Trời chạng vạng tối. Ðèn điện bựt cháy khắp Ðô -Thành Saigon- Chợlớn, đường nào cũng nhờ ánh sáng nhơn tạo nên khỏi chìm ngấm trong tịch mịch tối tâm.
Thế mà bên vùng Vĩnh - Hội có mấy xóm bình dân nằm dọc theo mé kinh phía trong, từ bến đò Long- Kiển vô tới xóm Ụ- Tàu, vì đèn đường chưa giăng đèn điện, còn trong nhà lá thì đốt dầu leo heo, bởi vậy lúc gần tối mặc dầu dưới kinh nước đầy, gió chiều phất mát, mà quang cảnh trông có vẻ âm- u, có hơi buồn bực.
Trong xóm Ụ- Tàu, nằm xéo xéo vàm rạch Ông Lớn là xóm nghèo hơn hết ở vùng nầy, còn một vài ông thợ thuyền đi làm về trễ, nên xung xăng đi về riết kẻo vợ con chờ ăn cơm. Vài anh xà phu mặc quần vắn, áo vắt vai, bươn bả ra sang xe để chạy cử tối. Cũng có ít chị đàn bà mua bán, chị thì bán hết xôi bưng thúng về, chị thì gánh chè cháo ra đi bán dạo. Nhờ rãi rác có kẽ vô người ra như vậy, nên quang cãnh linh động vui vui làm phai lạt bớt hơi buồn bã.
Giữa lúc lờ mờ gần hết sáng nhưng chưa thiệt tối đó, một chị đàn bà ngồi trước căn nhà lá xịch xạc, mắt ngó xuống kinh xem tàu dắt ghe đi ngang. Một đưá con gái nhỏ xẩn bẩn chơi một bên chị, thình lình nó hỏi: "Cha đi đâu mà chưa thấy về vậy má?Con đói bụng quá. "
Chị nói: "Rán chờ một chút nữa con. Như thiệt tối mà cha con không về, thì má sẽ đốt đèn và xúc cơm cho con ăn. "
Một người trai chừng vài mươi tuổi, bộ tướng mạnh mẽ, ở phía ngoài xâm xâm đi vô xóm, vừa đi vừa hút gió. Chịđàn bà thấy đi ngang qua chị mới kêu và hỏi:
- Em có thấy anh hai em làm giống gì ở ngoải hay không vậy em Giao?
- Ủa! Anh Hai chưa về hay sao?
- Chưa. Chờ từ hồi chiều đến giờ mà không thấy tâm dạng gì hết. Con Tý đói bụng mà không chịu về ăn cơm cho rồi chớ.
- Thôi, chắc ảnh mắc nhậu nhẹt ngoài quán thím Phòn chớ gì. Mãn giờ tôi qua Cầu Kho có chuyện một chút. Tôi về trễ. Ði về tới ngã ba hồi nãy tôi thấy trong quán thím Phòn có mấy người ngồi đánh chén nói chuyện om sòm. Tôi mắc lo đi riết về, sợ anh Bảy chờ cơm, nên tôi không dòm kỹ coi ai ở trong quán.
Tên trai nói rồi đi thẳng lại căn nhà xéo xéo gần đó mỡ cửa mà vô.
Chị đàn bà đứng dậy thở một hơi dài rồi nói với đứa con gái: "Thôi vô đây mà đốt đèn rồi má xúc cơm múc cá cho con ăn trước đi. Chờ không được nữa đâu. "
Trong xóm Ụ- Tàu nầy có chừng một chục rưởi cái nhà. Vì chỗ ở dầu bao lớn cũng dùng tiếng chung mà gọi là nhà, chớ nếu nói cho đúng thì mới gọi là chòi cho trúng chánh nghĩa, bởi vì mỗi nhà chỉ có một căn thấp thỏi, chật chội, vô cửa phải cúi đầu. Mái nhà thì lợp bằng lá xé, hoặc lá chầm, có chỗ thiếu lá phải chèn một vài tấm thiếc. Còn cửa với vách thì dùng đủ thứ, ai có thứ gì dùng được thì dùng, lá có, thiếc có, ván thùng có, bởi vậy không kín đáo gì hết.
Chị đàn bà trông chồng không được nên phải vô dọn cơm cho con ăn, đây là cô Hai Xuyến, vợ của anh Hai Túc, làm thợ máy ngoài hãng cưa. Vợ chồng ở đây từ khi phối hiệp với nhau tính đã hơn mười năm rồi, sanh được con Tý đó nó đã lên 7 tuổi. Vì Hai Túc đứng coi cho máy cưa chạy, anh ăn tiền khá, nên nhà anh tốt hơn hết, tuy một căn mà cưả kín đáo, vách chắc chắn lại có kềm được một cái xép một bên để nấu ăn.
Cô Hai Xuyến có nghề làm bánh cam đường với bánh ếch thiệt ngon, còn thêm biết nghề may, lại may khéo. Hồi 20 tuổi, cô gặp Hai Túc rồi vô cất nhà ở xóm nầy, trong 3 năm đầu, chưa có con, thì cô làm bánh cam đường và gói bánh ếch mỗi bữa bưng đi bán khá quá, kiếm lời mua cơm gạo vợ chồng ăn không hết. Chừng có con cô không thể đi bán bánh được cô mới bỏ nghềlàm bánh mà sang qua nghề may. Nhờ mấy năm đi bán bánh cô quen hết mấy xóm dọc theo mé kinh, lại cũng quen luôn trong xóm Cầu Dừa nữa, bởi vậy người ta tin cậy mới đưa đồ cho cô may, nên cô có đồ may thường thường hoài. Nhưng vì ở xóm bình dân may đồ vải mà thôi, lâu lâu mới có một cái áo bà- ba hoặc một cái quần hàng mà may, bởi vậy tiền công không được nhiều lắm.
Ðường quan- lộ vô tới đầu xóm thì dứt. Trong xóm Ụ Tàu chỉ có đường mòn chằng chịt, bởi vậy chỗ nào có đất trống cao ráo thì người ta cất nhà mà ở, thành thử nhà cửa trong xóm không có thứ tự, lúm khúm cái nằm ngang, cái nằm dọc, không hàng ngủ chi hết.
