níu được bà Đình ở lại thêm.
Nhưng vợ lão ra đi sau đó ít phút. Lão an táng vợ trên một gò đất cao ráo nhìn thẳng ra cánh đồng. Những cây bạch đàn do chính tay vợ chồng lão chăm sóc, quanh năm rì rào như hát ru người dưới mồ. Lão cảm thấy hài lòng lắm về chỗ yên nghỉ của vợ. Hầu như chiều nào, vào lúc mặt trời gác núi, lão Đình cũng ra thăm mộ vợ. Lão ngồi hàng giờ đồng hồ ôn lại với vợ hàng trăm kỉ niệm đã xưa cũ, nhưng kỉ niệm thành cuộc sống của họ. Lão nói bằng thứ giọng say đắm, tựa như vợ lão vẫn đang vừa khâu vá vừa nghe một cách xúc động. Lão thú nhận với vợ cả những việc làm mà khi bà còn sống lão vẫn giữ bí mật. Chẳng hạn có lần suýt nữa thì lão phản bội vợ trước người đàn bà âm thầm yêu lão. Lão nhắc lại chuyện tương tự với bà hội trưởng hội phụ nữ goá chồng mà vợ lão biết nhưng không hé răng trách cứ nửa lời. Lão bảo lão biết ơn bà và thấy xấu hổ trước sự bao dung tha thứ của bà nên tuyệt không dám chàng màng khuất tất nữa. Lão thề độc với vợ mối quan hệ chỉ dừng lại ở đó. “Tôi thề có sáu đứa con... còn nếu bà không tin thì tôi cũng chẳng biết làm thế nào”. Mọi việc vui buồn trong ngày lão đều nói với vợ dưới mồ. Chẳng hạn có lần con lão muốn bố đi du lịch cho khuây khoả, lão hỏi vợ. “Bà bảo có nên đi không? Sao hồi còn bà lại không nghĩ ra nhỉ”. Rồi lão nói luôn: “Tôi chả đi”. Lão khoe với vợ đã tìm được chỗ đất ưng ý để sau đây khi lão về với bà sẽ luôn được ở bên nhau.
Những trận mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống. Chỉ trong vòng vài hôm mà nước ngập lênh láng. Nơi bà Đình nằm, mặc dù cao hơn mặt ruộng nhưng cũng ngập bủm trong nước. Chẳng còn thấy bất cứ cái gì ngoài nước. Lão Đình gần như phát điên, không ngớt nguyền rủa trời đất. Nhưng bất chấp lời van xin, rủa xả của lão, nước vẫn cứ tuôn xuống. Nhờ thế mà vạn vật hồi sinh, cuộc sống ảm đạm trước đó trở nên roi rói. Chỉ một mình lão Đình là rũ xuống như lá ngập lâu trong nước. Lão thương vợ lão một mình giữa mênh mông nước, chết rồi vẫn chưa hết khổ. Lão thầm trách các con lão, mới có vài tháng mà dường như cuộc sống của mẹ chúng đã không còn hiện diện hàng ngày. Chúng đã lại lao vào trăm ngàn việc mưu sinh, đã lại hào hứng với những dự định, đã lại lo gây dựng, cãi cọ ghen tuông... Lão cảm thấy có gì đó thật vô tình, bội bạc. điều đó càng khiến lão đau buồn, thất vọng và cô độc. Đêm đêm lão nằm nghe tiếng gà gáy eo óc vẫn bồi hồi tưởng như vợ lão sắp trở dậy, lục cục nấu nướng trong đó nhất thiết phải có phích nước mưa sôi già cho lão uống trà sáng. Và những hồi ức lại đưa kỉ niệm hối hả tìm về, bất chấp cuộc sống cứ náo nức một cách đáng ghét. Lão thù ghét luôn cả đám con cháu khi chúng ráo hoảnh khuyên lão nên quý trọng những tháng ngày ít ỏi còn lại. Lão cần gì cái cuộc sống chỉ kéo dài thêm nỗi đau buồn của lão ấy kia chứ? Một nửa cuộc đời lão đang ở dưới mồ, lão chả thiết để một nửa vật lâu hơn nữa.
