Xóm có cái tên thật ngộ: Xóm Địa Đàng. Ngày đầu dọn nhà đến nàng thấy vui vui, thích nhất khu vườn rừng bạch đàn trước nhà có con đường mòn chạy qua chỉ đủ một người đi nhưng cũng là nơi hò hẹn của những cặp tình nhân, có lẽ vì thế xóm có tên Địa Đàng. Chiều nào đi làm về việc đầu tiên nàng cũng ra vườn, khi dặm lại đám cỏ thưa, lúc trồng thêm bụi thủy tiên, vừa làm nàng vừa lắng nghe tiếng chim ríu ran từ vườn rừng vọng sang.
Nắng sớm xuyên qua ô cửa chiếu vào tận giường, nàng nhìn ra, bên kia hàng rào một cậu bé đang đứng như đợi ai, vai cậu vác giá vẽ và chiếc túi lỉnh kỉnh các thứ. Tiếng then cổng loảng xoảng, cô bé trạc tuổi cậu miệng cười tươi rói tập tễnh đi ra. Như đã quen, cậu đưa các thứ cho cô bé đeo rồi khom lưng cõng cô qua vườn rừng. Hai cô cậu đi xa rồi nàng vẫn còn nghe tiếng ríu rít chuyện trò. Nàng ngây người nhìn đôi bím tóc ngúc ngoắc dễ thương của cô bé cho đến khi mất hút... Ngày đó trạc tuổi cô bé này, nàng cũng ngúng nguẩy đôi bím tóc đợi Phan bên hàng rào. Có hôm mưa Phan ướt lướt thướt vì bận che cho nàng, đoạn đường từ nhà đến trường qua hai con dốc, đến đoạn lầy bùn Phan ghé lưng cõng nàng qua, chốc chốc nàng lại hỏi: “Cậu mệt chưa, thả tớ xuống đi?”. Đáp lời nàng, lần nào Phan cũng xốc nàng lên đi nhanh hơn, gương mặt tái xanh cười thật tươi cho nàng yên lòng. Phan luôn ở bên nàng, có khi chỉ là gỡ con sâu đo trên tóc hay ném hòn đá vào đàn chó dữ bất ngờ xông ra tấn công nàng… Ngày Phan vào đại học rồi đi xa, nàng vẫn ở lại trong thế giới cỏn con của mình, vụng về nghịch những con thú bằng đất sét Phan nặn cho nàng.
Có tiếng lộc cộc dưới đường, một cụ bà chầm chậm đẩy chiếc xe lăn, bánh xe va vào ổ gà, thanh âm trong buổi sớm nghe rõ mồn một, trên xe lăn cụ ông đầu gục xuống như ngủ. Cụ bà đẩy xe rẽ vào vườn rừng rồi dừng lại, họ nói với nhau điều gì không rõ, nàng chỉ nhìn thấy hai cụ cười móm mém, lát sau cụ ông lại ngoẹo đầu ngủ thiếp đi, bên cạnh cụ bà vẫn cầm chiếc quạt tay phơ phất...
Chiều vắt nốt những giọt nắng cuối cùng, nàng vào bếp sửa soạn bữa tối, từ nhà bên vọng sang tiếng kinh cầu ấm áp. Ăn chưa hết bát cơm đêm đã sập xuống, nàng bỗng nghe từ vườn rừng vọng sang tiếng sáo, ban đầu còn khe khẽ, càng về sau càng vút cao, nhiều năm rồi nàng mới lại nghe tiếng sáo vẳng trong đêm. Ngày Phan chưa đi xa anh thường rủ nàng ra đê, nàng còn nhớ đó là những đêm sao chi chít trên trời, Phan thổi cho nàng nghe những bản nhạc học được từ người ông. Tiếng sáo càng lúc càng gần, réo rắt rồi ngưng bặt. Nàng khựng lại, bật đèn nhìn ra, ngoài trời tối om chỉ có tiếng côn trùng rả rích.
Đêm sau tiếng sáo lại cất lên, ban đầu còn rời rạc, một lát như có cả tiếng gió quyện về, du dương, bất tận. Nàng lại đến bên cửa sổ, đêm không trăng, ánh đèn ngủ hắt bóng nàng lên tường, bất động.