Từ đầu lộ trở vô xóm, bên tay trái dựa theo mé kinh đất không bằng- thẳng cất nhà ở không được. Bên tay mặt gặp trước hết nhà ông Kèo, thợ mộc, ở với bà vợ và một đứa cháu nội gái 15 tuổi, tên Nhơn, bán bánh ú. Kế đó là nhà bà Lữ ở với người con gái tên Hiền, 29 tuổi, chồng chết bán xôi. Cách một cái vũng thì tới nhà của thợ máy Hai Túc thì con đường mòn lại cong vô phía tay mặt, trong đó nhà cưả lộn- xộn hơn một chục chủ ở.
Tên Giao đi ngang nhà Hai Túc đứng nói chuyện với cô Hai Xuyến hồi nãy đó, nhà nó cất xéo về phía bên kia đường mòn. Nó cũng làm thợ máy ngoài hãng cưa, nhưng thợ phụ. Nó mới 20 tuổi, chưa có vợ, mà cũng không có cha mẹ, anh em, nên ở cái chòi nhỏ một mình. Nó ăn cơm tháng tại nhà anh Bảy Cao làm cu- ly trong một hãng với nó, nhà ở kế nó đó, Bảy Cao đã 40 tuổi, có vợ, nên vợ ảnh nấu cơm luôn cho Giao ăn, mỗi tháng nó trả tiền cho chị, vì hai người làm một chổ, về ăn cơm một lượt, tại bạn nghèo với nhau có gì ăn nấy, không có chi bất tiện.
Bữa nay Giao có nói trước cho Bảy Cao hay nó có việc phải qua bên Cầu Kho một lát nên về trễ, tuy vậy nó sợ vợ Bảy Cao chờ lâu chị phiền, nên về tới nhà nó cởi áo bỏ đó, lật đật đi ăn cơm, không kịp đốt đèn.
Giao nhỏ tuổi, biết chữ lại rành nghề, ăn nói nhỏ- nhoi, tánh tình vui vẻ, biết thương người hoạn- nạn, ưa tiếp giúp anh em, bơỉ vậy ở trong sở làm cũng như đối với xóm- riềng không bao giờ mích lòng ai, trái lại ai cũng yêu mến.
Ngồi ăn cơm tối với vợ chồng Bảy Cao, Giao thỏ thẻ nói: "Anh Hai Túc có vọ con mà cứ ta- bà hoài, không kể tới gia đình. Bữa nay ảnh đi nhậu nhẹt ở đâu nữa, bỏ vợ con ở nhà chờ cơm tới chừng nầy mà chưa về. Hồi nãy tôi về ngang chị Hai Xuyến kêu hỏi tôi có biết ảnh đi đâu hay không, bộ chị buồn quá. "
Vợ Bảy Cao nói: "Có lạ gì đâu mà phải hỏi. Chừng nầy mà chưa về là mắc nhậu ngoài quán nào đó chớ gì. "
Bảy Cao nói: "Tội nghiệp thím Hai Xuyến, mắc anh chồng cũng như có con qủi ở trong nhà. Chú đi làm không về thím buồn, nào phải thím sợ ảnh đi trai gái nên thím ghen hay là sợ đi ăn uống tốn- hao tiền bạc đâu. Thím buồn là vì thím sợ nhậu- nhẹt say- sưa rồ về đánh vợ chửi con, làm tưng- bừng túi- bụi, náo- động cả xóm chứ. "
Giao châu mày nói:
- Tôi tưởng anh thợ Túc có phước lớn lắm ảnh mới gặp được người vợ đàng- hoàng đúng- đắn như chị Hai Xuyến.
- Thiệt vậy. Có phước lắm. Thím Hai Xuyến may khéo, thím may mướn kiếm tiền phụ nuôi sống chồng con. Chú đi làm thím ở nhà lui cui lo nuôi con, lo dọn- dẹp nhà cửa, lo cơm nước cho sẳn đặng về có mà ăn. Hễ rảnh thì thím may kiếm thêm tiền nữa. Vậy thì chú khoẻ qúa. Nếu chú biết suy- nghĩ, biết xét công ơn của vợ, chú biết vui với vợ con, thì gia đình của chú sướng bực nhứt trong xóm nầy, chớ đâu có xào- xáo hoài, làm cho thím Hai Xuyến buồn rầu như vậy. "
- Thiệt tôi thấy thân phận của chị Hai Xuyến tôi tội nghiệp cho chỉ quá. Mỗi lần ảnh say về ảnh đánh chỉ tôi chịu không được, nên tôi can thiệp luôn luôn. Lần nào tôi cũng bị ảnh mắng chửi, nhiều lần bị ăn thoi nữa, mà tôi không kể, cứ can thiệp hoài.
Vợ Bảy Cao chận nói:
- Em chẳng nên can thiệp. Chú đánh vợ mà em can, nhiều lần chú nói xấu cho em, chú la em lấy vợ chú nên em binh. Vậy thì còn can làm chi.
- Ối! Ảnh say nên ảnh nói bậy, hơi nào mà chấp ảnh. Hết say rồi anh em cũng tử tế vơí nhau như thường, chị Bảy không thấy hay sao?
- Nên để cho người già cả họ can gián tốt hơn.
- Già cả có ai đâu. Ông thợ Kèo ở ngoài xa. Bà Lữ bán xôi với chị Hiền ở gần, can một hai lần không được, hai mẹ con ghét không thèm nói tới nữa. Anh Bảy, chị Bảy cũng không chịu lại mà khuyên- dỗ. Tôi ở gần, nếu tôi làm lơ nữa, thì rủi sẩy tay anh Hai Túc đánh chết vợ ảnh còn gì.
- Chết thì bị đày. Ðể luật- pháp trừng - trị một lần cho chú tởn. Em can đã không có ơn, mà nhiều lần em còn bị đòn nữa chớ.
- Anh Hai Túc yếu xịu, ảnh thoi có thấm- tháp gì đâu. Tôi nghe nói uống ruộu ăn cơm mới ngon. Tôi có nếm thử thì ruộu hôi rình chớ phải ngon ngọt gì sao mà mê. Mà có uống thì uống chút đỉnh vậy thôi, uống làm chi cho tới say rồi sanh giặc với vợ con.