Nỗi tuyệt vọng của lão Đình khiến các con lão buồn phiền. Chúng cảnh giác cắt cử nhau theo sát bố, đề phòng lão làm cái việc dại dột điên rồ là tự vẫn. Quả là lão đang nung nấu tìm cách sớm về với vợ. Cuộc sống với lão hoàn toàn lạnh lẽo, ảm đạm, không còn chút ý nghĩa nào nữa. Lão thèm chết kinh khủng. Lão âm thầm chuẩn bị cho cái chết đó. Lão chỉ còn băn khoăn xem chọn cách nào để cái chết bớt thê thảm.
Nhưng mọi ý đồ của lão, vừa mới le lói đã bị các con lão khéo léo dập tắt. Cuối cùng lão Đình quyết định chuyển sang kế hoạch khác. Lần này thì các con lão có tài thánh cũng không thể đoán ra để ngăn cản.
Một buổi sáng khi chị con cả của lão Đình trở dậy, chị phát hiện ra có một tờ giấy gài ở cổng. Lão Đình nguệch ngoạc viết lại mấy chữ như sau: “Đừng đi tìm bố, vô ích vì bố đã quyết. Vĩnh biệt các con!” Chị vội hô hoán các em và các con, phân công mỗi đứa toả đi một hướng để tìm bố. Chị chỉ hi vọng tìm được xác bố nữa thôi. Vẫn biết bố đau buồn, tuyệt vọng nhưng chị không nghĩ bố lại cùng quẫn đến thế. Các tin nhắn cũng được phát đi nhưng chẳng thể lần ra tăm hơi lão Đình. Chỉ có thể là lão chui xuống mồ với bà Đình mới biến mất nhanh và không để lại dấu vết như vậy. Một ông già bảy mươi tuổi, đi không vững, chẳng đem theo chút của nả nào, làm sao tránh khỏi một cái chết mất xác hoặc chết đường chết chợ, hiện đã là mồ vô chủ ở nơi nào đó.
Càng tìm kiếm họ càng vô vọng.
Thấm thoát đã đến giỗ đầu bà Đình. Nỗi đau buồn càng thêm nặng nề đè lên những đứa con lão Đình khi họ tụ tập tưởng niệm mẹ. Ngày mai họ sẽ cùng ra thăm mộ mẹ để xin bà tha thứ về việc để bố mất tích. Bữa cơm tối dọn ra đã lâu nhưng chẳng ai nuốt được khi cô con gái út cứ ngồi khóc dấm dứt. Trời u ám bởi những cột mây đèn sì đang đùn lên từ phía Đông. Không hiểu sao tâm trạng của những đứa con lão Đình cứ hướng cả về phía chân trời, nơi đang nháng lên từng đợt ánh sáng, giống như lửa của những đám cháy mô tả ngày tận thế. Hình như với họ, bố ra đi và mất tích sau những đám cháy ấy.
Nhưng, dù không ai nói ra, trong họ vẫn le lói một hi vọng vào điều kì diệu nào đó. Họ luôn luôn sợ nó tuột mất nên khi nó hiện ra trước mắt thì không ai đủ sức tin. Chị con cả là người đầu tiên đủ can đảm đi ra cổng, nơi rõ ràng chị và mọi người nghe thấy tiếng đập rầm rầm. Dưới ánh sáng đèn, lão Đình hiện ra như viên tướng cướp về già bị đàn em bóc lại hết sạch. Cũng có thể nghĩ lão vừa chui lên từ những hố đào vàng ngoại trừ vẻ mặt ánh lên sự ranh mãnh. Có tới bảy chiếc tay nải được lão đeo lủng lẳng trên mình kèm theo chiếc hòm có bánh xe kéo ở phía sau. Và lùi lại hơn một chút, nơi vừa đủ tối để những người phía trong không thể nhận ra ngay, một bà lão quãng sáu mươi tuổi đang đứng im chờ đợi. Không cho các con lão kịp kinh ngạc và thay mọi lời giải thích, lão Đình quay lại, giọng thản nhiên:
- Đến nhà rồi, mình ạ!
Kết Thúc (END) |
|
|