… Sẩm tối về đến nhà ăn qua quít bát cơm, nàng lại đến bên ô cửa hồi hộp chờ đợi. Như đã hẹn, tiếng sáo từ vườn rừng lại vút lên, nàng khẽ khàng mở cửa ra ngoài. Xóm Địa Đàng về đêm chìm trong bóng trăng nhàn nhạt, chỉ còn nghe tiếng lũ mèo hoang đi lạo xạo trên mái ngói. Nàng băng qua vườn rừng, cúi xuống cởi giày, rón rén đi trên thảm lá khô, dưới chân nàng tiếng lá vỡ vụn, đàn đom đóm xanh lét bay ra vật vờ, ma quái. Chẳng nhớ từ bao giờ nàng không còn cảm giác sợ hãi khi một mình trong đêm vắng. Nàng chạy về phía tiếng sáo vút lên, càng chạy, tiếng sáo càng xa như ai đó vừa thổi vừa trốn chạy nàng, trên cao tiếng gió đập vào cây roàm roạp, thảng có tiếng chim vút lên rồi im bặt. Trăng vẫn rọi một màu nhàn nhạt xuống vườn rừng, bóng nàng nhợt nhòa lẫn vào bóng cây, khoảng cách giữa nàng và tiếng sáo xa dần, chỉ còn vẳng lại thanh âm rất nhỏ. Nàng quay trở lại, bước đi như vô thức. Lúc này tiếng sáo lại vút lên, xa xăm và ma mị, nàng lấy hai tay bịt chặt tai, trên đầu nàng tiếng một con chim lạ vang lên lảnh lót giữa đêm…
Nàng choàng tỉnh trời đã sáng. Ngoài kia mảnh trăng non còn vắt bên trời, gió cuộn về lay tấm màn phần phật, bên bậu cửa những giọt nước mưa lộp bộp rơi. Nàng hé mắt nhìn dòng nước mưa trên ô cửa kính chảy ngoằn ngoèo rồi uể oải ngồi dậy pha cốc sữa. Con mèo Mun đi ngoài mưa về ướt sũng, đứng rũ lông rồi nhảy vào lòng nàng khẽ “meo meo” nũng nịu. Nàng ngồi ngắm mưa qua làn kính, lúc cúi xuống cốc sữa không còn giọt nào, hóa ra mèo Mun uống hết nhẵn. Nàng cốc yêu vào đầu nó rồi bỏ ra ban công nhìn sang vườn rừng, nàng nghĩ đến tiếng sáo đêm qua. Mưa đã tạnh, chỉ còn hơi đất xông lên mang theo mùi bùn đất nồng nàn.
Chiều muộn. Những vệt nắng cuối ngày đã tắt, nàng lại ngóng sang vườn rừng. Tiếng kinh cầu từ nhà bên vẫn vọng sang đều đặn, bình thản. Trăng lên, xanh mướt và dịu dàng bàng bạc soi xuống vườn rừng yên ắng… Nàng đợi, đến nửa đêm tiếng sáo không vút lên như mọi lần, ngoài kia mảnh trăng lơ lửng, xa cách và lạnh lẽo, nàng rùng mình tắt đèn nhìn vũng trăng lõng lãnh tràn qua ô cửa. Trên kệ sách những con thú bằng đất sét đứng nối đuôi nhau, chúng cũng bị trăng nhuộm thành một màu vàng chạch...
Chiều vừa ngả sang màu tối nàng đã nép vào cửa sổ chờ đợi, cảm giác như ai đó biết nàng đang dõi theo. Quá nửa đêm tiếng sáo vẫn mất hút như thể nó chưa từng tồn tại trên đời. Đêm sau… đêm sau nữa, cảm giác như thân thể nàng đông cứng lại vì hồi hộp nhưng tiếng sáo vẫn bặt tăm.