Bảy Cao nói: "Tại chú thợ Túc có tánh kỳ cục, hể say thì gây- gổ, chớ họ say đâu có như vậy. Có người say thì họ ngủ. Cũng có người say thì họ nói chuyện vui lắm. Có một mình chú hễ say thì về đánh chửi vợ con, chú không chịu bỏ tật say của chú, sợ có ngày chú mang họa lớn. "
Ăn cơm rồi vợ Bảy Cao mang chén vô trong nhà rửa. Giao cứ ngồi nói chuyện chơi với Bảy Cao. Cách một hồi nghe đằng nhà thợ Túc có tiếng la hét om- sòm. Vợ Bảy Cao bước ra nói: "Ðó, ông men về rồi nên làm om đó. "
Giao ngồi lóng tay nghe. Ban đầu nghe tiếng Hai Túc rầy om- sòm. Một lát lại nghe tiếng chị Hai Xuyến la khóc: "Trời đất ơi, chết tôi còn gì! Chòm xóm đành để cho chồng tôi giết tôi hay sao?. " Rồi tiếp nghe tiếng con Tý khóc la nữa.
Giao xúc- động chịu không nổi. Nó đứng dậy biểu vợ chồng Bảy Cao đi với nó lại can. Vợ Bảy Cao biểu chồng đừng thèm đi. Có đi thì đi ra bót xin lính vô bắt đem Hai Túc về bót mà giam thì tốt hơn.
Giao bỏ ra cửa đi riết lại nhà thợ Túc. Thấy Giao ở với bạn trong sở mà trong xóm cũng như vậy, Bảy Cao không nỡ làm lơ nên thủng thẳng đi theo sau. Vợ thấy chồng đi, chị cũng đi nữa.
Giao đi vô gần tới cữa, tuy ngọn đèn dầu không được tỏ lắm, song nó cũng thấy Túc một tay đè vợ vô vách, còn một tay đưa lên muốn đánh. Nhưng anh ta ốm yếu không có sức bao nhiêu lại thêm say mèm, mắt nhắm mắt mỡ, đánh không trúng đâu hết, phần thì chị vợ miệng la, tay đưa ra mà đỡ, còn thêm con Tý binh mẹ, nó níu nhũng- nhẵng phía sau nữa, bởi vậy anh ta làm dữ mà đánh không được. Giao ở trần, nó a vào, xếp hai cánh tay Túc ôm chặt mà kéo anh ta ra, đặng gỡ nạn cho Xuyến.
Túc vùng- vẩy muốn kiếm thế đánh Giao, mà sức yếu lại say, làm không lại sức trai sung- túc, nên bị Giao ôm mà kéo cho nằm trên ván.
Vợ chồng Bảy Cao vô tới. Hai Xuyến lật- đật chạy ra đứng một bên vợ Bảy Cao, dường như muốn yêu cầu ủng - hộ.
Bị Giao đè nằm trên ván cựa quậy không nổi, co chân đạp vô vách cây nghe đùng đùng, chớ không trúng Giao. Hai Túc mới chửi Giao, chửi vợ, chửi hết chòm xóm theo một phe với vợ mà hiếp anh ta.
Vợ Bảy Cao ngó chồng rồi cười ngạo mà nói: "Thấy hôn?Tôi nói hễ can thì bị nghe chửi, có ơn nghĩa gì. "
Hai Xuyến nói: "Ảnh say rồi ảnh nói điên, xin anh Bảy, chị Bảy đừng chấp ảnh. "
Túc vùng- vẫy, mắng chửi một hồi rồi mỏn hơi đuối sức nên nằm êm. Giao thấy vậy mới buông Túc;Anh ta nằm ngủ ngáy khò khò.
Vợ Bảy Cao mới nói: "Thôi, êm rồi, mình về. " Vợ chồng Bảy Cao mới rút đi. Hai Xuyến theo cám ơn.
Giao theo sau mới nói với Hai Xuyến: "Chị Hai để cho anh ngủ. Khuya thì ảnh hết say chứ gì. Nếu ảnh có làm dữ nữa thì chị chạy ra ngoài la lên;chòm xóm người ta hay tự- nhiên họ lại cứu chị. "
Giao về tới nhà, xó cửa bước vô, mò kiếm hộp quẹt đốt đèn rồi nằm trên cái ghế bố hút gió theo hơi bản đờn Vọng - cổ.
Một mình với ngọn đèn leo- lét, Giao hút gió một hồi rồi nhớ tới cảnh Hai Túc say sưa làm náo- động trong xóm hồi nãy thì cảm thương thân phận của chị Hai Xuyến có nghề, có hạnh, mà nhan sắc lại đẹp hơn chị đàn bà trong hạng bình- dân, chị đã làm tội tình gì mà bây giờ phải mang anh chồng say, anh không biết yêu- quý người vợ đẹp- đẽ, hiền- lành, trung- thành, tận- tụy, đã không làm cho vợ vui, mà hưởng thú gia -đình, lại theo đánh chửi hoài làm cho vợ buồn như ở trong địa ngục, bạn cùng quỉ- sứ.
Giao suy nghĩ rồi nhớ lại ở đời các chú trai cũng như các cô gái, hễ lớn lên thì ai cũng mong cưới vợ lấy chồng đặng vui hưởng hạnh- phúc gia- đình. Có lẽ chị Hai Xuyến cũng mong hưởng hạnh- phúc ấy nên hồi trước chị mới ưng anh Hai Túc có nghề thợ máy, còn chị có nghề thợ may, dầu thế nào vợ chồng cũng kiếm cơm đủ nuôi nhau, không đến nổi đói rách. Thiệt nhờ có nghề nên không đói rách mà chị Hai Xuyến mắc anh chồng say- sưa, thô - lổ. Thì chị có thấy hạnh- phúc gì đâu. Xưa rày có nhiều anh thấy mình lãnh tiền kha- khá mà ở có một mình, hay khuyên mình kiếm vợ đặng có người lo may vá áo quần cho mà bận, lo đi chợ nấu cơm cho mà ăn, gây hạnh- phúc gia đình mà hưởng như chúng bạn.