… Con đường mờ mờ trải dài thảm lá khô, hoang dã và dịu dàng, nàng nhón chân dẫm lên, những vệt nắng chiều hắt xuống tàng cây rưới lên thảm lá một màu buồn bã. Từ xa bất chợt vọng lại tiếng sáo, vút lên rồi ngưng bặt như thể người thổi sáo đang đi thì bị rơi xuống vực. Nàng vội vã chạy lại, bên cội cây già một người đàn ông trung niên ngồi quay về phía nàng, gương mặt vuông và chiếc cằm bạnh gai góc trông ông khắc khổ và lạnh lùng, trên tay ông chiếc sáo trúc màu nâu bóng lên trong nắng chiều. Nàng nép sau cội cây yên lặng. Như linh cảm có người đang nhìn, ông ngẩng lên, lúc này nàng khẽ gật đầu chào, lí nhí: “Tình cờ qua đây tôi nghe tiếng sáo…”. Người đàn ông yên lặng, xoay xoay cây sáo trúc trong tay. Nàng rón rén lại gần: “Tôi mới dọn về đây, nhà tôi ở bên kia vườn rừng, mấy đêm trước tôi nghe tiếng sáo của ông, hơn một tuần nay… tôi đợi nhưng không còn nghe nữa”. Người đàn ông quay đi, nàng thoáng nghe tiếng cười trầm đục: “Cô cũng thích sáo sao?”, đột nhiên ông hỏi. “Vâng”, nàng gật đầu. “Nhưng… tiếng sáo cô nghe trong đêm là của con gái tôi, còn tôi, ban nãy buồn miệng thổi vui thôi”. “Thật vậy sao?”, nàng ngạc nhiên. Người đàn ông không trả lời, ngoái nhìn phía chân đồi như đợi ai. Mưa lắc rắc, từ xa thấp thoáng bóng một cô gái tập tễnh đi, trong làn mưa bụi dáng cô liêu xiêu, mong manh đến đáng thương. Cô đến gần, nàng nhận ra đó là một cô bé và ngờ ngợ đã nhìn thấy cô ở đâu rồi, mái tóc đen xõa xuống vai, gương mặt lạ lùng và thoát tục như không liên quan gì đến thế giới này. Đến bên người đàn ông, cô bé âu yếm gọi: “Mình về thôi, cha!”.
Người đàn ông lẳng lặng vào cái chòi canh gần đấy đẩy ra chiếc xe lăn, cô bé ngồi vào, mân mê chiếc sáo trúc trên tay, bất chợt cô ngoái lại nhìn nàng, đôi mắt trong chiều muộn ánh lên vẻ hoang dã. Nàng lại gần bắt chuyện: “Chị đã nghe tiếng sáo của em đôi lần trong đêm”. Nàng vịn tay vào chiếc xe lăn. “Từ đó chị đợi, nhưng… không còn nghe nữa”. “Chị thích sáo à?” - Cô bé reo lên, hàng mi khẽ chớp mắt ánh lên vẻ trẻ thơ: “Tuần rồi em ốm” giọng cô chùng lại. Một thoáng yên lặng, dường như chẳng để ý đến những hạt mưa bụi đang rơi, cô bé nâng cây sáo lên môi chầm chậm thổi. Tiếng sáo dìu dặt cất lên một giai điệu xưa cũ nghe nức nở. Nàng khẽ rùng mình, những giọt mưa bắt đầu nặng hạt, cô bé vẫn say sưa thổi cho đến khi gương mặt trắng nhợt, những sợi tóc lơ thơ bết vào vầng trán lấm tấm mưa. Giai điệu chưa dứt, cô buông ống sáo tựa đầu vào tay cha, lát sau gượng dậy cô thỏ thẻ: “Hôm nào chị đến đây em thổi sáo chị nghe”. Cô đưa tay chỉ: “Nhà em ở kia, giờ thì tạm biệt chị!”. Cô quay sang người đàn ông gọi khẽ: “Con muốn về nhà!”.
Người đàn ông đẩy chiếc xe lăn từ từ xuống dốc, đi một quãng cô bé còn ngoái lại nhìn nàng, bàn tay đưa lên cao vẫy vẫy. Nàng vẫn đứng yên nhìn theo bóng hai cha con chìm dần trong mưa.
… Mùa đông. Rừng bạch đàn trụi lá. Buổi chiều nàng lại lang thang vào vườn rừng. Bạch đàn bị đốn chất thành đống la liệt, cảm giác vườn rừng cô quạnh và lạnh lẽo hơn. Từ xa nàng nhìn thấy căn nhà gỗ của cha con cô bé nằm cô đơn trên đồng cỏ, căn nhà khép cửa, xung quanh không có lấy một cái hàng rào, những bụi hoa dại quanh nhà đua nhau nở những bông hoa li ti. Có tiếng cót két cánh cửa gỗ bật ra, người đàn ông hôm nọ dường như nhận ra nàng, ông khẽ gật đầu. Nàng ngập ngừng: “Tôi đến thăm cô bé”. Người đàn ông mỉm cười, nụ cười khiến những nếp nhăn trên trán ông hằn sâu thêm vẻ khắc khổ.