Cũng như nhiều đêm khác, hễ Giao nhớ tới lời khuyên kiếm vợ thì chúm- chím cười, thầm hỏi sao dám chắc có vợ sẽ hạnh- phúc? Nếu không gây được hạnh- phúc mà gây ra tai họa rồi làm sao? Nếu rũi gặp người vợ ghen như chị Bảy Cao, cứ đeo theo chồng không cho ra khỏi nhà, bữa nào chồng đi làm về trễ thì kiếm chuyện rầy- rà, vậy là hạnh phúc hay sao? Nếu lỡ gặp người vợ hỗn- ẩu, mình nói một tiếng vợ nói mười tiếng, coi chồng như thằng mọi, phải làm ra tiền cho vợ ăn hàng ăn bánh, sắm áo sắm quần, không kể công chồng cực- khổ, vậy là hạnh- phúc hay sao?Nếu gặp người vợ như vài chị ở trong xóm kia, mỗi bữa đợi chồng đi làm rồi thì giụm lại đánh bài đánh bạc, hoặc thả đi kiếm đàn ông, con trai mà nói chuyện, không trọng trinh- tiết, không kể thị- phi, vậy là hạnh- phúc hay sao?
Giao nghĩ tới mấy trường hợp chẳng may đó thì giựt mình, thầm nói thôi ở một mình cho thong- thả và khoẻ trí, không nên có vợ mà sanh chuyện rắc- rối.
Lóng nghe đằng nhà Hai Túc êm luôn. Giao mới tắt đèn mà ngủ.
- o O o -
Cách ba bữa sau.
Gà cồ trong xóm Ụ- Tàu tiếp nhau gáy sáng. Gà ở mé kinh bên kia cũng hưởng- ứng gáy theo.
Cô Hiền, là con gái của bà Lữ góa chồng, ở gần nhà Thợ Hai Túc, nghe tiếng gà gáy thúc mới mở hé cửa dòm ra ngoài. Thấy ngoài đường sắp sáng gấp, nên đi được, cô bèn lấy cái khăn vằn sọc xanh mà choàng đầu, rồi bưng thúng xôi đi bán dạo.
Ra tới đường quan- lộ có trải đá, cô Hiền đi được chừng mươi bước cô thấy có người nằm nghiêng vắt ngang trên khúc cây bần người ta đốn bỏ bên mé đường để khô rồi sẽ khiêng về mà bữa làm củi. Cô không hiểu ai làm gì nằm đó, cô bước lại gần mà coi mặt. Trời chưa sáng, thấy không rõ, nhưng gương mặt mường- tượng thợ Hai Túc, cô vội- vả thối lại mà đi riết vô nhà Hai Túc kêu chị Hai Xuyến hỏi có Túc ở nhà hay không.
Hai Xuyến đã thức dậy lâu rồi nhưng thấy trời chưa sáng thiệt nên chưa mở cưả. Cô nghe Hiền kêu mà hỏi thì cô vừa mở cửa, vừa trả lời:
- Không có ở nhà. Ði làm mà chiều hôm qua không có về ăn cơm, đi mất luôn đêm nay nữa. Cô hỏi chi vậy?
- Chị ra đây coi. Tôi đi bán, ra tới lộ tôi thấy có ai nằm vắt ngang trên khúc cây bần, bộ giống ảnh quá. Chị ra coi phải ảnh hay không?
- Trời Ðất ơi!Hay là đi về mà say qúa nên té nằm đó. Ðâu, chỗ nào đâu, cô dắt chỉ cho tôi coi.
Hai người vừa đi vừa chạy.
Trời sáng lần lần, bây giờ đã thấy rõ, nên đi gần tới Xuyến vừa ngó thì biết là chồng, mới chạy lại ôm ngang mình mà đỡ dậy.
Hai Túc không cựa quậy, cặp mắt mỡ trao- tráo. Xuyến đỡ không nổi. Cô rờ tay chưn đều lạnh ngắt. Cô đưa tay ngay lỗ mũi thì không còn thở. Cô vùng la lớn: "Trời Ðất ơi!chết rồi còn gì đâu!"
Xuyến đứng dậy vừa, vừa cậy Hiền làm ơn chạy về kêu anh Bảy Cao với Giao. Cô đứng một mình ngó thây chồng mà khóc, không dám rờ tới nữa.
Vợ chồng Bảy Cao thức dậy rồi, nghe Hiền kêu Giao mà nói Hai Túc chết thì kinh- tâm, vội- vả tung cửa ra hỏi chết ở đâu. Hiền chỉ ngoài lộ và nói có Hai Xuyến ra ngoài chổ đó rồi. Cao biểu kêu giùm Giao dậy. Anh chạy riết ra lộ.
Giao còn đương ngủ, nghe kẻ kêu người hỏi om- sòm, giựt mình ngồi dậy nghe nói Hai Túc chết ngoài lộ thì tái mặt, mắt nhấm mắt mở nó nhảy xuống đất xô cưả mà ra, rồi thấy Bảy Cao chạy, nó cứ chạy theo, không thèm hỏi hai chị đàn bà đương nói chuyện. Hai chị cũng lật đật đi theo. Qua khỏi nhà Hai Túc, Giao gặp con TÝ đương chạy ra lộ. Giao tránh nó mà dông theo cho kịp Bảy Cao.
Cao với Giao đến một lượt. Hai Xuyến khóc mà nói: "Chết rồi, còn gì đâu anh em. Chiều hôm qua đi làm không có về, mất biệt luôn tới đêm nay. Hồi nãy cô Hiền đi bán xôi, cô thấy nằm đây. Cô chạy về kêu tôi. Tôi ra thì đã chết bao giờ rồi. Tôi đỡ lên không nổi. Vậy hai anh em làm ơn khiêng giùm về nhà. "
Bảy Cao nói: "Không được. Chú Hai chết nằm bên đường, chết hồi nào và tại sao mà chết mình không biết. Vậy mình không nên động tới tử- thi. Phải đi ra bót mà báo cho ông Cò vô tra xét coi chú có thương- tích gì hay không, tại sao chú chết. Không biết chừng chú bị người ta đánh chết. Phải để cho nhà chức- trách tra- xét rồi mình sẽ xin xác về mà chôn chớ. Em Giao em chạy ra bót mà báo cho ông cò hay giùm chút em. "
Giao nói nó ở trần, nó tới bót vô phép quá. Ðể nó về bận áo rồi nó đi. Cao nói thôi nó ở nhà coi chừng để Cao đi ra bót.