Nàng luýnh quýnh đi vào, bờ đất đắp tạm bợ làm con đường thêm lầy lội, chiếc váy dài chấm gót khiến nàng suýt ngã. Bên trong nhà tối om, ánh đèn tù mù hắt xuống đủ để nàng nhìn thấy một cuộc sống khốn khó nơi đây. Chiếc giường nhỏ kê góc nhà cạnh chiếc tủ gỗ mốc thếch, chiếc xe đạp đi rừng bám đầy bùn đất dựng bên bếp lửa… tất cả vật dụng trong nhà đều cũ kỹ, ám khói. Trên bức tường vôi loang lổ, bức ảnh đen trắng cô bé với cây sáo trúc trên tay, đôi mắt cô khép lại, vạt nắng sau lưng chiếu vào mái tóc buông xõa. Một vẻ đẹp trong ngần, nàng thầm nghĩ. Người đàn ông rót ly nước chè trong ấm ra mời nàng: “Con bé xin về nhà cha mẹ nó chơi vài hôm, chắc cũng sắp về rồi”. Ông khẽ nói. “Ôi!”, nàng kêu lên: “Cô ấy là...?”. Người đàn ông gật đầu: “Vâng, là con gái nuôi của tôi”. Ông run run rút điếu thuốc châm lửa, gương mặt trong chiều muộn ưu trầm hơn. Nàng nén tiếng thở dài nhè nhẹ, nhìn ra đồng cỏ: “Ngày trước tôi… cũng là đứa trẻ bị bỏ rơi”. Nàng thốt lên rồi im bặt, mắt vẫn dõi ra xa nhưng nàng biết người đàn ông đang chăm chú nhìn nàng. “Và rồi, mọi thứ được an bài cả. Chúng ta đừng bi lụy khi cuộc đời không nuông chiều như ta muốn”. Nói đến đây nàng im bặt, ngơ ngác nhìn người đàn ông, thầm nghĩ không hiểu sao nàng lại có thể nói với ông những điều này một cách tự nhiên đến thế.
Người đàn ông lặng lẽ rít hơi thuốc thật dài, chầm chậm nhả khói: “Mười ba năm trước tình cờ tôi nhặt được con bé trong vườn rừng, lúc hai tháng tuổi với đôi chân không được lành lặn, mười ba năm nó sống bên tôi... Mới đây, mẹ nó tìm con, âu cũng là định mệnh”. Ông đưa tay chỉ về phía xóm Địa Đàng: “Từ ngày gặp được con, mẹ nó đã dọn về đây để con bé chạy đi chạy lại. Từ nhỏ nó đã mê sáo trúc, ngày đó canh vườn rừng là ông cụ chuyên thổi sáo, thấy nó mê ông thương nên dạy, nó học nhanh lắm, chiều nào cũng lang thang trong vườn rừng thổi, có khi đến đêm, thương quá tôi mua cho chiếc xe lăn…”. Nói đến đây người đàn ông dừng lại xúc động, ánh mắt chấp chới nhìn ra ngõ như ngóng đợi: “Chỉ thương con bé bệnh, tôi đang chạy chữa, mẹ nó đêm nào cũng gõ mõ cầu nguyện...”.
Nàng ngước nhìn gương mặt gai góc nhưng không giấu được đôi mắt cứ ánh lên ấm áp khi nhắc đến con. Nhìn trời chiều giăng kín sương mù, nàng vội đứng lên xin phép ra về. Ông đưa nàng một đoạn, trong màn sương mù âm u, đôi vai ông so lại như cánh chim đã mỏi. Nàng chầm chậm đi, chợt nghe văng vẳng tiếng kinh cầu từ đâu vọng lại, đều đặn và bình thản. Ông đưa nàng đến cội cây hôm nào rồi tạm biệt. Nàng quay đi, trong chiều muộn tiếng kinh cầu vẫn khe khẽ ngân lên, không dứt...
Kết Thúc (END) |
|
|