Hiền bưng xôi đi bán để vợ Bảy Cao ở đó với Hai Xuyến. Con Tý ngồi ngó thây cha mà khóc làm cho Giao động lòng. Giao chạy về nhà rửa mặt và bận áo rồi trở ra.
Hai Xuyến cứ khóc hoài. Thấy Giao ra, cô nói cô chắc chồng cô say quá, đi về dọc đường ba chùm ba chân vấp té rồi nằm đó, dậy không nổi nên nhiễm gió mà chết, chớ không phải bị ai đánh. Nếu đánh lộn thì phải có vết tích. Không có máu, còn mặt mày không sưng không bằm có phải bị đánh đâu.
Vợ Bảy Cao nói phải để cho quan thầy khám nghiệm, người ta mới biết tại sao mà chết. Không chừng đâu trong mình làm sao mình thấy được.
Mặt trời vừa mọc thì có một thầy đội với hai anh lính cỡi xe máy vô tới. Ba ngườixúm lại xem tử- thi. Thầy đội biểu Giao dở áo của Túc coi, thì ngực, lưng và không có vết- tích chi hết.
Bảy Cao về tới, Giao nói không có bị đánh, chắc uống rượu say té nhiễm gió.
Thầy đội nói thầy ở Vĩnh- Hội mấy năm rồi, thầy biết anh thợ máy này có tật say. Tuy vậy mà để thầy tra hỏi mấy quán dọc đường coi hồi hôm anh ta nhậu nhẹt quán nào, nhậu với ai rồi sẽ biết. Thầy biểu hai anh lính ở đó gác, để thầy về kêu xe Hồng- Thập- Tự chở lên nhà xác cho quan thầy khám- nghiệm.
Giao nói với Hai Xuyến để nó với Bảy Cao ra hãng cho anh em trong sở hay và xin với ông xếp ở nhà đặng giúp chị mà lo cuộc tống táng Hai Túc.
Thầy đội cỡi xe máy đi về.
Vợ Bảy Cao không nỡ bỏ mà về nên phải ngồi lại đó mà an- ủi mẹ con Hai Xuyến.
Gần 8 giờ, Bảy Cao trở lại, có Tư Thìn theo. Hai người cỡi hai chiếc xe máy Bảy Cao nói với Hai Xuyến rằng thằng Giao xin phép nghĩ không được, bởi vì Hai Túc mất thì nó phải thế mà cho máy chạy, nếu nó nghĩ thì không ai coi. Ông xếp cho phép Bảy Cao với Tư Thìn ở nhà đặng lo làm đám ma cho Hai Túc cũng đủ. Thầy Năm Giác lãnh làm sổ đặng góp tiền anh em lớn nhỏ trong hãng ai muốn phúng- điếu bao nhiêu thẩy thâu giùm cho.
Vợ Bảy Cao hỏi xe máy ở đâu mà ảnh cỡi đi đó. Ảnh nói của anh em trong hãng cho mượn đặng ảnh đi lo công việc cho lẹ.
Một lát có xe Hồng- Thập- Tự lại chở tử- thi đem lên nhà xác. Hai Xuyến hỏi phải đem lên đó mà mổ hay sao. Người ta nói đem lên cho quan thầy thuốc khám nghiệm coi chết vì cớ nào và chết hồi mấy giờ. Có khi quan thầy không cần mỗ thì mình xin xác liền chở về làm đám ma. Còn nếu phải mổ rồi thì mình liệm rồi cũng xin phép đem về mà tế- lễ được. Hai Xuyến gởi con Tý ở nhà với vợ Bảy Cao. Chị về lấy tiền bạc rồi kêu xe xích lô đi theo xác chồng với Bảy Cao và Tư Thìn.
Xe hơi Hồng- Thập- Tự chạy mau, mấy người theo không kịp. Tư Thìn nói không hại gì. Anh biểu Bảy Cao cứ lên nhà xác ở đó mà chờ, để anh ghé trại hòm Cầu Ông Lãnh biểu trại hòm cho xe lên chở tử- thi về Ụ Tàu rồi chở hòm qua đó mà liệm. Còn như quan thầy định phải mổ thì anh trở về biểu trại hòm chở hòm với đủ đồ tẩm- liệm đem lên nhà xác mà liệm rồi sẽ chở về Ụ Tàu mà cúng tế. Bề nào cũng phải bữa sau mới chôn được.
Hai Xuyến với Bảy Cao lên nhà xác ngồi dựa gốc cây mà chờ hơn nữa giờ thì anh Tư Thìn cũng lên tới. Anh nói anh sắp đặt đã xong rồi hết. Vì anh quen với chủ đồ âm- công nên họ tính với giá rẻ, lại cho chôn trong đất riêng của họ nữa. Họ cũng lãnh đi khai tử và lo giấy tờ phép tắc, mình khỏi lo gì hết. Ðến 11 giờ, Ông Ðốc- tơ mới lên nhà xác. Nhân viên trong nhà xác đã lột hết áo quần của Hai Túc, để anh nằm trần- truồng trên bàn sẳn ra. Ðốc- tơ xem phía trước rồi biểu lật cho ông xem sau lưng và hai bên hông. Tuy không thấy vết- tích chi hết mà Ðốc- tơ định phải mổ.
Tư Thìn nghe nói mổ thì anh biểu Bảy Cao với cô Hai Xuyến ở đó, anh cởi xe máy đi xuống Cầu Ông Lãnh liền.
Ðốc- tơ mổ ngay lá mía thì thấy lá mía bể, nên nạn- nhơn mới chết. Nhưng coi ngoài ra ngay chổ đó thì không thấy bầm hoặc có một dấu chi hết. Ông nói có lẽ người ta đá hoặc đập một cây ngay chỗ đó nên lá mía bể mà ngoài ra không có một vết thương chi hết. Ông coi trái tim và nói nạn- nhơn tắt thở trong khoảng từ 9 tới 10 giờ trong đêm rồi. Thầy y- tá gom đồ mổ bộ vào cái hoa- ly rồi xách lên xe đi với ông Ðốc- tơ.
Cách một chút xe hơi chở hòm lên tới, cô Tư Thìn đem xe máy lên để trên xe mà ngồi.
Nhơn viên của nhà âm- công khiêng hòm và đồ vô nhà xác mà liệm Hai Túc, trước mặt vợ anh đứng khóc dầm và hai người bạn rất cảm- xúc.
Liệm xong rồi mới khiêng để lên xe hơi. Anh sớp- phơ nói xe rộng nên anh mời cô Hai Xuyến và Thìn bỏ xe máy lên xe hơi rồi anh chở hết về Vĩnh- Hội cho mau.
Gần một giờ trưa xe chở quan -tài mới về tới Ụ Tàu. Thằng Giao chưa đi làm buổi chiều, nó dắt con Tý chạy ra tiếp rước. Vợ Bảy Cao, mẹ con bà Lữ, vợ chồng ông Kèo đều có ra đủ hết.
Bảy Cao biểu Giao theo anh trở vô dọn chổ đặng để qua- tài. Vác ván bưng bàn đem đề ngoài sân cho trống hết phía trước rồi người ta khiêng quan- tài vô. Mấy người ở xóm trong hay tin kéo nhau ra phân ưu với cô Hai Xuyến.
Tư Thìn định trưa bữa sau, lối 12 giờ rưỡi thì phát- hành đi chôn đặng anh em trong hãng có thể đưa một khúc đường cho được. Nhơn viên nhà âm- công hứa sẽ đem xe có phủ- mộ lại trước 12 giờ, rồi lên xe đi về.
Bây giờ Tư Thìn với Bảy Cao giao cho đàn- bà trong xóm lo việc cúng quải, hai anh đi ra quán ăn cơm rồi lo việc khác, người đi cho anh em trong hãng hay quan- tài chở về rồi và định giờ chôn cũng rồi, người đem giấy căn cước của Hai Túc giao cho chủ đồ âm- công mà cậy đi khai tử, xin phép chôn và dặn đào huyệt cho tử- tế.
Ðược tờ chứng- chỉ của ông Ðốc- tơ về cuộc khám- nghiệm tử- thi, ông xếp bót Vĩnh- Hội nghi Hai Túc có đánh lộn với ai, bị người ta đá hoặc đập bể lá mía nên mới chết, bởi vậy buổi chiều ông mỡ cuộc điều- tra liền. Ông xét hỏi thì chiều bữa trước, mãn giờ làm việc rồi, Hai Túc về trong kinh có ghé quán thím Phòn mà ăn nhậu. Ðòi thím Phòn ra bót thì thím chịu có như vậy. Thím khai thì hồi chiều Hai Túc ngồi nhậu một mình. Ðến chạng vạng tối thì có tên Quì với tên Kèn làm việc cho hãng dầu- phọng bên Cầu Kho, nhà ở phía dưới sở rác, hai người ghé quán ăn uống nữa. Hai Túc quen với tên Quì nên ban đầu hai người nói chuyện với nhau rất vui- vẽ và thân- thiết. Ly nầy tiếp ly nọ, ba người ngồi nhậu hoài không ai chịu về. Nhậu đến quá 9 giờ, Hai Túc với tên Kèn say nhiều, duy có tên Quì còn tĩnh- táo. Túc với Kèn nói chuyện rồi cãi lẽ với nhau, la lớn tiếng lại muốn gây lộn nữa. Tên Quì tỉnh nên can- gián, trả tiền rượu, rồi nắm tay kéo tên Kèn ra lộ và dắt đi về phía dưới nhà máy. Hai Túc cũng trả tiền ăn uống rồi đi về sau, đi vô phía hãng dệt, mà ra lộ rồi thì chưn bước tới, chưn thối lui, đâm qua vát lại, bộ đi không vững. Ðòi tên Quì với tên Kèn mà hỏi thì hai tên này cũng khai y như lời của thím Phòn. Quì cương quyết nói thấy Kèn say quá nên nó dắt về trước, bỏ Túc ở lại sau, không hiểu Túc đi đâu hay là còn uống tới chừng nào. Hai người ở phía dưới nhà máy khai có gặp dắt Kèn về. Bà già ở khít vách với Kèn khai đêm đó Kèn say về mửa rồi ngủ khò tới sáng, không nghe la rầy chi hết.
Ông xếp bót đòi cô Hiền bán xôi mà hỏi cô gặp tử- thi hồi nào và thấy nằm cách nào. Hỏi xong hết rồi, ông đoán Hai Túc say quá đi không vững, ba chùm ba chân vấp khúc cây bần mà té, rủi khúc cây chạm ngay chỗ lá mía mà chết, chớ không phải bị ai đánh đá.
Thợ- thuyền trong xóm Ụ Tàu hay Hai Túc chết vì rượu thì giựt mình ai cũng quyết bỏ cái tật hễ đến bửa lãnh tiền thì rủ nhau ghé quán nhậu- nhẹt. Thằng Giao thề trước mặt vợ chồng Bảy Cao trọn đời nó không bưng ly rượu mà uống.
Hạng bình- dân ở với nhau thật có lòng. Dầu bình- thường hai người không ưa nhau đi nữa, rủi có người nầy chết thì người kia cũng tận- tâm lo- lắng. Nông- dân ở chốn thôn- quê cũng vậy, mà thợ- thuyền ở nơi thành- thị cũng vậy. Họ có tình đoàn- kết dĩ- nhiên. Quan, hôn, tang, tế phải giúp nhau. Một người được vui cả thảy đến mừng. Một nhà bị tai- họa cả thảy đến chia buồn và lo - lắng. Ðó là cái tập- quán di- tích của phong- hóa cổ - truyền. Người ở trong xóm một làng thì chung vui chia buồn với nhau, không cần ai ép buộc hay rù- quến. Phải có ở chung lộn với giới bình- dân Việt- Nam mới thấy rõ cái cá- tánh đặc- biệt của dân- tộc đó.
Vì cái tình đoàn- kết cố - hữu như vậy mà buổi chiều đó cả xóm Ụ Tàu ra tới xóm dọc theo mé kinh ai có ở nhà thì đều đến thăm Hai Xuyến tỏ lời phân ưu và cúng chút đỉnh để tống- táng người quen biết cho linh- hồn người được an vui nơi chín suối. Gần tối thấy Năm Giác, nhơn- viên của hãng cưa, với bốn anh thợ - thuyền làm trong hãng, thay mặt cho anh em lớn nhỏ đem nhan đèn với một bó hoa tươi vô cúng Hai Túc với năm trăm đồng bạc của anh em chung đậu và cũng có ông chủ với mấy ông xếp phụ thêm để góp sức mà lo cuộc tống chung của Hai Túc.
Tư Thìn lãnh chấp hết các số tiền phúng điếu để rồi đám trả tiền mua hòm tẩn- liệm, tiền phủ- mộ chở đi chôn, cùng các số tiền tổn- phí lặt- vặt khác.
Trưa bữa sau đi chôn thì ngươì trong xóm với anh em ngoài hãng theo đưa cả trăm. Những người mắc làm việc thì đưa ra tới bến đò Cầu -Kho rồi đi làm, để cho Tư Thìn với Bảy Cao được phép nghỉ trưa luôn lên tới Hoà- Hưng với cô Hai Xuyến và mấy chị đàn- bà ở xóm Ụ- Tàu.
Chiều Giao đi làm về, thấy chị Hai Xuyến chôn cất chồng xong, chị đã về rồi, thì Giao ghé vô mà hỏi thăm. Hai Xuyến mượn Giao phụ với chị khiêng cái bàn ngoài sân vô để dựa tấm vách buồng làm bàn thờ Hai Túc. Còn bộ ván dầu nhỏ chị muốn lót dựa vách, gần ngoài cửa cho sáng đặng chị ngồi may. Giao không cho chị khiêng, biểu để một mình nó ôm nổi, nó mới ôm ván vô lót chắc- chắn theo ý chị muốn.
Giao dọn- dẹp giùm rồi mới về ăn cơm với vợ chồng Bảy Cao. Bảy Cao nói Hai Túc chết rồi chắc Giao sẽ đứng coi cho máy chạy thế cho Hai Túc. Giao nói ông xếp đã có tính như vậy rồi, vì kêu thợ khác sợ họ không quen rồi máy trục- trặc.
Ðến tối Tư Thìn vô kêu Bảy Cao đi với anh lại nhà Hai Xuyến mà tính sổ xuất phát. Giao với vợ Bảy Cao đi theo coi chơi.
Tính sổ thì tiền phúng điếu được gần sáu trăm. Tư Thìn trả tiền tẩn- liệm chôn cất đủ hết rồi thì còn dư được 52 đồng. Anh đếm mà giao cho Hai Xuyến. Vợ Bảy Cao nói hai bữa rày Hai Xuyến cũng tốn bộn, mua vãi may đồ chế cho hai mẹ con, mua đồ để cúng quải, sắm trầu cau, trà lá để đãi khách. Số tiền dư năm mươi mấy đòng đó chắc vừa đủ ngám chớ không dư gì.
Hai Xuyến nói chị bị tai- họa nhờ anh em giúp công, giúp trí, giúp bạc, giúp lời, nếu không có vậy thì chị không biết làm sao mà chôn chồng cho được. Chị cám ơn Bảy Cao với Tư Thìn và cậy hai anh trao lời cám ơn của chị với các anh em lớn nhỏ trong hãng, ơn ấy không bao giờ chị quên.
Các việc xong rồi mới rã.
Vợ chồng Bảy Cao với Giao cũng về, ai về nhà nấy, không bàn- luận tới sự Hai Túc chết. Nhưng mà đêm đó ba người nầy nằm suy- nghĩ chắc chẳng khỏi nói thầm trong trí rằng Hai Túc chết thì Hai Xuyến hết tai- họa, hết buồn- rầu rồi.
Tối một lát, chị Hai Xuyến đốt đèn để trên bộ ván gần cửa rồi bưng rổ may ra ngồi dựa ánh đèn mà may riết cái áo bà -ba bằng vải trắng cho rồi đặng sáng bữa sau người ta lấy.
Vì sợ gió phất làm chao ngọn đèn nên chị khép bớt cánh cửa. Chị chăm chỉ ngồi may. Con Tý nằm chơi một bên, nó nói đỏ- đẻ với mẹ một lát rồi ngủ khò. Giao ăn cơm rồi nó ngồi nói chuyện chơi với Bảy Cao một hồi rồi đi về, để cho ảnh nghỉ. Về tới cửa nó ngó thấy bên nhà Hai Túc có ánh đèn giọi ra ngoài. Nó nghĩ còn sớm về nằm một mình thì buồn, chớ chưa ngủ- nghê gì được, nó bèn đi luôn, tính lại thăm chị Hai Xuyến một chút.
Hai Xuyến ngồi may, tư bề vắng- vẻ bổng nghe như có người đi vô cửa, chị bèn ngước mặt lên mà ngó.
Giao đứng tại cửa ngó vô mà hỏi:
- Chị may tới ban đêm hay sao chị Hai?
- Ừ, có cái áo gấp nên may cho rồi đặng mai giao cho người ta.
- Tôi thấy đàng này đốt đèn, tôi tưởng có việc chi, nên tôi lại coi chị có cần dùng tôi hay không. Bất - luận việc chi, hễ chị muốn có người giúp thì chị cứ kêu tôi, nghe hôn chị Hai. Chuyện chị em tôi không tiếc công với chị đâu. Hồi ảnh còn, tôi ăn ở làm sao thì bây giờ cũng vậy, chị đừng ngại chi hết.
- Cám ơn em, em vô ngồi chơi.
Giao vừa bước vô, vừa nói: "Chị mắc may. Tôi vô nói chuyện sợ làm mất thời giờ của chị. "
Hai Xuyến chúm- chím cười và nói: "May với tay, chớ phải may với miệng hay sao mà sợ mất thì- giờ. Nhắc cái ghế kia ngồi nói chuyện chơi em. "
Giao xách cái ghế đẩu đem để gần cái đèn mà ngồi, đối diện với Hai Xuyến. Nó ngó con Tý nằm day mặt vô vách rồi nó nói:
- Con Tý ngủ rồi?Ngủ sớm dữ.
- Nó ngủ nãy giờ. Có hai mẹ con, nó nói khào một lát rồi buồn nên ngủ.
- Ảnh mất hổm nay coi bộ nó buồn hay không chị?
- Thuở nay xẩn- bẩn theo tôi, ít gần cha, bởi nó không trìu- mến cho lắm. Tuy vậy mà nó cũng buồn buồn. Hổm nay em làm gì ở đâu mà không lại đằng nầy chơi?
- Hồi trước tôi lại có ảnh. Anh em ngồi nói chuyện chơi. Bây giờ tôi lại còn có một mình. Tôi sợ chị thấy tôi chị nhớ ảnh rồi chị buồn, nên tôi không muốn lại. Thấy được một người cũng còn đỡ. Không thấy người nào hết mới buồn chớ.
- Vậy à?Hổm nay tôi lo cho chị một chuyện, tôi lo quá.
- Chuyện chi vậy em?
- Thuở nay tuy ảnh hay nhậu- nhẹt, song mỗi kỳ lãnh tiền ảnh cũng đưa cho chị mớ nhấm để mua cơm gạo mà ăn. Bây giờ không có ảnh nữa, chị với con Tý mới làm sao mà sống.
- Tôi rất cám ơn em có lòng tốt lo cho phận mẹ con tôi. Thiệt hôm cô Hiền chạy về kêu tôi ra, tôi thấy ảnh nằm chết tôi bủn- rủn tay chưn. Tôi cũng muốn chết phứt cho rồi. Em nghĩ coi trong nhà có năm ba đồng, chứ không có tiền dư nhiều. Tôi lấy gì mà chôn cất ảnh. Bà con anh em có thương ra tiền cho mượn thì tôi phải mắc nợ. Nợ đó là nợ ơn nghĩa, tôi phải lo mà trả người ta, chớ để day- dưa sao được. Tôi làm gì có đủ tiền mà trả. Tôi nhờ anh em ngoài hãng với bà con trong xóm thương, ai cũng phụ giúp nên chôn ảnh tử- tế lại còn có dư ít chục nữa. Tôi khỏi mắc nợ thiệt may hết sức. Còn phận mẹ con tôi thì tôi có lo đâu. Mẹ con tôi hẩm- hút với nhau, không tốn hao bao nhiêu. Tôi nhờ nghề may của tôi, tuy ở đây may đồ vải nên tiền công không được nhiều song thế nào cũng đủ cơm gạo mà sống chứ. Tôi còn có nghề làm bánh nữa, bánh cam, bánh ếch, bánh ú, thứ nào tôi làm cũng ngon. Ðợi ít năm nữa con Tý trộng rồi, tôi làm bánh cho nó bưng đi bán, hoặc nó coi nhà cho tôi đi, thì mỗi bữa kiếm lời dễ như chơi, làm sao mà đói.
- Tôi nghe chị nói như vậy tôi mới hết lo. Hổm nay thiệt tôi lo cho chị về khoảng đó lung lắm. Tôi thiệt tình mà nói với chị. Nếu chị có thiếu hụt thì cho tôi hay. Tôi không phải giàu có gì, nhưng tôi có một mình nên bề của tôi dễ lắm. Tôi có thể nhín- nhúc mà giúp cho chị được.
- Tôi rất cám ơn em. Em cũng nghèo mà em thương bạn nghèo như vậy thì quí lắm. Lòng dạ tốt đó ít ai có.
Giao đứng dậy ngó Xuyến mà nói: "Tại tôi có tánh kỳ cục lắm. Thấy ai bị hoạn- nạn tôi chịu không được. Cũng tại cái tánh đó nên mỗi lần ảnh đánh chửi chị, tôi nghe chị la, chị khóc, tôi chạy lại tôi can liền. Mấy lần ảnh chửi luôn tới tôi hay là ảnh thoi tôi, về nhà nằm nghĩ lại tôi phiền. Tôi làm ơn mà lại mắc oán. Tôi nhứt định không thèm can- thiệp nữa, để cho ảnh giết chị đặng ảnh ở tù cho ảnh biết chừng. Té ra chừng ảnh làm dữ nữa, tôi nghe chị la khóc, tôi chịu không nổi, tôi cũng mang đầu chạy lại can nữa. "
Xuyến nói: "Thiệt cha con Tý hễ say rượu thì ảnh như thằng điên, không biết phải quấy gì hết. Em út thương ảnh hết sức mà ảnh không biết ơn. Ðánh vợ thì chòm- xóm khuyên can, ảnh không kể, ảnh đánh chửi người ta mà có khi còn nói bậy nói bạ nữa chớ. "
Giao cười mà nói: "Ảnh là anh mà lại say nữa. Ảnh muốn nói giống gì ảnh nói, tôi không thèm kể, chớ người khác đối đãi tôi như vậy sao được chị Hai. Nói chuyện nghe chơi chứ ảnh chết rồi thì để cho vong hồn của ảnh bình yên, không nên nhắc cái quấy của ảnh. "
Giao bước lại trước bàn thờ đứng ngó, rồi đi luôn qua cửa buồng dòm vô trong tối đen. Nó vùng xây lưng đi ra và nói: "Thôi, tôi về nghe hôn chị Hai. "
Xuyến buông kim ngó theo mà hỏi:
- Em về hay sao?Sao không ở chơi?Còn sớm mà.
- Về nghỉ để cho chị may. Bữa nào chị rảnh rồi sẽ lại nữa.
Giao ra cưả, đưa tay nắm cánh cửa, đứng ngó xuống mé kinh, dường như chưa muốn về gấp.
Xuyến ngó theo mà nói: "Thôi tối mai em lại chơi. Mai không còn đồ phải may gấp nưã. "
Giao ừ rồi bước ra đi liền.
|
|
|